Đề tài Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng trong việc tham gia chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở

Công tác xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở được nêu ra từ lâu nhưng mãi đến Đại hội lần thứ V của Đảng công tác này được đưa vào nghị quyết với những nội dung, mục tiêu cụ thể. Và từ đó đến nay, các ngành , các cấp đang nỗ lực biến Nghị quyết của Đảng, chủ trương của Nhà nước thành kết quả cụ thể. Mục tiêu của việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở chính là nhằm xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa.

Trong nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã nhấn mạnh cần phải đẩy mạnh phong trào xây dựng đời sống văn hoá - xã hội, phát triển văn hoá truyền thống, phát huy tình làng nghĩa xóm, sự giúp đỡ và hỗ trợ lẫn nhau phát triển trong cộng đồng .

Hiện nay ở nước ta việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở với phương châm là “lấy xây dựng đời sống văn hoá để chống tệ nạn xã hội là phương châm đúng đắn và có hiệu quả nhất” vì nó tác động trực tiếp, thường xuyên đến mọi tầng lớp nhân dân lao động.

Cương lĩnh của Đảng ta đã chỉ rõ chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một trong những luận điểm quan trọng về xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở được Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định đó là “xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.

Qua quá trình nghiên cứu thực tế kết hợp với những báo cáo của Liên đoàn lao động Quận, tôi thấy việc xây dựng đời sống văn hoá ở cở sở là một trong những nội dung quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc. Đó chính là nguyên nhân để tôi lựa chọn viết đề tài: “ Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng trong việc tham gia chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở ”.

Là sinh viên khoa Công đoàn thuộc trường Đại học Công đoàn , tôi thực sự cảm nhận sự cần thiết của các hoạt động văn hoá - một công cụ quan trọng và cần thiết trong công tác tuyên truyền giáo dục công nhân lao động của Công đoàn. Qua 4 năm được học tập, nghiên cứu, tiếp thu lý luận tại trường Đại học Công đoàn, tôi rất mong muốn được sử dụng những kiến thức do nhà trường trang bị để tìm hiểu sâu hơn về hiệu quả của các hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở và mong tìm ra những giải pháp hữu hiệu sử dụng chúng trong công tác bản thân khi ra trường và trở về công tác tại đơn vị.

 

doc79 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1076 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng trong việc tham gia chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1: mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Công tác xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở được nêu ra từ lâu nhưng mãi đến Đại hội lần thứ V của Đảng công tác này được đưa vào nghị quyết với những nội dung, mục tiêu cụ thể. Và từ đó đến nay, các ngành , các cấp đang nỗ lực biến Nghị quyết của Đảng, chủ trương của Nhà nước thành kết quả cụ thể. Mục tiêu của việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở chính là nhằm xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã nhấn mạnh cần phải đẩy mạnh phong trào xây dựng đời sống văn hoá - xã hội, phát triển văn hoá truyền thống, phát huy tình làng nghĩa xóm, sự giúp đỡ và hỗ trợ lẫn nhau phát triển trong cộng đồng . Hiện nay ở nước ta việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở với phương châm là “lấy xây dựng đời sống văn hoá để chống tệ nạn xã hội là phương châm đúng đắn và có hiệu quả nhất” vì nó tác động trực tiếp, thường xuyên đến mọi tầng lớp nhân dân lao động. Cương lĩnh của Đảng ta đã chỉ rõ chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một trong những luận điểm quan trọng về xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở được Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định đó là “xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Qua quá trình nghiên cứu thực tế kết hợp với những báo cáo của Liên đoàn lao động Quận, tôi thấy việc xây dựng đời sống văn hoá ở cở sở là một trong những nội dung quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc. Đó chính là nguyên nhân để tôi lựa chọn viết đề tài: “ Liên đoàn lao động quận Hai Bà Trưng trong việc tham gia chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở ”. Là sinh viên khoa Công đoàn thuộc trường Đại học Công đoàn , tôi thực sự cảm nhận sự cần thiết