Trong những năm gần đây , nền kinh tế nước ta đã có nhiều biến đổi quan trọng theo hướng tích cực. Theo tinh thần nghị quyết của Đại hội đảng toàn quốc lần thứ X . Nền kinh tế nước ta tiếp tục được định hướng theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế trong những năm gần đây . Trong quá trình hoạt động kinh doanh của các đơn vị, tổ chức doanh nghiệp đã có rất nhiều thay đổi và định hình phù hợp với cơ chế của kinh tế thị trường. Kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải rất năng động, nhạy bén với mục đích cốt lõi là thoả mãn nhu cầu thị trường nhằm thu nhiều lợi nhuận .
Một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả là kết quả của sự kết hợp chặt chẽ hàng loạt các chiến lược, chính sách, biện pháp với những hoạt động cụ thể như mua, bán, dự trữ, tồn kho, tổ chức lao động và sử dụng vốn.Chính sách này có liên quan đến chính sách khác tạo thành hệ thống chính sách , chiến lược trong lĩnh vực kinh doanh , đem lại hiệu quả cho doanh các nghiệp.
Thực tế hiện nay , trên thị trường có rất nhiều cơ sở tư nhân cùng kinh doanh mặt hàng hoá chất, tạo thành một khu vực thị trường cạnh tranh rất sôi động và quyết liệt, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp muốn dành thắng lợi phải có định hướng kinh doanh cụ thể và hợp lý. Công ty Hoá chất-Bộ thương mại là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả trong lĩnh vực này. Công ty là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh có tổ chức, Công ty xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh có chính sách trong từng thời cuộc cụ thể, có mạng lưới kinh doanh rộng lớn đảm bảo cho quá trình mua bán diễn ra nhanh chóng và thông suốt, uy tín của công ty đối với khách hàng ngày càng được củng cố và nâng cao.
Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa của vấn đề kinh doanh , sau thời gian thực tập tốt nghiệp ở Công ty Hoá chất-Bộ thương mại được, sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy giáo TS Nguyễn Văn Tuấn , sự đồng ý và tạo nhiều điều kiện thuận lợi của các cô chú trong công ty em xin được nghiên cứu và trình bày đề tài :
“Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ở Công ty Hoá chất-Bộ thương mại”
Nội dung của đề tài được trình bày trong 3 phần chính .
CHƯƠNG I : Kinh doanh hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường.
CHƯƠNG II : Phân tích thực trạng kinh doanh của Công ty Hoá chất-Bộ thương mại.
CHƯƠNG III : Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ở Công ty Hoá chất- Bộ thương mại
70 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 993 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ở Công ty Hoá chất-Bộ thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong những năm gần đây , nền kinh tế nước ta đã có nhiều biến đổi quan trọng theo hướng tích cực. Theo tinh thần nghị quyết của Đại hội đảng toàn quốc lần thứ X . Nền kinh tế nước ta tiếp tục được định hướng theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế trong những năm gần đây . Trong quá trình hoạt động kinh doanh của các đơn vị, tổ chức doanh nghiệp đã có rất nhiều thay đổi và định hình phù hợp với cơ chế của kinh tế thị trường. Kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải rất năng động, nhạy bén với mục đích cốt lõi là thoả mãn nhu cầu thị trường nhằm thu nhiều lợi nhuận .
Một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả là kết quả của sự kết hợp chặt chẽ hàng loạt các chiến lược, chính sách, biện pháp với những hoạt động cụ thể như mua, bán, dự trữ, tồn kho, tổ chức lao động và sử dụng vốn...Chính sách này có liên quan đến chính sách khác tạo thành hệ thống chính sách , chiến lược trong lĩnh vực kinh doanh , đem lại hiệu quả cho doanh các nghiệp.
Thực tế hiện nay , trên thị trường có rất nhiều cơ sở tư nhân cùng kinh doanh mặt hàng hoá chất, tạo thành một khu vực thị trường cạnh tranh rất sôi động và quyết liệt, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp muốn dành thắng lợi phải có định hướng kinh doanh cụ thể và hợp lý. Công ty Hoá chất-Bộ thương mại là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả trong lĩnh vực này. Công ty là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh có tổ chức, Công ty xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh có chính sách trong từng thời cuộc cụ thể, có mạng lưới kinh doanh rộng lớn đảm bảo cho quá trình mua bán diễn ra nhanh chóng và thông suốt, uy tín của công ty đối với khách hàng ngày càng được củng cố và nâng cao.
Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa của vấn đề kinh doanh , sau thời gian thực tập tốt nghiệp ở Công ty Hoá chất-Bộ thương mại được, sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy giáo TS Nguyễn Văn Tuấn , sự đồng ý và tạo nhiều điều kiện thuận lợi của các cô chú trong công ty em xin được nghiên cứu và trình bày đề tài :
“Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ở Công ty Hoá chất-Bộ thương mại”
Nội dung của đề tài được trình bày trong 3 phần chính .
CHƯƠNG I : Kinh doanh hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường.
CHƯƠNG II : Phân tích thực trạng kinh doanh của Công ty Hoá chất-Bộ thương mại.
CHƯƠNG III : Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ở Công ty Hoá chất- Bộ thương mại
CHƯƠNG I : KINH DOANH hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường
I - Kinh doanh hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường
1- Mục tiêu của kinh doanh thương mại
Kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện quá trình dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời .
Kinh doanh thương mại là một dạng của lĩnh vực đầu tư để thực hiện dịch vụ lưu thông hàng hoá trên thị trường nhằm mục đích sinh lời .
Mục đích lợi nhuận là mục đích trước mắt, lâu dài và thường xuyên của quá trình hoạt động kinh doanh, nó cũng là nguồn động lực của kinh doanh. Muốn có lợi nhuận thì doanh thu bán hàng và dịch vụ phải lớn hơn chi phí kinh doanh. Muốn có doanh thu bán hàng và dịch vụ lớn thì phải chiếm được khách hàng, phải bán được nhanh, nhiều hàng hoá và phải giảm các khoản chi phí kinh doanh có thể và không cần thiết. Trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường việc thu hút được khách hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải kinh doanh loại hàng hoá phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng, được khách hàng chấp nhận. Lợi nhuận và sự kỳ vọng về nó phụ thuộc vào loại hàng hoá và chất lượng hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh , ngoài ra khối lượng và giá cả hàng hoá bán được, cung cầu hàng hoá trên thị trường, chi phí và tốc độ tăng giảm chi phí của kinh doanh ..vv cũnglà nhân tố cực kì quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
Kinh doanh chịu tác động của vô vàn các nhân tố chủ quan và khách quan, vấn đề rủi ro trong kinh doanh là thường xuyên, do vậy an toàn là mục tiêu thứ hai mà nhà kinh doanh cần quan tâm. Trên thị trường kinh doanh có nhiều biến động và rủi ro, vì vậy trong hoạt động kinh doanh vấn đề bảo toàn và phát triển vốn để kinh doanh đạt liên tục đòi hỏi phải đặt ra mục tiêu an toàn cho kinh doanh theo nguyên tắc đa dạng hoá kinh doanh, tức là “Trứng không bỏ hết vào một giỏ “ phải có chi phí bảo hiểm cho kinh doanh mặc dù các quyết định đưa ra phải rất nhanh, nhạy dám chịu mạo hiểm nhưng việc cân nhắc mặt lợi, mặt hại, tầm nhìn xa trông rộng và bản lĩnh của người ra quyết định luôn phải quán triệt mục tiêu an toàn để chánh những rủi ro thiệt hại có thể sảy ra.
Với ngành nào, lĩnh vực nào cũng không phải chỉ mình ta kinh doanh mà còn nhiều người khác cũng kinh doanh, vấn đề là làm sao chiếm lĩnh được thị trường, tạo được chỗ đứng trên thị trường ngày càng vững chắc. Vị trí chở thành mục tiêu thứ ba của doanh nhân, doanh nghiệp phải xác định được vị trí của mình để từ đó đặt ra hướng phát triển cho phù hợp, nhằm mục đích củng cố thế lực trong kinh doanh. Mục đích thế lực là mục tiêu phát triển cả về quy mô kinh doanh, cả về thị phần trên thị trường, đòi hỏi doanh nghiệp phải không ngừng tăng doanh số bán hàng, cung cấp dịch vụ và phát triển thị trường, tăng từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ chỗ chen được vào thị trường tiến tới chiếm lĩnh thị trường và làm chủ thị trường. Kì vọng về thế lực trong kinh doanh phụ thuộc vào nguồn lực, tài năng và cơ chế quản lí kinh tế của nhà nước trong từng giai đoạn.
