Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang trở thành một xu thế khách quan và tất yếu của tất cả các nước trên thế giới, không kể các nước đang phát triển hay phát triển, các nước giàu hay nghèo. Trong xu thế đó quốc gia nào có chiến lược, chính sách, biện pháp và công cụ quản lí hợp lí sẽ mang lại lợi ích, sự phát triển về kinh tế cho quốc gia đó, ngược lại sẽ mang lại kết quả xấu. Để có thể tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài đặc biệt là nguồn vốn, tiến bộ khoa học công nghệ. đòi hỏi các nước phải có sự mở cửa, sự giao lưu, buôn bán hợp tác với các nước trên thế giới mà đặc biệt là các nước tư bản phát triển. Tuy vậy đi song song với việc hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta cần phải có sự thống nhất nhận thức về việc giữ độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập. Đây là một mối lo ngại lớn với các nước trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển. Mối lo này phần nào cũng có lí do chính đáng bởi hầu hết các nước đang phát triển đều có xuất phát điểm từ một nền kinh tế ``nghèo nàn, lạc hậu, khoa học công nghệ còn thấp kém, năng suất lao động còn chưa cao, sức cạnh tranh về các loại hàng hoá trên thị trường thế giới thấp trong khi đó các nước đi trước có lợi thế hơn hẳn về mọi mặt, việc mở rộng quan hệ với các nước đó sẽ dẫn đến tình trạng các nước kém phát triển khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế và từ chỗ bị lệ thuộc về kinh tế có thể bị lệ thuộc về chính trị dẫn tới không giữ vững được chủ quyền. Thực tế ngày nay cho thấy có rất nhiều nước trên thế giới đã bị lệ thuộc quá nhiều vào các nước tư bản nên mọi đường lối, chính sách phát triển kinh tế đều bị các nước tư bản này chi phối và nắm giữ. Điển hình như nước Cuba có một thời gian đã bi phụ thuộc quá nhiều vào Mĩ. Vốn là một nước trồng rất nhiếu mía song khoa học kĩ thuật của nước này lại thấp kém cho nên để sản xuất đường Cuba phải nhập khẩu trang thiết bị của Mĩ. Lợi dụng thời cơ này Mĩ đã tìm mọi cách để gây áp lực về kinh tế đối với Cuba và buộc Cuba phải lệ thuộc vào Mĩ. Dựa vào đó Mĩ đã nắm được quyền chi phối về kinh tế cũng như chính trị ở Cuba.
Hiện nay nước Việt Nam ta cũng đang tham gia vào các tổ chức, hiệp hội trên thế giới. Nước ta cũng là một nước nghèo nàn, lạc hậu hơn rất nhiều so với các nước khác vì vậy chúng ta phải chủ động tham gia hội nhập kinh tế gắn liền với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Đảng và nhà nước ta đã xác định độc lập tự chủ kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản bảo đảm sự bền vững của đất nước ta về chính trị .
Chính vì việc hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang là một vấn đề nóng bỏng, cấp bách và cần thiết đối với tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có cả nước ta. Vì vậy đề tài này có một ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng đối với các nước trên thế giới trong việc đề ra các đường lối, chính sách trong quan hệ giao lưu, buôn bán với nước ngoài. Vì lí do nay tôi đã quyết định chọn đề tài "Mối quan hệ biện chứng giữa hội nhập kinh tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ" với hy vọng bài tiểu luận này sẽ góp một phần nhỏ vào công việc xây dựng nền kinh tế nước ta ngày càng giàu mạnh .