của các hoạt động văn hoá - một công cụ quan trọng và cần thiết trong công tác tuyên truyền giáo dục công nhân lao động của Công đoàn. Qua 4 năm được học tập, nghiên cứu, tiếp thu lý luận tại trường Đại học Công đoàn, tôi rất mong muốn được sử dụng những kiến thức do nhà trường trang bị để tìm hiểu sâu hơn về hiệu quả của các hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở và mong tìm ra những giải pháp hữu hiệu sử dụng chúng trong công tác bản thân khi ra trường và trở về công tác tại đơn vị. 2. Mục tiêu của đề tài: - Nêu lên vai trò và nội dung hoạt động của đời sống văn hoá ở cơ sở. - Đánh giá một cách khách quan về thực trạng hoạt động của việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế cùng nguyên nhân của thực trạng đó. - Đưa ra những đổi mới về nội dung và phương pháp hoạt động nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. - Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của hoạt động xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 3. Phạm vi nghiên cứu: Với phạm vi đề tài hẹp nên tôi chỉ đi vào khía cạnh trong hoạt động của tổ chức Công đoàn, đó là việc Công đoàn tổ chức việc xây dựng đời sống văn hoá ở các cụm văn hoá thể thao hoạt động như thế nào sao cho có hiệu quả phù hợp với tình hình hiện nay. Do thời gian thực tập có hạn nên địa điểm khảo sát tìm hiểu không thể bao quát toàn bộ các cơ sở thành viên thuộc cụm văn hoá thể thao trong Quận mà chỉ dừng lại trong phạm vi một số đơn vị có hoạt động xây dựng đời sống văn hoá tiêu biểu và là hạt nhân của cụm văn hoá thuộc quận Hai Bà Trưng, do đó kết qủa thu được chỉ mang tính chất điển hình. 4. Tổng quan vấn đề nghiên cứu: Để viết đề tài này, tôi sử dụng những kiến thức lý luận từ các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê nin, Hồ Chí Minh, những văn kiện của Đảng cộng sản Việt nam và của tổ chức Công đoàn; những kiến thức trong sách xuất bản mang tính lý luận của các tác giả nghiên cứu nhiều năm về vấn đề văn hoá. Đồng thời còn có những tư liệu thực tế mang tính kinh nghiệm quý báu từ các cơ sở cũng đã đóng góp cho đề tài thêm phong phú sát với cuộc sống lao động sản xuất và sinh hoạt của công nhân lao động trong tình hình mới hiện nay. 5. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp sử dụng để viết đề tài là phương pháp phân tích và chứng minh để nêu rõ các khái niệm và từ đó dùng phương pháp hệ thống hoá để luận giải những cơ sở lý luận và thực tiễn về việc tổ chức xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. 6. Nội dung đề tài: Về nội dung đề tài được chia làm 3 phần cơ bản: Phần 1: Phần mở đầu Phần 2: Phần lý luận và những nội dung chính Phần 3: Kết luận - Đề xuất – Khuyến nghị Sau đây tôi xin giới thiệu nội dung chi tiết của khoá luận tốt nghiệp. Phần 2: nội dung Chương 1 Một số vấn đề lý luận về văn hoá và đời sống văn hoá ở cơ sở 1. Văn hoá và vai trò của văn hoá 1.1 Khái niệm về văn hoá 1.1.1 Một số cách tiếp cận về văn hoá của các học giả phương Tây: Vào thế kỷ XIX, thuật ngữ “văn hoá” được những nhà nhân học phương Tây sử dụng như một danh từ chính. Những người này cho rằng văn hoá (văn minh) thế giới có thể phân loại ra từ trình độ thấp nhất đến cao nhất, và văn hoá của họ chiếm vị trí cao nhất. E.B.Taylo cho rằng văn hoá là toàn bộ phúc thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội. ở thế kỷ XX, khái niệm “văn hoá” thay đổi. Theo F.Boas, ý nghĩa văn hoá được quy định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao siêu như “trí lực”, vì thế sự khác nhau về mặt văn hoá từng dân tộc cũng không theo tiêu chuẩn trí lực. đó cũng là “tương đối luận của văn hóa”. Văn hoá không xét ở mức độ thấp cao mà ở góc độ khác biệt. Theo Knoibơ (A.L.Knoeber) và Klúchôn (C.L.Kluc Khohn) quan niệm văn hoá là loại hình hành vi rõ ràng và ám thị đã đựơc đúc kết và truyền lại bằng biểu tượng và nó hình thành thành quả độc đáo của nhân loại, khác với các loại hình khác. Các học giả Mỹ cho rằng văn hoá là tấm gương nhiều mặt phản chiếu đời sống và nếp sống của một cộng đồng dân tộc. 1.1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về văn hoá: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì văn hoá là một hiện tượng xã hội phản ánh hiện thực từ khi xuất hiện xã hội loài người. Hiện tượng ấy xét cho cùng là do sản xuất vật chất quyết định, mỗi chế độ kinh tế xã hội nhất định đòi hỏi một nền văn hoá tương ứng với nó. Như vậy, văn hoá bao trùm những lĩnh vực rộng lớn của tư duy và hành động, trình độ phát triển các