Mục tiêu chính của kinh doanh vẫn là tạo ra lợi nhuận. Nhưng đối với mỗi doanh nghiệp mỗi lúc thường có nhiều nhu cầu và không phải lúc nào cũng thoả mãn được tất cả các nhu cầu đó trong cùng một thời điểm, nên đòi hỏi phải có sự phân loại các nhu cầu nghĩa là phải có sự lựa chọn mục tiêu. Những mục tiêu nào quan trọng nhất, có khả năng thực hiện lớn nhất sẽ được doanh nghiệp thực hiện trước nhất và mục tiêu đó sẽ được đặt nên hàng đầu. Vì vậy việc lựa chọn mục tiêu thường được biểu diễn dưới dạng hình tháp còn được gọi là “ tháp mục tiêu “ trong đó những mục tiêu quan trọng và dễ thực hiện được đặt nên trên nhất và cứ thế tuần tự đến các mục tiêu lâu dài đòi hỏi phải được thực hiện trong những khoảng thời gian dài hơn:
Mục tiêu quan trọng nhất
Mục tiêu lâu dài hơn
Đối với DNTM hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá thường có ba mục tiêu cơ bản đó là mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu an toàn và mục tiêu vị thế. Khi doanh nghiệp mới bước vào hoạt động hay đang trong giai đoạn cạnh tranh khốc liệt thì mục tiêu an toàn được đặt lên hàng đầu và khi mục tiêu an toàn được thực hiện, thì mục tiêu vị thế hoặc mục tiêu lợi nhuận sẽ được doanh nghiệp tiếp tục thực hiện, mục tiêu lợi nhuận sẽ là mục tiêu lâu dài và quan trọng nhất đối với mỗi doanh nghiệp nhưng khi vị thế của doanh nghiệp được khẳng định trên thị trường tức là doanh nghiệp đã có chỗ đứng trên thị trường, tạo được uy tín đối với khách hàng thì mục tiêu lợi nhuận sẽ càng được củng cố và có khả năng thực hiện. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh doanh, các DNTM hoạt động trên thương trường phải tuân thủ các quy luật cơ bản của kinh doanh, nếu làm khác đi doanh nghiệp sẽ chuốc lấy thất bại. Kinh doanh có quy luật riêng của nó.
+Quy luật hàng hoá vận động từ nơi có giá trị thấp đến nơi có giá trị cao. Nếu đi đúng đường này doanh nghiệp sẽ dành thắng lợi, ngược lại sẽ bị thua lỗ.
+ Quy luật mua rẻ bán đắt. Thuận thì có chênh lệch được gọi là lợi nhuận, ngược thì phải bù lỗ.
+ Quy luật “ mua của người chán, bán cho người cần “. Hàng hoá người bán đã chán thì muốn bán cho nhanh, bán rẻ, còn người cần thì thường trả giá cao.
2- Nội dung của kinh doanh thương mại trong nền kinh tế thị trường
a) Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá và dịch vụ để lựa chọn kinh doanh:
Đối tượng của kinh doanh thương mại là hàng hoá và các dịch vụ trong buôn bán hàng hoá. Doanh nghiệp có thể kinh doanh một loại hàng hoá ( chuyên doanh ) hoặc một nhóm hàng hoá ( tổng hợp ) nhưng trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh doanh nghiệp phải nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá đó, xem kinh doanh hàng hoá gì? Số lượng bao nhiêu? Chất lượng, giá cả như thế nào? ...vv để đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Nghiên cứu và xác định nhu cầu của thị trường mà doanh sẽ đáp ứng, đồng thời doanh nghiệp phải nghiên cứu và xác định khả năng của nguồn hàng, khả năng có thể khai thác, đặt hàng và thu mua để đáp ứng cho nhu cầu của khách hàng. Việc nghiên cứu và xác định nhu cầu của thị trường về loại hàng hoá phục vụ cho kinh doanh không phải chỉ một lần mà phải được thực hiên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển kinh doanh.
b) Huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực đưa vào kinh doanh:
Bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào cũng là huy động các nguồn vốn và con người, đưa vào hoạt động để tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Các nguồn lực mà doanh nghiệp có thể huy động như: vốn hữu hình ( nhà cửa, kho hàng, quầy hàng...vv ) vốn vô hình ( sự nổi tiếng của nhan hiệu hàng hoá, uy tín của khách hàng...vv ) Doanh nghiệp cần kết hợp các nguồn lực và con người để tiến hành kinh doanh sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Việc huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực, về cơ bản đó là tài năng của giám đốc và hệ thống tham mưu giúp giám đốc cũng như sự phát huy của mọi thành viên trong doanh nghiệp .
c) Tổ chức các hoạt động nghiệp vụ mua, bán, dự trữ, bảo quản, vận chuyển, khuyến mại và các hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng :
Hoạt động kinh doanh cơ bản của DNTM là mua để bán. Tổ chức tạo nguồn hàng, khai thác đặt hàng, ký kết hợp đồng kinh tế để đảm bảo nguồn hàng cho doanh nghiệp có hàng hoá đáp ứng nhu cầu khách hàng .Tổ chức phân phối và bán hàng là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng nhất bởi vì chỉ có bán được hàng doanh nghiệp mới thu hồi được vốn, mới có nguồn trang trải chi phí và thu được lợi nhuận. Doanh nghiệp phải dự trữ hàng hoá để đảm bảo cung ứng đầy đủ kịp thời , đồng bộ và ổn định cho khách hàng.
Để thực hiện các nghiệp vụ mua, bán, dự trữ hàng hóa, doanh nghiệp phải tổ chức mạng lưới mua bán, các kho dự trữ, các cửa hàng quầy hàng để bán hàng. Đồng thời phải thực hiện các nghiệp vụ vận chuyển giao nhận, thanh toán với người mua hàng, người bán hàng...vv Trong hoạt động kinh doanh phải thực hiện hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng, chỉ có thực hiện hoạt động dịch vụ mới có thể thu được khách hàng
d) Quản trị vốn, chi phí, hàng hoá và nhân sự trong quá trình hoạt động kinh doanh:
Quản trị kinh doanh thương mại phải quản trị vốn kinh doanh , chi phí kinh doanh, hàng hoá và nhân sự.
Quản trị vốn là thực hiện sử dụng vốn trong kinh doanh, theo dõi được kết quả sử dụng vốn xem có lãi hay lỗ . Phải quản lý được các khoản chi và phải chi đúng mục đích , đúng kế hoạch và đúng hướng.
Quản trị chi phí là phải có kế hoạch chi , phải theo dõi và tính toán đúng đắn các khoản chi, tiết kiệm chi phí .
Quản trị hàng hoá là phải nắm được quy trình quy phạm bảo quản loại hàng hoá và không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ của các cán bộ công nhân viên có liên quan .
Quản trị nhân sự là lựa chọn, bố trí , sắp xếp phân công công việc phù hợp để hoàn thành tốt mọi chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp. Quản trị nhân sự cũng như quản trị các hoạt động kinh doanh phải thực hiện các chức năng hoạch định, tổ chức , cán bộ, chỉ huy và kiểm tra.
3- Đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại
3.1- Doanh nghiệp thương mại và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường
a) Doanh nghiệp thương mại và chức năng của nó
* Doanh nghiệp thương mại :
Quá trình phân công lao động xã hội và chế độ về tư hữu tư liệu sản xuất đã làm nảy sinh ra nền sản xuất hàng hoá. Quá trình sản xuất bao gồm: sản xuất, phân phối trao đổi và tiêu dùng. Tiền tệ ra đời đã làm cho quá trình trao đổi mang hình thái mới là lưu thông hàng hoá với hai thái cực đối lập là mua và bán. Thực hiện hai thái cực này dần dần trở thành các chức năng hoạt động của một loại người, đó là thương nhân. Như vậy thương mại trở thành lĩnh vực kinh doanh. Quy luật chi phối hoạt động mua bán này là mua rẻ bán đắt. Dùng tiền của để mua hàng hoá rồi sau đó lại đem bán lại , phần chênh lệch giữa giá bán và giá mua chính là lợi nhuận.