22 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1007 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Mối quan hệ biện chứng giữa hội nhập kinh tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục:
TT
Trang
I
Mở đầu
1
II
Nội dung
3
Chương 1: Nguyờn lý về mối liờn hệ phổ biến trong phộp biện chứng duy vật
3
1.1
Cỏc định nghĩa
3
1.2
Tớnh tất yếu phải hội nhập kinh tế
6
Chương 2: Mối liờn hệ giữa xõy dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế
6
2.1
Một số đặc trưng của nền kinh tế độc lập tự chủ
6
2.2
Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế
8
2.3
Mối quan hệ biện chứng giữa xõy dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế
8
2.4
Những lợi ớch và hạn chế của việc hội nhập kinh tế quốc tế
11
2.5
Vấn đề hội nhập kinh tế ở Việt Nam
12
2.5.1
Đường lối quan điểm của Đảng ta trong quỏ trỡnh hội nhập
12
2.5.2
Quỏ trỡnh hội nhập ở Việt Nam
14
2.5.3
Những lợi ớch và hạn chế của Việt Nam trong quỏ trỡnh hội nhập
15
2.5.4
Một số ý kiến và giải phỏp cho quỏ trỡnh hội nhập ở Việt Nam
16
III.
Kết luận
I. Mở Đầu
Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang trở thành một xu thế khách quan và tất yếu của tất cả các nước trên thế giới, không kể các nước đang phát triển hay phát triển, các nước giàu hay nghèo. Trong xu thế đó quốc gia nào có chiến lược, chính sách, biện pháp và công cụ quản lí hợp lí sẽ mang lại lợi ích, sự phát triển về kinh tế cho quốc gia đó, ngược lại sẽ mang lại kết quả xấu. Để có thể tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài đặc biệt là nguồn vốn, tiến bộ khoa học công nghệ... đòi hỏi các nước phải có sự mở cửa, sự giao lưu, buôn bán hợp tác với các nước trên thế giới mà đặc biệt là các nước tư bản phát triển. Tuy vậy đi song song với việc hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta cần phải có sự thống nhất nhận thức về việc giữ độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập. Đây là một mối lo ngại lớn với các nước trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển. Mối lo này phần nào cũng có lí do chính đáng bởi hầu hết các nước đang phát triển đều có xuất phát điểm từ một nền kinh tế ``nghèo nàn, lạc hậu, khoa học công nghệ còn thấp kém, năng suất lao động còn chưa cao, sức cạnh tranh về các loại hàng hoá trên thị trường thế giới thấp trong khi đó các nước đi trước có lợi thế hơn hẳn về mọi mặt, việc mở rộng quan hệ với các nước đó sẽ dẫn đến tình trạng các nước kém phát triển khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế và từ chỗ bị lệ thuộc về kinh tế có thể bị lệ thuộc về chính trị dẫn tới không giữ vững được chủ quyền. Thực tế ngày nay cho thấy có rất nhiều nước trên thế giới đã bị lệ thuộc quá nhiều vào các nước tư bản nên mọi đường lối, chính sách phát triển kinh tế đều bị các nước tư bản này chi phối và nắm giữ. Điển hình như nước Cuba có một thời gian đã bi phụ thuộc quá nhiều vào Mĩ. Vốn là một nước trồng rất nhiếu mía song khoa học kĩ thuật của nước này lại thấp kém cho nên để sản xuất đường Cuba phải nhập khẩu trang thiết bị của Mĩ. Lợi dụng thời cơ này Mĩ đã tìm mọi cách để gây áp lực về kinh tế đối với Cuba và buộc Cuba phải lệ thuộc vào Mĩ. Dựa vào đó Mĩ đã nắm được quyền chi phối về kinh tế cũng như chính trị ở Cuba.
Hiện nay nước Việt Nam ta cũng đang tham gia vào các tổ chức, hiệp hội trên thế giới. Nước ta cũng là một nước nghèo nàn, lạc hậu hơn rất nhiều so với các nước khác vì vậy chúng ta phải chủ động tham gia hội nhập kinh tế gắn liền với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Đảng và nhà nước ta đã xác định độc lập tự chủ kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản bảo đảm sự bền vững của đất nước ta về chính trị .
Chính vì việc hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang là một vấn đề nóng bỏng, cấp bách và cần thiết đối với tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có cả nước ta. Vì vậy đề tài này có một ý nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng đối với các nước trên thế giới trong việc đề ra các đường lối, chính sách trong quan hệ giao lưu, buôn bán với nước ngoài. Vì lí do nay tôi đã quyết định chọn đề tài "Mối quan hệ biện chứng giữa hội nhập kinh tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ" với hy vọng bài tiểu luận này sẽ góp một phần nhỏ vào công việc xây dựng nền kinh tế nước ta ngày càng giàu mạnh .
