Đề tài Lí luận chủ nghĩa Mac-Lenin

Trong lý luận về hình thái kinh tế xã hội của C. Mác cho thấy sự biến đổi của các xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên.

Vận dụng lý luận đó vào phân tích xã hội tư bản( XHTB) để tìm ra quy luật vận động của nó - C. Mác và Ăngghen đều cho rằng: Phương thức sản xuất TBCN có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

- C.Mác và Ăngghen đã chỉ rõ: Sự tiến bộ lịch sử của chế độ tư bản, vai trò cực kỳ to lớn của nó trong việc phát triển sức sản xuất và xã hội hóa lao động. Đồng thời cũng chỉ ra những giới hạn tạm thời về mặt lịch sử của chế độ đó: " Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ TBCN của chúng nữa. Cái vỏ đó vỡ tung ra. Giờ tận số của chế độ TBCN đã điểm. Những kẻ đi tước đoạt bị tước đoạt".

- Đồng thời C. Mac và Ăngghen cũng dự báo trên những nét lớn về những đặc trưng cơ bản của xã hội mới đó là:

+ Có lực lượng sản xuất xã hội phát triển cao.

+ Chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu.

+ Sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội.

+ Nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên phạm vi toàn xã hội.

+ Sự phân phối sản phẩm bình đẳng.

+ Sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay bị xóa bỏ.

Nhưng để xây dựng xã hội mới với những đặc trưng trên cần phải trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp ( giai đoạn đầu) và giai đoạn cao ( giai đoạn sau). Sau này Lênin gọi giai đoạn đầu là CNXH, giai đoạn sau là chủ nghĩa cộng sản.

 