Thương nhân và sản xuất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tuân theo quy luật nhất định. Mối quan hệ này thể hiện thông qua hoạt động của các doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế hàng hoá.
Như vậy DNTM là một đơn vị kinh doanh được thành lập với mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường nhằm thu lợi nhuận.
Chức năng của doanh nghiệp thương mại
Doanh nghiệp thương mại là những DN hoạt động trong lĩnh vực phân phối lưu thông hàng hoá, nó có một số chức năng sau:
- Thứ nhất là chức năng lưu chuyển hàng hoá trong nền kinh tế nhằm thoả mãn mọi nhu cầu xã hội. Đây là chức năng xã hội của DNTM. Với chức năng này các DNTM phải nghiên cứu và nắm vững nhu cầu thị trường, huy động và sử dụng hợp lý các nguồn hàng trong nền kinh tế, tổ chức các mối quan hệ giao dịch thương mại, bảo đảm phân phối hợp lý hàng hoá vào các kênh tiêu thụ.
- Thứ hai là chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông, chức năng này thể hiện việc mà các DNTM thực hiện như phân loại hàng hoá, lên nhãn hiệu, ghép đồng bộ sản phẩm, bảo quản và vận chuyền hàng hoá...vv .
Thực hiện chức năng này, hàng hoá qua các DNTM được duy trì và làm tăng thêm giá trị sử dụng, thoả mãn tốt được nhu cầu của khách hàng, nâng cao khả năng thâm nhập thị trường của hàng hoá kinh doanh.
- Thứ ba là chức năng thực hiện giá trị hàng hoá. Các DNTM chuyên mua bán hàng hoá , mua không phải là mục đích hoạt động , mua để bán, có bán được thì mới mua, khi mua hàng hoá các DNTM đã làm chức năng tiêu thụ sản phẩm cho nhà sản xuất.
Mục đích hoạt động của DNTM là nhằm thu được lợi nhuận. Muốn thu được lợi nhuận thì phải bán được hàng hoá để mua. Giá bán phải cao hơn giá mua và cộng thêm các chi phí. Nếu không bán được hàng hoá hoặc bán được với giá thấp hơn giá vốn thì doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ và có nguy cơ phá sản.
- Thứ tư là chức năng tổ chức sản xuất. Doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá không phải chỉ tác động trong lưu thông. Qua hoạt động mua bán các DNTM có ảnh hưởng to lớn đến quá trình tái sản xuất thúc đẩy hoặc làm đình trệ sản xuất. Nó góp phần phân bổ, tổ chức lại sản xuất xã hội, hình thành những quan hệ kinh tế mới. Điều đó thể hiện ở ba mặt sau:
+ Doanh nghiệp thương mại là người đại diện cho người tiêu dùng để quan hệ với các doanh nghiệp sản xuất, ở đây các DNTM phải am hiểu nhu cầu của người tiêu dùng để đặt hàng với người sản xuất, hướng dẫn sản xuất phù hợp với yêu cầu của thị trường, nắm chắc khách hàng và sở thích của họ
+ DNTM là người đại diện cho nhà sản xuất để quan hệ với người tiêu dùng. Thực hiện chức năng này, các DNTM phải điều tra nghiên cứu thị trường để giúp người sản xuất chiếm lĩnh được thị trường, hướng dẫn các đơn vị tiêu dùng về sử dụng hợp lý, có hiệu quả hàng hoá, làm dịch vụ thương mại , quảng cáo , giới thiệu sản phẩm cho các DNSX , giúp nhà sản xuất tiêu thụ được nhanh hàng hoá.