II. Nội dung
Chương 1:
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
trong phép biện chứng duy vật
1.1. Các định nghĩa:
Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến, nó chẳng qua là bộ môn khoa học nghiên cứu những quy luật vận động phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Như vậy phép biện chứng đã thừa nhận sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan tồn tại theo mối quan hệ phổ biến, chúng vận động, phát triển theo quy luật nhất định. Phép biện chứng có nhiệm vụ phải chỉ ra những quy luật đó để định hướng cho con người trong nhiệm vụ thực tiễn. Phép biện chứng có ba hình thức cơ bản trong quá trình phát triển của triết học đó là: Phép biện chứng chất phác, phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật .
Thời cổ đại, do trình độ tư duy phát triển chưa cao, khoa học chưa phát triển nên các nhà triết học chỉ dựa vào cảm giác, vào cái nhìn trực tiếp để xem xét mọi vật. Phép biện chứng này còn thiếu nhiều căn cứ khoa học do vậy mà nó đã bị phép siêu hình, xuất hiện từ nửa cuối thế kỉ XV thay thế. Phép biện chứng duy tâm xuất hiện trong triết học Cantơ và hoàn thiện trong triết học của Hêghen. Tính chất duy tâm trong phép biện chứng của Hêghen được thể hiện ở chỗ: Ông coi ý niệm tuyệt đối có trước và trong quá trình vận động phát triển cuối cùng nó lại trở về với chính mình trong tinh thần. Kế thừa có chọn lọc những thành tựu của các nhà triết học trước đó Mác và Anghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lí, những phạm trù cơ sở, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Trong hệ thống đó nguyên lí về mối liên hệ phổ biến là một trong những nguyên lí khái quát nhất. Mối liên hệ phổ biến là khái niệm đúng để chỉ sự ràng buộc, nương tựa, tác động qui định lẫn nhau của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Trong thực tế người ta luôn đặt ra các câu hỏi các sự vật hiện tượng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau hay không? Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại trong trạng thái độc lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Nếu giữa chúng có mối quan hệ thì cũng chỉ là mối liên hệ bên ngoài. Còn những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập vừa qui định tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau. Phép duy vật biện chứng khẳng định mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến. Sự vật là tiền đề, là điều kiện tồn tại và phát triển của nhau. Chúng thường xuyên thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau làm cho ranh giới giữa các lớp sự vật không phải là tuyệt đối mà bao giờ cũng có lớp trung gian chuyển tiếp. Mối liên hệ phổ biến không chỉ diễn ra giữa các sự vật khác nhau mà còn diễn ra trong bản thân từng sự vật và đều là khách quan. Mặc dù sự vật tồn tại trong những mối liên hệ phổ biến với nhiều mối liên hệ khác nhau nhưng vị trí, vai trò của từng mối liên hệ không giống nhau trong tổng số mối liên hệ về sự vật, trong đó có mối liên hệ giữ vai trò quyết định đén sự tồn tại, vận động biến đổi của sự vật như mối liên hệ bên trong, bản chất .... Còn những mối liên hệ khác chỉ có những ảnh hưởng nhất định.
Tuy vậy mọi mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri vô giác cũng đang hàng ngày chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác như: ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm..... và đôi khi cũng chịu sự tác động của con người. Con người - một sinh vật phát triển cao nhất trong tự nhiên luôn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên và ngay cả các yếu tố trong chính bản thân nó. Ngoài sự tác động của tự nhiên như các sự vật khác còn tiếp nhận sự tác động của xã hội và của những người khác. Chính con người và chỉ có con người mới có thể tiếp nhận vô vàn mối quan hệ đó. Vấn đề là con người phải hiểu biết các mối liên hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của mình giải quyết các mối liên hệ phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và của bản thân. Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: thứ nhất bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào không có quan hệ, liên hệ với quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế hiện nay trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của đời sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu như: đói nghèo, bệnh tật ....
Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới những hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Nghiên cứu mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới ta còn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó. Dựa vào tính đa dạng đó có thể phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu.... Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại và phát triển bản thân sự vật, hiện tượng qui định tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy trong một sự vật có thể bao gồm rất nhiều mối liên hệ chứ không phải chỉ có một mối liên hệ xác định. Song mỗi cặp mối liên hệ có những đặc trưng riêng tuy theo từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể các mối liên hệ tương ứng sẽ giữ vai trò quyết định. Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả của sự vận động và phát triển của chính các sự vật. Tuy sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính tương đối nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình. Từ nội dung của mối liên hệ phổ biến bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ rất đa dạng phong phú do đó trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải có quan điểm toàn diện tránh quan điểm phiến diện, chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận về bản chất hay về tính qui luật của chúng. Quan điểm toàn diện đòi hỏi khi ngiên cứu phải xem xét sự vật, phải xem xét tất cả các mối quan hệ vốn có của nó nhưng không được đặt các mối quan hệ có vị trí vai trò như nhau. Cần phải phân biệt được đâu là những mối quan hệ bản chất tất yếu của sự vật, đâu là những mối quan hệ khác để từ đó có kết luận đúng về sự vật. Trong thực tế theo quan điểm toàn diện khi tác động vào sự vật chúng ta không những phải chú ý đến những mối liên hệ nội tại của chúng mà còn phải lưu ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với sự vật khác và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng trong từng điều kiện. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận quan điểm toàn diện góp phần định hướng chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Thực hiện đúng quan điểm đó chính là chúng ta đã nắm được và vận dụng tốt phương pháp biện chứng trong nhận thức về hoạt động thực tiễn.
1.2 Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là một tất yếu khách quan vừa là yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia trên thế giới không thể tự mình xây dựng được một nền kịnh tế phát triển bất kể nước ấy giầu hay nghèo đặc biệt là đối với các nước chậm phát triển và đang phát triển. Nền kinh tế của các nước này còn thấp kém, chậm phát triển, khoa học học kỹ thuật còn thua xa các nước tư bản thì việc mở rộng giao lưu, buôn bán với các nước trên thế giới là một vấn đề cần thiết và mang tính tất yếu trong giai đoạn hiện nay.
Vịêt Nam cũng nằm trong các nước đang phát triển, xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp nghèo, do vậy chúng ta cần phải mở rộng quan hệ với các nước khác nhằm tạo thuận lợi để xây dựng và phát triển kinh tế. Trong Đại hội Đảng 9 của ta vừa qua, Đảng đã nêu ra "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và bảo vệ môi trường".
Chương 2:
Mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
với hội nhập kinh tế quốc tế
2.1 Một số đặc trưng của nền kinh tế độc lập tự chủ:
Khác với trước đây khi nói tới độc lập tự chủ về kinh tế, nhiều người thường hình dung tới một nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp. Trong điều kiện hiện nay đọc lập tự chủ về kinh tế phải là độc lập, tự chủ trong phát triển kinh tế thị trường và tự chủ mở cửa, hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới, tích cực tham gia vào sự giao lưu, hợp tác, phân công lao động quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nội lực, lợi thế so sánh của quốc gia để cạnh tranh có hiệu quả trên thương trường quốc tế. Do vậy độc lập tự chủ trong điều kiện hiện nay có các đặc trưng sau: trước hết và quan trọng nhất là phải đảm bảo lợi ích phát triển của quốc gia ở mức cao nhất có thể được. Có thể