quan hệ nhân tính của xã hội và mỗi người trong xã hội, thế giới quan và nhân sinh quan, khoa học và kỹ thuât, luật pháp, đạo đức, mỹ học, lối sống và phong tục tập quán. Cốt lõi của văn hoá là hiểu biết và sáng tạo, được cộng đồng khẳng định và giữ gìn với tư cách là hệ giá trị đặc trưng cho bản sắc dân tộc, quốc gia. Khái niệm văn hoá rất rộng, đòi hỏi phải có sự đồng nhất về cách hiểu, cách nghiên cứu, xem xét. Văn hoá là một hiện tượng xã hội, nhưng không phải là một hiện tượng riêng rẽ, biệt lập với các hiện tượng xã hội khác mà nó đan xen với nhau. Khi nói đến văn hoá là nói đến năng lực, bản chất con người, được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống. Với quan niệm như vậy chúng ta có thể thống nhất hiểu văn hoá như sau: “văn hoá là một hiện tượng xã hội, biểu hiện những năng lực bản chất con người vươn lên làm chủ tự nhiên, xã hội, và bản thân. Những năng lực ấy được khách quan hoá, vật chất hoá, văn hoá hoá trong hoạt động và trong sản phẩm của hoạt động con người”. Khái niệm trên đây chỉ rõ nội dung, bản chất của văn hoá gồm ba mặt: Con người – Hoạt động – Sản phẩm. Ba mặt này có mối quan hệ biện chứng với nhau trong đó con người có vị trí vô cùng quan trọng, không thể có văn hoá nằm ngoài con người. Song văn hoá cũng bao gồm quá trình: Sản xuất – Bảo quản – Phân phối – Trao đổi – Tiêu dùng. 1.1.3 Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hoá: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng toạ và phát minh đó là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với mọi biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. 1.1.4 Định nghĩa của E.B.Taylo về văn hoá: Với E.B.Taylo: “văn hoá hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục về những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội”. 1.1.5 Định nghĩa văn hoá của UNESCO: Theo nghĩa hẹp của UNESCO: “văn hoá là một tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cáhc ứng xử và sự giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng ấy có đặc thù riêng. Có lẽ cũng nên nhấn mạnh thêm, văn hoá bao gồm hệ thống những giá trị để đánh giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu, đạo đức hay vô luân, phải hay trái, đúng hay sai…) theo cộng đồng ấy” UNESCO – 1994 nhìn nhận “văn hoá” với nghĩa rộng đó là một phức thể – tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, trí thức, tình cảm… khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng miền, quốc gia, xã hội. Văn hoá không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà cả những lối sống những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng. 1.2 Vai trò của văn hoá Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng, trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX Đảng ta khẳng định : “ Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội” 1.2.1 Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội Văn hoá có các yếu tố chủ yếu là các tri thức và kinh nghiệm mà dân tộc đã tích luỹ được trong quá trình lịch sử, sức sống, sức sáng tạo của một dân tộc được hun đúc trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc mình. Bản sắc văn hoá dân tộc, những khuynh hướng và phẩm chất căn bản trong sáng tạo của mỗi dân tộc, hệ giá trị và truyền thống của dân tộc đó. Các yếu tố trên đây đã tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng đồng, được truyền lại tiếp nối và phát huy qua các thế hệ, được vật chất hoá và khẳng địnhvững chắc trong cấu trúc chính trị – xã hội của từng dân tộc. Vì vậy, chăm lo văn hoá là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế xã hội bền vững. Nền tảng tinh thần của văn hoá còn thể hiện thông qua bản sắc dân tộc. Bản sắc dân tộc cũng chính là bản sắc văn hoá của dân tộc, được phát triển trong những điều kiện xã hội, kinh tế, thể chế chính trị và quá trình giao lưu văn hoá. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam : “kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các di sản văn hoá, nghệ thuật của dân tộc. Bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh của đất nước” Văn kiện Đại hội VIII Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, trang 111 là thiết thực giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc biểu hiện một sức sống bên trong của một dân tộc, một quá trình thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự tái tạo từ bản thân mình và từ sự tiếp nhận từ ngoài vào. Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống ý thức nhưng được thể hiện sâu sắc nhất trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của văn hoá. Cốt lõi của văn hoá là hệ tư tưởng, nó có vai trò kết dính, định hướng các chuẩn mực giá trị và các vòng cộng đồng văn hoá. Hệ tư tưởng Mác – Lênin là hạt nhân của văn hoá xã hội chủ nghĩa. 1.2.2 Văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội Quan điểm của Đảng ta về sự phát triển là : “phát triển phải dựa trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn, trở về cội nguồn, giữ được cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi dân tộc là văn hoá”1 Trích nghị quyết 09 của Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, khóa VI . Nguồn lực văn hoá của phát triển thể hiện trước hết là các yếu tố trong cấu trúc văn hoá. Các yếu tố đó kết tinh trong mỗi con người và cả cộng đồng. Vì vậy khi nói đến nguồn lực con người trong phát triển thì chủ yếu là nói đến văn hoá. Với tư cách là động lực của sự phát triển, văn hoá khơi dậy và nhân lên mọi tiểm năng sáng tạo của con người. Vì vậy, ngày nay trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại thì yếu tố quyết định cho sự phát triển là trí tuệ, là thông tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng nhằm tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của toàn xã hội. Văn hoá và phát triển là vấn đề quan hệ mật thiết đến cuộc sống hiện tại và tương lai của một quốc gia. Bởi thế cho nên, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển kinh tế – xã hội là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Ngày nay, việc xem xét một quốc gia giàu hay nghèo không chỉ ở nó có nhiều hay ít lao động, vốn kỹ thuật và tài nguyên thiên nhiên, mà là ở khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hoá. Một chính sách phát triển đúng đắn phải là chính sách làm cho các yếu đ tố cấu thành văn hoá thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực hoạt động sáng tạo của con người như văn hoá trong sản xuất, văn hoá trong quản lý, văn hoá trong lối sống, văn hoá trong sinh hoạt gia đình, văn hoá trong giao lưu và hợp tác quốc tế. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hoá dựa vào tiêu chuẩn của cái đúng, cái tốt, cái đẹp, nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện để người lao động phát huy sáng kiến , cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Mặt khác, văn hoá sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý dân tộc để giáo dục người lao động đấu tranh chống sự xâm nhập của văn hoá độc hại, những khuynh hướng sùng ngoại và khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý coi thường các giá trị nhân văn. 1.2.3 Văn hoá là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Mục tiêu phấn đấu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh ” là định hướng chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng chính là mục tiêu của văn hoá. Khi xác định những đặc trưng của xã hội mới mà nhân dân ta đang xây dựng, Đảng Cộng sản Việt nam đã nêu lên một đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Đó là “ nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ”. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển của con người. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xóm – Tổ quốc. Bản sắc văn hoá dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. Như vậy trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, cũng như trong các chủ trương, chính sách về văn hoá, Đảng ta xác định mục tiêu văn hoá, gắn liền với các mục tiêu kinh tế – xã hội : “ xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng văn minh con người phát triển toàn diện ”1 Văn kiện hội nghị lần V, BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VIII, NXB Chính trị Quốc gia 1998, trang 55 . 1.2.4 Văn hoá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng xã hội mới Việc phát triển kinh tế – xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau: tài nguyên, thiên nhiên, vốn… những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người là một nguồn lực vô tận, có khả năng tái sinh và tự sinh, không bao giờ cạn kiệt, lâu bền nhất trong sự phát triển của nhân loại và của mỗi dân tộc. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả, nếu không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác. Trong giai đoạn hiện nay đang diễn ra quá trình chuyển dịch từ sử dụng sức lao động cơ bắp là chủ yếu sang sử dụng nhiều lao động trí tuệ để sản xuất ra sản phẩm. Chính vì vậy, cần đề cao vai trò của giáo dục, khoa học, văn học và nghệ thuật để bồi dưỡng đào tạo nguồn lực người lao động có trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngày nay, quốc gia nào đạt thành tựu giáo dục cao tức là có vốn trí tuệ toàn dân nhiều hơn thì chứng tỏ xã hội đó phát triển cao hơn, có khả năng tăng trưởng dồi dào “ tài nguyên” con người. Cái vốn con người nói cho cùng là vốn trí tuệ của một dân tộc. Vì vậy, phải “ phát huy người tốt việc tốt hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới phù hợp với truyền thống bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại ”1 Văn kiện hội nghị lần V, BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia 1998, trang 113 . Cuộc chiến đấu “ ai thắng ai” đang diễn ra trên thị trường thế giới và khu vực hiện nay phụ thuộc chủ yếu vào việc đầu tư chuẩn bị cho nguồn vốn con người nhiều hay ít. 2. Đời sống văn hoá 2.1 Khái quát về đời sống văn hoá Đời sống văn hoá không phải là toàn bộ đời sống con người nhưng là bộ phân đặc biệt bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống con người. Từ việc sản xuất vật chất và tinh thần đến việc giữ gìn, trao đổi và tiêu dùng những sản phẩm do con người sáng tạo ra. Từ hoạt động sáng tạo nhằm tạo ra những giá trị tinh thần đến việc hưởng thụ những giá trị tinh thần, từ cảnh quan, môi trường xung quanh mà ở đó con người hoạt động văn hoá, lao động sáng tạo đến mọi quan hệ xã hội phức tạp và tinh tế. Đời sống văn hoá hiểu theo nghĩa rộng là bao quát mọi mặt của đời sống sản xuất, trao đổi, tiêu dùng, nhận thức, sáng tạo. Theo nghĩa hẹp, đời sống văn hoá chính là đời sống con người liên quan đến việc hưởng thụ và sáng tạo những sản phẩm văn hoá. Đời sống văn hoá là tổng hợp những yếu tố vật chất và tinh thần, môi trường tự nhiên và xã hội ở trong đó con người thực hiện hoạt động sản xuất bảo quản trao đổi và tiêu thụ những giá trị vật chất và tinh thần do chính con người tạo ra. Những hoạt động đó phản ánh mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, con người với con người và với xã hội đồng thời là cơ sở để hình thành lối sống con người trong chính môi trường đó. Với khái niệm này thì việc xây dựng đời sống văn hoá cũng chính là xây dựng môi trường văn hoá bởi môi trường văn hoá là môi trường chưa đựng những giá trị văn hoá và diễn ra các quan hệ văn hoá, các hoạt động sáng tạo, hưởng thụ văn hoá của con người nó được tạo nên bởi nhiều yếu tố trong đó trung tâm là yếu tố con người. 2.2 ý nghĩa của việc tham gia chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở Một trong những chủ trương lớn của Đảng ta là tổ chức xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, đưa văn hoá thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân : “ đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà máy, công trường, nông trường, lâm trường mỗi đơn vị lực lượng vũ trang , công an nhân dân, mỗi xã, hợp tác xã, phường ấp đều có đời sống văn hoá ”1 Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần V, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1982, trang 101 . Tổ chức xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở được coi như bước đi ban đầu trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới. Đó là công việc xây dựng kết cấu văn hoá hạ tầng cơ sở để tiến hành các hoạt động văn hoá - giáo dục mở mang dân trí, bồi dưỡng đạo đức, giáo dục thẩm mỹ và tổ chức hoạt động văn hoá trong thời gian rỗi theo nhu cầu của nhân dân. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở có ý nghĩa trực tiếp phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động về mặt văn hoá, góp phần biến mọi giá trị văn hoá thành tài sản của nhân dân lao động. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, trực tiếp truyền bá thông tin đến mọi người ( bằng các loại hình văn bản) góp phần trực tiếp “ phát triển các hoạt động văn hoá nghiệp dư đẩy mạnh phong trào văn hoá quần chúng ở cơ sở”2 Văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Đảng cộng sản Việt Nam, khóa VII, 1994, trang 50 . Coi trọng việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở cũng có nghĩa là xây dựng nền văn hoá thực sự của dân, do dân và vì dân . Nó khẳng định một nhận thức hết sức đúng đắn sự nghiệp văn hoá phải do chính nhân dân xây dựng. Nhân dân phải là chủ thể hưởng thụ văn hoá. Nhận thức đúng đắn vấn đề này có ý nghĩa thiết thực trong tổ chức chỉ đạo mọi hoạt động văn hoá ở cơ sở. Việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở có ý nghĩa