+ DNTM là người trung gian giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng, các DNTM đảm bảo sự cân đối cung cầu hàng hoá , ghép mối hợp lý người sản xuất với người tiêu dùng , tổ chức sự vận động hợp lý của sản phẩm hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân.
b) Nhiệm vụ của doanh nghiệp thương mại
Để hiện tốt các chức năng trên DNTM có một số nhiệm vụ cụ thể sau :
+ Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của sản phẩm trong nền kinh tế quốc dân, tổ chức tốt khâu mua, bán, giảm bớt khâu trung gian.
+ Giảm chi phí kinh doanh và tăng lợi nhuận, đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng.
+ Đẩy mạnh phát triển các dịch vụ thương mại , thực hiện các hoạt động tiếp tục sản xuất trong lưu thông.
+ Không ngừng hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý mạng lưới kinh doanh
+ Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước, xã hội và người lao động, có trách nhiệm bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên phạm vi doanh nghiệp và thực hiện tốt các vấn đề bảo vệ môi trường.
3.2 - Các hình thức kinh doanh thương mại
a) Kinh doanh chuyên môn hoá
Doanh nghiệp chỉ kinh doanh một hoặc một nhóm hàng hoá nhất định chẳng hạn doanh nghiệp chuyên kinh doanh xăng dầu, kinh doanh lương thực...
Loại hình kinh doanh này có ưu điểm:
- Nắm chắc được thông tin về người mua, người bán, giá cả, thị trường, tình hình hàng hoá và dịch vụ nên có khả năng làm chủ được thị trường vươn lên thành độc quyền kinh doanh
- Trình độ chuyên môn hoá ngày càng được nâng cao , có điều kiện để hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống các cơ sở vật chất chuyên dùng tạo ra lợi thế lớn trong cạnh tranh .
- Có khả năng đào tạo được những cán bộ quản lí, các chuyên gia và nhân viên kinh doanh giỏi về chuyên môn nghiệp vụ .
Bên cạnh đó, loại hình kinh doanh này cũng có những nhược điểm nhất định.
- Trong điều kiện cạnh tranh, xu thế tất yếu của nền kinh tế thị trường thì hệ số rủi ro cao.
- Khi mặt hàng kinh doanh bị bất lợi thì sự chuyển hướng kinh doanh chậm.
b) Kinh doanh tổng hợp
Doanh nghiệp kinh doanh rất nhiều loại hàng hoá khác nhau , kinh doanh không lệ thuộc vào hàng hoá hay thị trường truyền thống , bất cứ hàng hoá nào có lợi thế thì doanh nghiệp kinh doanh , đây là loại hình kinh doanh kiểu như các cửa hàng bách hoá tổng hợp.
Loại hình kinh doanh này có ưu điểm
- Hạn chế được rủi ro trong kinh doanh do dễ chuyển hướng kinh doanh, khi một loại hình hàng hoá nào đó mà kinh doanh bất lợi thì doanh nghiệp có thể nhanh chóng chuyển sang kinh doanh hàng hoá khác.
- Vốn kinh doanh ít bị ứ đọng do mua nhanh, bán nhanh và đầu tư vốn cho nhiều mặt hàng có khả năng quay vòng nhanh
- Có thị trường rộng và phải luôn đối đầu với cạnh tranh nên kích thích tính năng động , sáng tạo và đòi hỏi sự hiểu biết nhiều của người kinh doanh.
Nhược điểm của loại hình kinh doanh tổng hợp là:
- Khó trở thành độc quyền trên thị trường và ít có điều kiện tham gia các liên minh độc quyền.
- Với mỗi ngành hàng chỉ là nghành kinh doanh nhỏ, không ổn định do vậy không thể tìm kiếm lợi nhuận siêu nghạch.
- Không bộc lộ được sở trường kinh doanh. Do không chuyên môn hoá nên khó đào tạo chuyên môn và bồi dưỡng được các chuyên gia nghành hàng giỏi.