doc13 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1104 | Lượt tải: 1download
Nội dung tài liệu Đề tài Lí luận chủ nghĩa Mac-Lenin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1.Lí luận chủ nghĩa Mac-lenin 1.1.Lý luận 1.1.1. Lí luận về hình thái KTXH của C.Mác Trong lý luận về hình thái kinh tế xã hội của C. Mác cho thấy sự biến đổi của các xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. Vận dụng lý luận đó vào phân tích xã hội tư bản( XHTB) để tìm ra quy luật vận động của nó - C. Mác và Ăngghen đều cho rằng: Phương thức sản xuất TBCN có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa. - C.Mác và Ăngghen đã chỉ rõ: Sự tiến bộ lịch sử của chế độ tư bản, vai trò cực kỳ to lớn của nó trong việc phát triển sức sản xuất và xã hội hóa lao động. Đồng thời cũng chỉ ra những giới hạn tạm thời về mặt lịch sử của chế độ đó: " Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đạt đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ TBCN của chúng nữa. Cái vỏ đó vỡ tung ra. Giờ tận số của chế độ TBCN đã điểm. Những kẻ đi tước đoạt bị tước đoạt". - Đồng thời C. Mac và Ăngghen cũng dự báo trên những nét lớn về những đặc trưng cơ bản của xã hội mới đó là: + Có lực lượng sản xuất xã hội phát triển cao. + Chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu. + Sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội. + Nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên phạm vi toàn xã hội. + Sự phân phối sản phẩm bình đẳng. + Sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao động chân tay bị xóa bỏ... Nhưng để xây dựng xã hội mới với những đặc trưng trên cần phải trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp ( giai đoạn đầu) và giai đoạn cao ( giai đoạn sau). Sau này Lênin gọi giai đoạn đầu là CNXH, giai đoạn sau là chủ nghĩa cộng sản. 1.1.2. Lí luận của Lê - Nin Vận dụng học thuyết của C.Mác vào công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô trước đây, Lênin đã phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH với nội dung như sau Thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan, bất cứ quốc gia nào đi lên CNXH đều phải trải qua, kể cả các nước có nền kinh tế rất phát triển. Như vậy Lênin đã khẳng định rằng thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan không chỉ các nước có nền kinh tế lạc hậu mà kể cả các nước có nền kinh tế phát triển (tức được hiểu rằng những nước đã kinh qua chế độ TBCN) và Lênin coi đó là một việc phải làm mà bất cứ quốc gia nào cũng phải trải qua. - Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách sâu sắc triệt để toàn diện từ xã hội cũ thành xã hội mới - xã hội XHCN. Nó diễn ra từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền bắt tay vào công cuộc xây dựng xã hôi mới và kết thúc khi xây dựng thành công những cơ sở của CNXH về các mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế, kiến trúc thượng tầng. - Tính tất yếu của thời kỳ quá độ được qui định bởi đặc điểm ra đời, phát triển cách mạng vô sản và những đặc trưng kinh tế xã hội của CNXH. 1.1.3. Đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ qúa độ là: sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần và tương ứng với nó có nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng vị trí, cơ cấu và tính chất của các giai cấp trong xa hội đã thay đổi một cách sâu sắc. - Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần về khách quan và lâu dài có lợi cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế. - Thời kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh" ai thắng ai" giữa CNXH và CNTB quyết liệt quanh co, khúc khuỷu phức tạp. 1.1.4. Khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN: - Dự báo của C.Mác Phân tích tính chất và đặc điểm của CNTB trong thời kỳ tự do cạnh tranh Mác và Ăngghen đã rút ra kết luận: cách mạng cộng sản chủ nghĩa không thể xảy ra ở riêng một nước TBCN mà sẽ đồng loạt xảy ra trong tất cả các nước tư bản văn minh. Những dự báo trên là xuất phát từ điều kiện của CNTB đang ở thời kỳ tự do cạnh tranh, thời kỳ mà CNTB tương đối ổn định, các mâu thuẫn giữa các nước tư bản chưa đến mức gay gắt quyết liệt. - Luận điểm của Lênin Phát triển học thuyết của C. Mác trong thời kỳ mới, thời kỳ đế quốc chủ nghĩa Lênin đã xây dựng lý luận về chủ nghĩa đế quốc và đã phát hiện ra quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị của CNTB và người đã rút ra kết luận quan trọng về khả năng thắng lợi của CNXH trước tiên ở một số nước hoặc ở một nước riêng lẻ, chứ không thể thắng lợi cùng một lúc ở tất cả các nước. - Khi CNXH thắng lợi ở một nước thì nhân loại bắt đầu bước vào một thòi đại mới - thời đại qua độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Trong điều kiện đo các nước lạc hậu có thể qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, nhưng phải các điều kiện bên trong và bên ngoài. + Điều kiện bên trong: Có ĐCS lãnh đạo và giành chính quyền và sử dụng chính quyền nhà nước công, nông, trí thức liên minh làm điều kiện tiên quyết để xây dựng