thiết thực và có hiệu quả trực tiếp vì nó tác động trực tiếp, thường xuyên đến mọi tầng lớp nhân dân lao động, có ảnh hưởng lớn đến đời sống của nhân dân và sự thể hiện của nó thường dễ nhận thấy. Việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở có tác động trực tiếp tới sự hình thành nhân thức đúng đắn trong nhân dân về chính trị, kinh tế, xã hội tạo điều kiện phát huy tính chủ động sáng tạo của nhân dân trong mọi mặt của đời sống xã hội, các hoạt động văn hoá góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để văn hoá thực sự trở thành động lực của sự phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương phát động phong trào “ toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ” nhằm huy động mọi lực lượng nhân dân và cả hệ thống chính trị thực hiện nghiêm túc từ trên xuống, từ trong Đảng, cơ quan Nhà nước, các đoàn thể ra ngoài xã hội. Trong việc xây dựng đời sống văn hoá, tạo điều kiện thuận lợi và môi trường lành mạnh cho mọi tầng lớp xây dựng, tham gia hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá. 2.3 Quan điểm của Đảng, Nhà nước và trách nhiệm của tổ chức Công đoàn trong việc tham gia chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở. Đời sống văn hoá ở cơ sở là một trong những vấn đề được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm. Điều đó thể hiện quan điểm có tính xuyên suốt của Đảng ta là “ lấy dân làm gốc”, lấy việc phục vụ con người là mục đích cao nhất. Để cụ thể hoá quan điểm này, nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ III khoá V đề ra “ tất cả các cơ sở đều có tổ chức hoạt động văn hoá, tức là không còn cơ sở trắng về văn hoá” và được xác định : xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở phải là một trọng tâm công tác của Nhà nước. Trong văn kiện Đại hội lần thứ V Đảng ta nhận định “ phải đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở”… Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII Đảng cộng sản Việt Nam nhấn mạnh “phát triển các hoạt động văn hoá nghiệp dư, đẩy mạnh phong trào văn hoá quần chúng ở cơ sở”. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng khẳng định “củng cố tăng cường mạng lưới văn hoá cơ sở”. Tại văn kiện Đại hội Đảng IX, Đảng ta đã khẳng định và nhấn mạnh nhiệm vụ trong đường lối kinh tế những năm đầu thế kỷ XXI là “ tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường”. Còn trong Hội nghị lần thứ năm ( khoá VIII) của Ban Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết : “ về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (tháng 7 – 1998). Quan điểm của Đảng ta đặt ra là xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở trong điều kiện thực tế ở Việt Nam chính là phương thức tốt nhất để rút ngắn khoảng cách giữa thành thị với nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi. Chính vì vậy mà trước lúc đi xa Bác Hồ kính yêu đã căn dặn “ Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở còn cần phải hiểu và quán triệt là tổ chức các hoạt động văn hoá để đưa “ văn hoá thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân”. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở là một cuộc đấu tranh lâu dài, gay go và phức tạp, đó là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa cái lạc hậu và cái tiến bộ, giữa cái phản động và cái cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá, trên lĩnh vực đời sống tinh thần, lối sống của mỗi con người, của cả một cộng đồng, cả dân tộc. Xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, trước hết là hướng vào việc giáo dục xây dựng con người phát triển toàn diện. Đó là những con người “ có tư tưởng và tình cảm, có tri thức và thể lực, có phẩm chất và năng lực”. Trên cơ sở đó đời sống văn hoá ở cơ sở là thực sự phát huy quyền làm chủ tập thể của công nhân lao động về văn hoá, là thưởng thức – hưởng thụ – sáng tạo những giá trị văn hoá nghệ thuật, tạo dựng nên một lối sống văn minh lành mạnh, tiến bộ, những phong tục tập quán tốt đẹp, mang đậm bản sắc dân tộc. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở chính là trực tiếp truyền bá dến người lao động những kiến thức tạo cho họ có khả năng tiếp cận những thành tựu văn hoá và tham gia tích cực vào các lĩnh vực khác nhau của hoạt động xã hội góp phần tạo ra lực lượng sản xuất mới, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở với các hoạt động văn hoá sẽ từng bước và từ nhiều phía tác động

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4.doc
Tài liệu liên quan