II- NộI dung việc đẩy mạnh kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại
1- xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh ở DNTM
a) Chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại
Nhà kinh doanh với những đức tính cần thiết và sự am hiểu kỹ năng quản trị kinh doanh, chưa thể đưa doanh nghiệp của mình đến thành công nếu chưa đề ra được chiến lược kinh doanh phù hợp. Chiến lược đó thể hiện nội dung hoạt động, mục tiêu và các giải pháp ứng xử của doanh nghiệp trên thị trường. Chiến lược kinh doanh bao gồm một số nội dung chủ yếu sau:
Chiến lược quy mô kinh doanh và tích luỹ tài sản vô hình.
Quy mô kinh doanh của doanh nghiệp phải được xác định hợp lý trên cơ sở dự đoán dung lượng thị trường, tiềm lực kinh doanh. Doanh nghiệp phải xác định được điểm hoà vốn để tối ưu hoá quy mô kinh doanh. Chiến lược về quy mô kinh doanh bao gồm lựa chọn quy mô sản xuất tối ưu và chiến lược thích nghi sản phẩm, quy mô sản xuất tối ưu để tránh bị tồn kho ,ứ đọng hàng hoá, thích nghi sản phẩm để sản phẩm luôn phù hợp với nhu cầu thị trường. Doanh nghiệp cần xây dựng chu trình chiến lược sản phẩm: sản phẩm hiện có, sản phẩm cải tiến ,sản phẩm tương tự và sản phẩm mới.
Mỗi doanh nghiệp đều có hai loại tài sản.
+ Tài sản hữu hình: Đó là những yếu tố vật chất có tính định lượng như tiền vốn, vật tư, máy móc thiết bị và lao động...
+ Tài sản vô hình: Đó là lòng tin của khách hàng đối với doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp, là hình ảnh quen thuộc và nổi tiếng của nhãn hiệu, là các hiểu biết về thông tin khoa học kĩ thuật, là bầu không khí làm việc trong nội bộ doanh nghiệp, là kỹ năng quản trị...vv
Tài sản hữu hình và vô hình đều rất quan trọng, nếu xét về lâu dài thì tài sản vô hình lại quan trọng hơn , nó quyêt định sự thành công của doanh nghiệp. Tài sản vô hình là vũ khí cạnh tranh rất lợi hại trên thương trường.
Tài sản vô hình có thể tích lũy bằng hai cách:
- Cách trực tiếp là quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, huấn luyện nhân viên của hãng để giao tiếp tốt với khách hàng.
- Cách gián tiếp là tích lũy qua các hoạt động hàng ngày thông qua sự giao tiếp với khách hàng, thông qua những dịch vụ phục vụ khách hàng, sự tín nhiệm của sản phẩm và danh tiếng của doanh nghiệp được khách hàng ủng hộ.
Chiến lược thích nghi với môi trường:
Môi trường hoạt động của doanh nghiệp gồm môi trường bên trong và môi trường bên ngoài. Môi trường bên ngoài đó là khách hàng, sự cạnh tranh với các hãng khác và khoa học kỹ thuật.
+ Chiến lược khách hàng là việc đáp ứng chuỗi nhu cầu của khách hàng, đáp ứng những thay đổi trong nhu cầu kế hoạch của khách hàng.
+ Nội dung của chiến lược thích nghi với cạnh tranh bao gồm: xác định đối thủ cạnh tranh, tích luỹ và thực hiện lợi thế cạnh tranh, lựa chọn vũ khí cạnh tranh.
+ Đặc điểm nổi bật trong thời đại ngày nay là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra trên toàn thế giới. Các doanh nghiệp phải có chiến lược thích nghi với khoa học kĩ thuật . Đó là nghiên cứu về giới hạn năng lực kinh doanh của mình, có phương sách ứng xử hợp lí với sự phát triển công nghệ, tìm ra giải pháp mới trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật.
Tiếp theo, phải xây dựng chiến lược thích nghi với môi trường bên trong. Đó là hệ thống tổ chức, hệ thống kênh bán hàng, trình độ chuyên môn của cán bộ công nhân viên, hệ thống thông tin nội bộ, kĩ năng quản trị và sử dụng tài sản hữu hình
* Chiến lược Marketing thương mại
Marketing được coi là quá trình hoạch định và thực hiện một công việc để thoả mãn nhu cầu của khách hàng về hàng hoá và dịch vụ thông qua việc chuyển đưa các hàng hoá và dịch vụ từ sản xuất đến tiêu dùng.