CNXH. + Điều kiện bên ngoài: Có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của các nước tiên tiến đã giành thắng lợi trong cách mạng vô sản. (CMVS) Tuy các nướclạc hậu có khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN nhưng không phải là quá độ trực tiếp mà phải qua con đường gián tiếp với một loạt những bước quá độ thích hợp thông qua chính sách "kinh tế mới" 1.1.5. Thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử Vận dụng lý luận của Lênin vào hoàn cảnh của Việt Nam Đảng ta đã xác định: thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây dựng CNXH dù điểm xuất phát ở trình độ cao hay thấp - vì vậy thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử, bởi vì: - Một là: Phát triển theo con đường XHCN là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử: Loài người đã phát triển qua 5 hình thái kinh tế xã hội, sự biến đổi đó là một quá trình lịch sử tự nhiên, đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. - Hai là: Phát triển theo con đường CNXH không chỉ phù hợp với xu thế của thời đại mà còn phù hợp với đặc điểm cách mạng Việt Nam 1.2.Thực tiễn kinh nghiệm các nước 1.2.1.Liên Xô 1.2.1.1.Hoàn cảnh:sau cách mạng tháng mười Nga thành công,đến cuối năm 1918,ở nước Nga có nội chiến(giai cấp địa chủ và tư bản bị lật đổ đã nổi dậy chống chính quyền Xô Viết).từ bên ngoài có sự can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc do Anh,Pháp cầm đầu hòng bóp chết Nhà nước Xô Viết còn non trẻ.Để đối phó với tình hình đó,Lênin nêu ra chiến.” Cuối năm 1920,nội chiến kết thúc,nước Nga chuyển sang thời kì kiến thiết trong hòa bình.Do đó,chính sách”Kinh tế cộng sản thời chiến “đã làm xong vai trò lịch sử bất đắc dĩ của nó,giờ đây không cho phép dẫn nó đi xa hơn nữa,vì nông dân nhiều nơi đã tỏ ra bất mãn với chính sách kinh tế cộng sản thời chiến.Do đó,cần thiết phải trở lại thực hiện kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội do Leenin đề ra năm 1918,phải trở lại những quan hệ kinh tế khách quan giữa công nghiệp và nông nghiệp,giữa thành thị và nông thôn.Do những yêu cầu đó,đại hội X của Đảng Cộng Sản Bônxsêvich Nga(họp từ ngày 8 đến ngày 16-3-1921) đã chủ trương thay chính sách “kinh tế cộng sản thời chiến”bằng chính sách “kinh tế mới” – NEP. 1.2.1.2.Nội dung : Chính sách “ Kinh tế mới “ ở Liên Xô - Dùng thuế lương thực thay cho trưng thu lương thực thừa trong chính sách cộng sản thời chiến.   - Thiết lập quan hệ hàng hóa tiền tệ, phát triển thị trường , thương nghiệp... thay cho Chính sách cộng sản thời chiến.   - Sử dụng nhiều thành phần kinh tế, các hình thức kinh tế quá độ, khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân thay cho sự thủ tiêu kinh doanh tư nhân trong chính sách cộng sản thời chiến, sử dụng củ nghĩa tư bản nhà nước , chuyển các xí nghiệp nhà nước sang chế độ hạch toán kinh tế, chủ trương phát triển qua hệ kinh tế với các nước phương Tây để tránh thủ vốn, kỹ thuật... Sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế trong quá trình xây dựng CNXH đã được V.I. Lênin đề cập ngay từ những ngày đầu của chính quyền Xô viết. Theo Lênin, trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ có sự xen kẽ của 'những yếu tố, những bộ phận nhỏ, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội .Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ sẽ không thuần nhất và ở đó vẫn tồn tại nhiều thành phần kinh tế đan xen và tác động lẫn nhau, đó là những yếu tố của 5 thành phần kinh tế xã hội khác nhau (kinh tế gia trưởng, tiểu sản xuất hàng hoá, chủ nghĩa tư bản tư nhân, chủ nghĩa tư bản nhà nước và CNXH). Những tư tưởng của Lênin đã được triển khai vào công cuộc xây dựng đất nước Xô viết và đã đem lại thành công đáng kể trong thời kỳ thực hiện Chính sách kinh tế mới (thay cho chính sách kinh tế thời chiến). Đây là thời kỳ mà về sau này đã được đánh giá rằng chính Lênin đã thực hiện một bước ngoặt cách mạng cực kỳ vĩ đại đối với nền kinh tế Xô viết, hình thành lý luận về một mô hình kinh tế của thời kỳ quá độ đi lên CNXH. 1.2.1.3.Kết quả: Đến cuối năm 1922,Liên Xô đã vượt qua được nạn đói và đến năm 1925,nông nghiệp Liên Xô đã vượt mức trước chiến tranh.Tổng sản lượng lương thực của Liên Xô đã tăng từ 42,2 triệu tấn(năm 1921)lên đến 74,6 triệu tấn(năm 1925).tổng sản lượng công nghiệp năm 1925 so với năm 1913 mới đạt 75,5%.tuy nhiên ngành điện và cơ khí chế tạo vượt mức trước chiến tranh,nhiều xí nghiệp công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm đã đạt và vướt mức trước chiến tranh. Ngân sách nhà nước đã được củng cố lại:năm 1925-1926 ,thu nhập của Nhà nước tăng lên gấp 5 lần so với năm 1922-1923. 