có một nền kinh tế không phụ thuộc hoàn toàn vào bên ngoài, tự đảm bảo được các nhu cầu chủ yếu trong nước. Các mối quan hệ giữa nước đó với các nước trên thế giới phải được xem xét đánh giá trên tiêu chuẩn có đảm bảo được lợi ích phát triển của đất nước không? Đó mới là mục tiêu cho mọi chiến lược phát trển. Trong điều kiện hội nhập quốc tế tiến triển như hiện nay mọi nền kinh tế ngày càng có sự ràng buộc, phụ thuộc vào các nước khác. Nếu sự ràng buộc đó đảm bảo tốt hơn cho lợi ích phát triển quốc gia thì đó là một điều nên làm. Nền kinh tế nước ta trong thời kỳ đổi mới đã ngày càng mở rộng, giao lưu với các nước khác; kim ngạch xuất khẩu của ta năm 1999 chiếm tới trên 90% GDP, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 28% tổng đầu tư xã hội. Đặc trưng thứ hai của nền kinh tế độc lập tự chủ đó là sức cạnh tranh của nền kinh tế phải được cải thiện và tăng dần. Sức cạnh tranh này được thể hiện ở các mặt. Thể chế chính trị, kinh tế xã hội phải đủ mạnh đủ tạo ra một môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, chi phí và rủi ro thấp; khả năng sinh lợi lớn. Cơ cấu kinh tế gồm những ngành có khả năng cạnh tranh cao, có khả năng tự điều chỉnh, tự rút khỏi những ngành kém khả năng cạnh tranh. Cơ cấu doanh nghiệp cũng phải bao gồm những doanh nghiệp có sức mạnh trên thị trường. Biểu hiện tập trung của sức cạnh tranh của nền kinh tế là ở chất lượng, giá thành sản phẩm và dịch vụ của đất nước. Nếu sản phẩm và dịch vụ của một quốc gia có giá thành cao, chất lượng lại thấp thì nó sẽ khó tiêu thụ và kết cục là gây suy thoái nền kinh tế. Trong điều kiện đó khó có thể nói đến độc lập và tự chủ. Còn một nền kinh tế làm ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành thấp thì có thể chiếm lĩnh thị trường trong nước và quốc tế tạo ra thu nhập lớn. Một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao như vậy trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay là một nền kinh tế có tính độc lập, tự chủ cao. Đặc trưng thứ ba của nền kinh tế độc lập tự chủ đó là khả năng ứng phó có hiệu qủa với những chấn động chính trị, kinh tế, xã hội bên ngoài. Những chấn động đó có thể là một cuộc khủng hoảng…
Chiến lược tốt nhất của một quốc gia là cố tránh tham gia những cuộc chiến tranh ở bên ngoài và tránh để xảy ra xung đột và chiến tranh ở trong nước. Song một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao, có dự trữ ngoại tệ lớn sẽ có sức chịu đựng lớn so với nền kinh tế lạc hậu. Một nền kinh tế hội nhập quốc tế cao lợi ích quốc gia đan xen chặt chẽ với lợi ích của nhiều quốc gia khác, nhiều trung tâm kinh tế thì sẽ có nhiều khả năng kết sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế để bảo vệ đất nước tốt hơn.
2.2 Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế:
Các nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế nói cung và WTO nêu ra là không phân biệt đối xử, tiếp cận thị trưởng, cạnh tranh công bằng, áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển. Nội dung của hội nhập kinh tế là mở cửa thị trường, tạo điều kiện thuận lợi để tự do buôn bán, phát triển.
Về thương mại hàng hoá: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như giấy phép xuất khẩu,… Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với 4 phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, thông qua doanh nhâ, hiện diện thể nhân,…
Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá cân bằng xuất nhập khẩu, hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ… Các nguyên tắc này được tất cả các nước thành viên WTO và các nước đang gia nhập WTO thừa nhận và thực hiện.
2.3 Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế.
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, sự tuỳ thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày càng gia tăng, các nước trên thế giới đều rất coi trọn đến khả năng độc lập tự chủ về kinh tế nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc mình trong cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt và để xác lập một vị thế chính trị nhất định trên trường quốc tế.