Đối với các DNTM việc nắm bắt được bản chất của Marketing có một ý nghĩa rất lớn, vì Marketing là một công cụ quản lý kinh tế , là công cụ của kế hoạch hoá kinh doanh. Nhiệm vụ của Marketing trong DNTM là làm cho kinh doanh phù hợp với tiêu dùng , nhờ đó bán được nhiều sản phẩm và thu được lãi theo dự kiến, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp dồn đúng tiềm lực có hạn của mình vào các khâu, các điểm xung yếu của quá trình hoạt động kinh doanh.
Vai trò của Marketing thương mại trong kinh doanh của các doanh nghiệp đã được khẳng định , nó yểm trợ cho hoạt động kinh doanh , là vũ khí của nhà kinh doanh , nó khơi dòng cho lưu thông hàng hoá được thông suốt, liên tục . Các doanh nghiệp cần xác định rõ mục tiêu chiến lược Marketing đó là mở rộng thị trường , đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng thông qua các biện pháp nghiên cứu và thuyết phục khách hàng, nhằm thu lợi nhuận cao , tạo thế đứng vững vàng và ngày càng phát triển của doanh nghiệp.
b) Kế hoạch kinh doanh hàng hoá của doanh nghiệp thương mại
Lưu chuyển hàng hoá là khâu quan trọng của lưu thông hàng hoá, nó biểu hiện quá trình vận động hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng .
Đứng về tầm vĩ mô thì lưu chuyển hàng hoá có bốn loại:
+ Lưu chuyển hàng hoá (LCHH) là những tư liệu sản xuất, yếu tố đầu vào sản xuất của các DN, loại lưu chuyển này do các DNTM vật tư thực hiện.
+ Lưu chuyển hàng hoá là các nông sản do hệ thống các DN kinh doanh lương thực đảm nhiệm.
+ Lưu chuyển hàng hoá là các tư liệu tiêu dùng phục vụ cho tiêu dùng cá nhân, loại lưu chuyển này do các DNTM hàng tiêu dùng thực hiện.
+ Lưu chuyển hàng hoá là các sản phẩm XNK tham gia vào thương mại quốc tế loại lưu chuyển này do các DN XNK đảm nhiệm là chủ yếu
Trong thương mại, tổng mức lưu chuyển hàng hoá là cơ sở để kế hoạch hoá thu nhập, chi phí kinh doanh, lợi nhuận, vốn lưu thông, vốn đầu tư và các chỉ tiêu kinh tế khác.
Nhiệm vụ chủ yếu của việc hoạch định kế hoạch LCHH:
- Đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng về số lượng, chất lượng, chủng loại và thời hạn giao hàng, tạo điều kiện phân phối hợp lý hàng hoá và các kênh tiêu thụ.
- Khai thác tốt các nguồn hàng để thoả mãn đầy đủ các nhu cầu thị trường.
- Thiết lập hợp lí tỷ lệ giữa các hình thức lưu chuyển thẳng và lưu chuyển qua kho.
- Hình thành đầy đủ và đồng bộ lực lượng dự chữ hàng hoá ở các DNTM.
- Tăng nhanh tốc độ chu chuyển của vốn lưu động.
Nhiệm vụ này còn được Bộ thương mại thực hiện trong quá trình lập kế hoạch lưu chuyển hàng hoá bằng cách xác định đúng đắn các chỉ tiêu kế hoạch, cũng như trong quá trình thực hiện chúng thông qua việc tổ chức hoạch toán và kiểm tra hoạt động mua bán.
Các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch lưu chuyển hàng hoá gồm:
+ Doanh số bán hàng .
+ Doanh số mua vào.
+ Dự trữ hàng hoá đầu kì và cuối kì kế hoạch.
+ Tốc độ chu chuyển của vôn lưu động kì kế hoạch.
Đối với các DNTM, kế hoạch lưu chuyển được xây dựng bằng hai phương pháp:
- Phương pháp thống kê - kinh nghiệm:
Thực tế của phương pháp này là dựa trên cơ sở những số liệu báo cáo ho
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100212.doc