2.Thực tiễn của Việt Nam Sau khi cuộc kháng chiến của chống thực dân Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi,tháng 7-1954 hòa bình đã được lập lại ở miền Bắc,còn miền Nam vẫn tạm thời phải sống dưới ách thống trij của Mỹ-Ngụy.Lúc này,miền Bắc đã đã bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,với những đặc điểm sau đây: -Là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,chủ yếu dựa trên sản xuất nhỏ cá thể ,cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản để lại hết sức kém cỏi và non yếu.Công nghiệp nhỏ bé,mới phôi thai.Nông nghiệp và thủ công nghiệp có tính chất phân tán,chiếm bộ phận lớn trong nền kinh tế quốc dân .Hơn nữa ,miền Bắc lại bị tàn phá nặng nề của 15 năm chiến tranh. -Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến hành trong hoàn cảnh đất nước ta bị chia cắt làm hai miền .Đế quốc Mỹ đã biến miền Nam thành thuộc địa và căn cứ phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chuẩn bị gây chiến tranh xâm lược. - Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội trong khi chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới 3.Nội dung chính sách Nhận thức rõ tính tất yếu của của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, để xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện , trường kỳ và tự lực cánh sinh bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật, trước hết là lương thực thực phẩm cho cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh đã xác định nước ta phải phát triển 6 thành phần kinh tế khác nhau ,gồm: -          kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô -          kinh tế quốc doanh có tính chất xã hội chủ nghĩa -          kinh tế hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, các hội đổi công nông thôn, có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa -          kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ -          kinh tế tư bản của tư nhân -          kinh tế tư bản quốc gia Không những chỉ ra 6 thành phần kinh tế mà Hồ Chí Minh còn nói rõ xu hướng phát triển của các thành phần kinh tế đó. Mặc dù thành phần kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô là thành phần kinh tế đã lỗi thời, nhưng để thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, thu hút số địa chủ vừa và nhỏ tham gia kháng chiến, Hồ Chí Minh chủ trương chỉ thực hiện chế độ giảm tô, giảm tức nhằm hạn chế dần sự bóc lột và tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này đóng góp cho cuộc kháng chiến Hồ Chí Minh rất coi trọng thành phần kinh tế quốc doanh tồn tại ở các cơ sở sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Đây là thành phần kinh tế mới ra đời trong chế độ dân chủ mới . Theo Hồ Chí Minh Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của nền kinh tế dân chủ mới, Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân, theo Hồ Chí Minh là thành phần kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc, mặc dù giai cấp tư sản có bóc lột đối với giai cấp công nhân, nhưng họ cũng góp phần vào phát triển kinh tế, góp công góp của cho cuộc kháng chiến. Và Người khẳng định Chúng ta không chủ trương giai cấp tranh đấu vì một lẽ tầng lớp tư sản Việt Nam đã bị kinh tế thực dân đè nén không cất đầu lên được, khiến cho kinh tế Việt Nam đã bị tiêu diệt, dân cùng tài tận . Trái lại, chúng ta chủ trương làm cho tư sản Việt Nam phát triểnnnn(4) Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước , quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là : Chính phủ cần phải giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân. Trong tác phẩm Thường thức chính trị ( xuất bản năm 1953 ), Người cho rằng Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhânnnn . Đây chính là sự khác biệt cơ bản giữa nhà tư bản trong xã hội tư bản với nhà tư bản trong chế độ dân chủ mới và cũng là sự hướng dẫn cần thiết đối với thành phần kinh tế này. Hồ Chí Minh chỉ rõ : vì lợi ích lâu dài , anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý , không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự động tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên Ở Việt Nam, ngay sau khi giành được độc lập, Nhà nước non trẻ của chúng ta vừa phải kháng chiến chống thù trong giặc ngoài, vừa tiến hành 'kiến quốc', nhờ huy động được mọi thành phần kinh tế, chúng ta đã phá được chính sách bao vây kinh tế của địch , bảo đảm khối đại đoàn kết toàn dân, phục vụ kịp thời cho cuộc kháng chiến , đồng thời cũng đáp ứng yêu cầu lâu dài của cách mạng Việt Nam là xây dựng chế độ dân chủ mới theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội . Trong qúa trình cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Hồ Chí Minh cũng chủ trương cải tạo hoà bình đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh. Khi chế độ dân chủ mới ra đời và phát triển thì thành phần kinh tế địa chủ phong kiến sẽ bị thủ tiêu . Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng trong chế độ mới còn sự tồn tại của năm thành phần kinh tế khác nhau. Đó là: -Nền kinh tế quốc doanh ( nền kinh tế của toàn thể nhân dân ) -Các hợp tác xã -Kinh tế cá nhân, nông dân và thủ công nghệ . -Tư bản tư nhân -Tư bản của Nhà nước Trong năm loại ấy, kinh tế quốc doanh là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế nước ta sẽ phát triển theo hướng CNXH chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản 4.Tính đúng đắn của luận điểm 4.1 Thực tiễn Sau khi giải phóng miền Nam 1975, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, cả nước thống nhất đi lên CNXH. Hội nghị Trung ương lần thứ 24 (khoá III, ngày 20-9-1975) đã xác định phương hướng tiến lên của cách mạng cả nước. Trên cơ sở phân tích đặc điểm mới của tình hình đất nước, Hội nghị đã thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế ở mỗi miền. Miền Bắc có 3 thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể và cá thể. Ở miền Nam, Nghị quyết nêu rõ trong một giai đoạn nhất định, còn tồn tại các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh XHCN, kinh tế tập thể XHCN, kinh tế công tư hợp doanh nửa XHCN, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư doanh. Đây là lần đầu tiên trong văn bản Nghị quyết của Đảng ghi rõ việc thừa nhận của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhưng trong thực tế chúng ta đã không nhất quán thực hiện theo tư tưởng đó. Trong quá trình hình thành và xác lập đường lối cách mạng XHCN được nêu lên trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12-1976); Đảng ta không nghiên cứu phát triển sâu sắc thêm về chính sách kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam. Tư tưởng trên đây đã dẫn tới các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, lần thứ V và các Chỉ thị, Nghị quyết sau đó đều nhấn mạnh cải tạo XHCN theo hướng xoá bỏ nhanh chóng các quan hệ sản xuất cũ. Đến cuối những năm 70, nền kinh tế nước ta đã bộc lộ rõ sự yếu kém về mọi mặt, mất cân đối nghiêm trọng. Trước tình hình ấy Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần tập trung nghiên cứu để tìm cách tháo gỡ, nhiều giải pháp đã được đưa ra nhưng đều không đem lại kết quả như mong muốn. Sở dĩ như vậy là do điểm xuất phát của những giải pháp này vẫn dựa trên những quan niệm lạc hậu, xơ cứng về CNXH, về sản xuất lớn XHCN, về cải tạo, xây dựng và sử dụng các thành phần kinh tế. Có thể nói việc cải tạo XHCN lúc đó chủ yếu là xoá sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thành sở hữu tập thể và toàn dân đã gây ra sự lãng phí to lớn lực lượng sản xuất của xã hội. Trước bối cảnh ấy, nhiều cơ sở đã chủ động tìm kiếm những giải pháp tháo gỡ khó khăn, thoát ra khỏi khủng hoảng của nền kinh tế, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển. Đã xuất hiện 'khoán chui' trong nông nghiệp và 'phá rào' trong công nghiệp. Từ thực tế đó đã làm nảy sinh nhiều tư tưởng, nhận thức trái ngược nhau. Nhưng đó cũng chính là sự khởi đầu, khai thông từng bước đổi mới nhận thức và chính sách của Đảng về nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cho đến lúc này, xét về đại thể, tư duy cũ về kinh tế vẫn tồn tại, nền kinh tế nước ta vẫn nằm trong khủng hoảng. Nhưng từ thực tiễn đã hé mở những khả năng mang tính hiện thực có thể ngăn chặn sự xuống dốc của nền kinh tế và đem lại một sinh lực phát triển mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3.1982) đã chỉ ra những khó khăn và yếu kém của đất nước và nhấn mạnh khó khăn đó là do khuyết điểm và sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ Trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Căn cứ hiện trạng các thành phần kinh tế của đất nước, Đại hội khẳng định trong một thời gian nhất định, ở miền Nam còn 5 thành phần kinh tế là: quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể và tư bản tư doanh. Đây là sự chuyển đổi trong nhận thức về đường lối và chính sách kinh tế của Đảng ta: chủ trương sử dụng một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ để tận dụng mọi năng lực sản xuất sẵn có.Tuy vậy do vẫn còn hạn chế bởi tư duy cũ về CNXH và còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của những quan điểm mang nặng tính chủ quan duy ý chí nên những giải pháp mà Đại hội đề ra vẫn chưa thực sự sát với thực tiễn và với yêu cầu của cuộc sống. Đại hội đã không đặt vấn đề chú trọng, sử dụng, liên kết phát triển các thành phần kinh tế nhằm phát triển lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó mà tăng cường thành phần kinh tế XHCN và cải tạo các thành phần kinh tế tư nhân với hình thức, bước đi phù hợp. Trái lại, Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh nguy cơ: trên một số trận địa XHCN, những yếu tố tư bản chủ nghĩa và phi XHCN xâm lấn . Do đó, Đại hội đặt ra mục tiêu trong kế hoạch 5 năm (1981 - 1985):Hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN ở các tỉnh miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất XHCN trong cả nước . Sau Đại hội V(3.1982), trước thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng ta đã nhìn nhận, xem xét lại tư duy kinh tế trên những vấn đề chủ yếu và đặc biệt là vấn đề thừa nhận hay không thừa nhận chính sách kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta. Nhìn chung thời kỳ 1975-1985 là thời kỳ sử dụng mô hình kinh tế cũ mà đặc trưng là: cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các thành phần kinh tế phi XHCN sớm bị xoá bỏ ở mức cao và mở rộng trong phạm vi cả nước.Những nhược điểm và khuyết điểm của mô hình đó đã trở thành sức cản lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt. Song, cũng chính từ thực tiễn khó khăn tưởng chừng khó vượt qua đó mà Đảng đã phát huy cao độ ý chí quyết tâm, tinh thần độc lập suy nghĩ tìm tòi sáng tạo để đề ra các giải pháp hữu hiệu. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12.1986) là một trong các mốc quan trọng đánh dấu sự đổi mới căn bản trong nhận thức của Đảng ta về mô hình kinh tế mới: nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đại hội lần thứ VI đã phân tích sâu sắc những sai lầm khuyết điểm, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay những thành phần kinh tế phi XHCN ,chúng ta 'đã có những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa .Về vai trò vai trò của các thành phần kinh tế ' Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài Đảng chủ trương đổi mới toàn diện và sâu sắc để đi tới chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc.Trọng tâm là đổi mới kinh tế, mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Điều quan trọng là phải nhận thức tính toán lại hình thức bước đi của quá trình cải tạo chủ nghĩa , làm sao để phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế trong công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh và thực hiện mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội . Từ tổng kết sâu sắc thực tiễn quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế , Đai hội VI khẳng định: 'Muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đi đôi với việc bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư theo ngành và theo vùng, phải xác định đúng cơ cấu thành phần kinh tế. Đảng ta cho rằng, chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế cho phép các hình thức kinh tế với quy mô và trình độ kỹ thuật thích hợp trong từng khâu của quá trình sản xuất và lu thông phát triển, nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế , trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Giải pháp đó xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trng của thời kỳ quá độ. Đại hội VI xác định các thành phần đó là: Kinh tế XHCN bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó. Các thành phần kinh tế khác (thực chất là phi XHCN) gồm: Kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, những ngời buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể). Kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức mà cao nhất là công tư hợp doanh. Kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác. Đến Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khoá VI (1989), Đảng ta chủ trương phát triển đan xen nhiều loại hình hỗn hợp, đan kết các hình thức sở hữu, kinh tế quốc doanh có vai trò chủ đạo. Hội nghị đã khẳng định: chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là chính sách có ý nghĩa chiến lược lâu dài, là vấn đề có tính quy luật để đi từ sản xuất nhỏ lên CNXH, là thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế, bảo đảm cho người dân được tự do làm ăn theo pháp luật. Song, thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội lần thứ VI không có nghĩa là thừa nhận các thành phần kinh tế đó có vị trí ngang nhau, có tác dụng như nhau và không có sự biến đổi chuyển hoá. Cần thấy rõ rằng các thành phần kinh tế này phải hợp với nhau thành một cơ cấu thống nhất trong nền kinh tế quốc dân và tất cả chỉ được phát triển theo một quỹ đạo: con đường XHCN. Đảng chủ trương sử dụng các thành phần kinh tế để phát triển sản xuất, nhưng phải có chính sách và pháp luật, dựa vào sức mạnh của kinh tế XHCN để kiểm soát và chi phối các thành phần kinh tế theo phương châm 'sử dụng để cải tạo, cải tạo để sử dụng tốt hơn' . Thái độ đối với các thành phần kinh tế, Đảng ta luôn chủ trương 'các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, được khuyến khích phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh'. Có thể khẳng định, tiếp thu những quan điểm của Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận sự phát triển tất yếu của kinh tế nhiều thành phần, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng XHCN. Đó là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn, phản ánh đúng thực trạng vận động của nền kinh tế Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6.1991) của Đảng ta đã khẳng định đường lối đổi mới đúng đắn do Đại hội VI (12.1986) đề ra và nhấn mạnh cần thiết phải thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) nêu rõ nền kinh tế nước ta có 5 thành phần. Đó là: Kinh tế quốc doanh có vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng. Kinh tế cá thể có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào con đờng làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do pháp luật quy định. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức. Đại hội VIII (6.1996) của Đảng đã xác định nền kinh tế nước ta có 5 thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Quan điểm phát triển nền kinh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc110712.doc
Tài liệu liên quan