Độc lập tự chủ về kinh tế phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ về chính trị và các mặt khác để tạo thành sức mạnh tổng hợp của một quốc gia. Độc lập tự chủ vè kinh tế trước hết là không bị chi phối lệ thuộc vào bên ngoài về đường lối, chính sách phát triển kinh tế vào những điều kiện kinh tế chính trị mà họ muốn áp đặt cho ta trong trợ giúp, hợp tác song phương, đa phương,.. mà những điều kiện ấy sẽ gây tổn hại cho chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc. Độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là trước những chấn động của thị trường, của khủng hoảng kinh tế - tài chính, cũng như trước sự bao vây, cô lập từ bên ngoài vẫn giữ được sự ổn định và phát triển cần thiết, không bị sụp đổ về kinh tế, chính trị. Khác với trước đây khi nói đến độc lập tự chủ về kinh tế, nhiều người thường hình dung tới một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp. Trong điều kiện hiện nay độc lập tự chủ về kinh tế phải là độc lập tự chủ trong phát triển kinh tế thị trường và chủ động hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới, tích cực tham gia vào sự giao lưu, hợp tác, phân công lao động quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực, lợi thế so sánh của quốc gia để cạnh tranh có hiệu qủa trên trường quốc tế. Quan niệm độc lập tự chủ theo kiểu tự cung, tự cấp đã được kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới chứng minh là không phù hợp với xu thế của thời đại, và làm cho đất nước ngày càng tụt hậu xa hơn. Đến tình trạng chậm phát triển về kinh tế không được khắc phục sẽ nảy sinh ra nhiều vấn đề xã hội nan giải, tạo nguy cơ từ bên trong đối với trật tự, an toàn xã hội và điều đó cuối cùng sẽ gây cho quốc gia đó khó giữ vững được con đường và mô hình phát triển đã lựa chọn. Trong vài chục năm gần đây, tình hình thế giới cũng có rất nhiều biến đổi quan trọng theo các hướng chủ yếu sau đây: một là xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển, xu thế này càng ngày càng trở thành xu thế chính thay thế cho sự đối đầu giữa các siêu cường, sự xung đột, chạy đua vũ trang giữa hai hệ thống xã hội đối lập, các cuộc chiến tranh xâm lược đã bị lên án khắp nơi. Đây chính là điều kiện quan trọng giúp cho các quốc gia có thể mở cửa đất nước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển kinh tế. Mô hình kinh tế phát triển trong xu thế hoà bình đang thay thế cho mô hình kinh tế trong tình trạng đối đầu và chiến tranh lạnh. Hai là xu thế phát triển công nghệ đang chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Trong những thập niên vừa qua sự phát triển của công nghệ đang chuyển đổi sang nền kinh tế vô cùng lớn. Các ngành công nghiệp truyền thống, sản xuất ra các hàng hoá vật chất, kể cả các ngành công nghiệp nặng đang ngày càng kém hiệu quả mất dần vai trò quan trọng của chúng với phát triển kinh tế. Trên thực tế trogn mấy năm gần đây các sản phẩm đã liên tục bị giảm giá, đã giảm tới trên 30% giá do vậy những ngành này đang gặp nhiều khó khăn.
Trong khi đó các ngành kinh tế tri thức lại phát triển với tốc độ cao và đạt nhiều hiệu qủa. Trong điều kiện hiện nay, các lợi thế về tài nguyên, nguồn vốn, lao động… ngày càng giảm và lợi thế về tri thức và kỹ năng ngày càng
tăng. ở Mỹ tỷ lệ đóng góp của ngành sản xuất điện tử - tin học làm tăng trưởng kinh tế lên tới 45% trong 3 năm qua còn mức đóng góp của ngành xây dựng và xe hơn vốn là ngành trụ cột của kinh tế Mỹ lại giảm chỉ còn 14% và 4%. Lợi nhuận của hãng Intel, Microsoft đạt mức 24% doanh thu kéo dài trong khi các ngành công nghiệp truyền thống chỉ đạt ở mức trên 10%.
Xu hướng thứ ba là xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế phát triển nhanh chóng. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới phát triển và những đặc trưng chủ yếu trên mô hình phát triển kinh tế theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế là căn cứ để phát triển các ngành kinh tế có lợi thế cạnh tranh cao. Đương nhiên, việc phát triển kinh tế này phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ trong mô hình kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau trên cơ sở cùng có lợi trong quan hệ giữa các quốc gia. Sự phụ thuộc này diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực từ hoạch định chính sách phát triển,… ví dụ như trong Liên minh Châu Âu, hiện đã có đồng tiền chung, các quốc gia thành viên phải bảo đảm duy trì một mức thâm hụt ngân sách và lạm phát chung. Trong mô hình kinh tế này các quốc gia tuy vẫn có quyền tự chủ, quyền tự chọn các ngành kinh tế có lợi cho mình. Thực tế cho thấy ngay các quốc gia có nhiều ngành công nghiệp nền tảng khá phát triển như Nhật Bản mà vẫn phụ thuộc bên ngoài một cách đáng sợ. Nhật phải nhập 100% dầu mỏ để có ngành hoá dầu và năng lượng điện, nhập khẩu phần quặng sắt để có ngành luyện kim, nhập khẩu phần lớn bằng phát minh sáng chế để có ngành công nghiệp chế tạo,… Nếu có chiến tranh xảy ra, các hoạt động nhập khẩu này chỉ bị ngừng trệ một thời gian ngắn thôi thì các ngành công nghiệp sẽ hoàn toàn bị tê liệt và nền kinh tế Nhật khó tránh khỏi tổn thất. Nếu sợ sự phụ thuộc này, nước Nhật sẽ không thể phát triển được. Nhưng bù lại, Nhật lại xuất khẩu ô tô, hàng điện tử và những loại hàng chất lượng cao khác buộc các quốc gia khác phải lệ thuộc vào Nhật những mặt hàng nay. Chính mối quan hệ lệ thuộc lẫn nhau làm cho kinh tế Nhật có thể đứng vững ngay cả trong cuộc khủng hoảng dầu lửa những năm 70.
Song cũng cần phải nói rằng trong qúa trình hội nhập kinh tế cần phải tránh sự lệ thuộc quá nhiều vào các nước. Đây là một vấn đề đã xảy ra với một số nước, nhất là các nước kém phát triển. Do trình độ khoa học, nền sản xuất nước này còn chậm phát triển nên đã bị lệ thuộc hoàn toàn vào tư bản nước ngoài kể cả về kinh tế lẫn chính trị.
Vì vậy cần phải nhấn mạnh rằng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cần phải phát huy tính độc lập tự chủ, phát huy nội lực của nền kinh tế, phải lấy nội lực của nền kinh tế làm yếu tố quyết định sự phát triển của nền kinh tế, còn những yếu tố bên ngoài chỉ là quan trọng.
2.4 Những lợi ích, hạn chế của việc hội nhập kinh tế quốc tế:
Như chúng ta đã phân tích hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, nó có những tác động tích cực tới việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Hội nhập kinh tế thúc đẩy sự phát triển và xã hội hoá các lực lượng sản xuất, đem lại sự tăng trưởng kinh tế cao. Nó làm tăng nhanh tổng sản lượng thế giới: ngày nay tổng sản phẩn thể giới ước tính khoảng 30.000 tỷ úD gấp khoảng 23 lần tổng sản phẩm thế giới vào những năm trước đây. Theo đó sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu cũng có những thay đổi cơ bản. Nếu những năm 60, nông lâm thủy sản chiếm 10,4% , công nghiệp chiếm 28,1% và dịch vụ chiếm 50,4% thì cho tới nay cơ cấu tương ứng là 4,4%; 21,4% và 62,4%. Bên cạnh đó sự liên kết thị trường thế giới thành một hệ thống hữu cơ ngày càng tăng với tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều tốc độ tăng trưởng sản xuất. Hệ thống thông tin toàn cầu phát triển nhanh chóng kết nối các vùng địa lý trên trái đất vào một hệt hống góp phần tác động có hiệu quả vào phát triển kinh tế xã hội. Mặt khác, toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại; làm làm hoặc huỷ bỏ các hàng rào thương mại làm cho hàng hoá của mỗi nước có thị trường tiêu thụ quốc tế rộng hơn do đó kích thích sản xuất phát triển. Nhờ đó thúc đẩy phân công lao động quốc tế, theo hướng chuyên môn hoá làm cho nguồn lực ở mỗi nước và trên thế giới được sử dụng có hiệu quả hơn.
Tự do hoá thương mại đặt ra cho các doanh nghiệp phải tiến hành những cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế, phát huy lợi thế của mình và hạn chế những rủi ro trong cuộc cạnh tranh quốc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T42.doc