Đề tài Kỹ thuật xDSL

Trên đây chúng ta đã miêu tả những nét chính của trúc khung và siêu khung ADSL, cần

chú ý rằng trong lớp truyền tải thứnhất, cấu trúc mặc định chỉ định 96 byte cho AS0 và

AS1 trong mỗi khung ADSL. Vì có 8 bit trong 1 byte và 4000 khung ADSL được gửi

mỗi giây nên tốc độ bít trên AS0 và AS1 là 3,072 Mbit/s không kể đến kích thước khung

đầy đủ. Nhưvậy hai kênh tải tin từtổng đài tới thuê bao hoạt động ở 3,072 Mbit/s là sự

tuỳchọn thiết lập cho lớp thứ nhất. Thực tếtrong trường hợp này, đối với cấu hình mặc

định thì kích thước phần đệm cũng nên nhận giá trịmặc định là hiệu quả nhất. Chú ý rằng

các kênh LS0 cũng có tốc độ 64 kbit/s cho hai hướng.

Cấu trúc khung ADSL trong lớp truyền tải thứnhất được gửi đi từ ATU-C. Các byte

nhanh được truyền đi trước loại trừ tất cảcác byte tới từ bộ đệm chèn.

pdf34 trang | Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1158 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Kỹ thuật xDSL, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ADSL ở hai đầu đường truyền có thể nhận biết cấu trúc các kênh (AS và LS), tốc độ của các kênh, vị trí của các bít trong khung. Các chức năng khác của phần mào đầu bao gồm: kênh nghiệp vụ nhúng (embedded operations channel-EOC), kênh điều khiển nghiệp vụ (operations control channel-OCC) để tái cấu hình, thích ứng tốc độ từ xa và nhận dạng lỗi qua việc kiểm tra phần dư theo chu kỳ (cyclical redundancy check- CRC), một số bit sử dụng cho khai thác, quản lý và bảo dưỡng (OMC), số khác dùng sửa lỗi trước (forward error correction-FEC). Tất cả các bít mào đầu được gửi trên cả hai hướng. Trong phần lớn trường hợp, các bit mào đầu truyền với tốc độ 32 kbit/s (nhưng cũng có ngoại lệ). Ðối với dung lượng cao, hướng từ tổng đài tới thuê bao có tốc độ lớn nhất là 128 kbit/s và nhỏ nhất là 64 kbit/s (giá trị mặc định là 96 kbit/s) và tốc độ lớn nhất là 64 kbit/s và nhỏ nhất là 32 kbit/s (giá trị mặc định là 64 kbit/s) cho hướng từ thuê bao tới tổng đài. Bit mào đầu có thể nằm trong tốc độ bit của khung ADSL và không chiếm băng tần phụ hoặc được thêm vào tốc độ bit của khung cho hướng này hoặc hướng kia. Ví dụ, lớp truyền tải thứ nhất hoạt động với tốc độ 6,144 Mbit/s chiều xuống cộng thêm tối đa 192 kbit/s và tối thiểu 128 kbit/s cho tốc độ bit tổng. Khi ghép với tốc độ mào đầu lớn nhất trên kênh song công thì tốc độ lớp thứ nhất tăng từ 6,144 Mbit/s tới 6,976 Mbit/s (lớn nhất) hoặc 6,336 Mbit/s (nhỏ nhất) với 6,912 Mbit/s sử dụng cho hầu hết các tốc độ sử dụng tốc độ mào đầu mặc định. Các lớp khác cũng ảnh hưởng tương tự. 1.4.5 Cấu trúc siêu khung và khung ADSL. • Cấu trúc siêu khung Thiết bị ADSL gồm ATU-C và ATU-R truyền dữ liệu bằng cách sử dụng các mã đường truyền, thông tường là DMT hoặc CAP. (LS0,LS2) LS1) hay LS1 (LS0,LS2 Tất cả các giao thức ngày nay đều xây dựng trên cơ sở phân lớp. Giao thức ADSL cũng vậy. ở mức thấp nhất của giao thức là các bit, biểu thị bởi mã đường truyền DMT và CAP. Các bit được tổ chức thành khung và tập hợp các khung thành siêu khung theo một trật tự. Nếu so sánh với các cấu trúc khung khác, siêu khung ADSL có nhiều điểm chung với cấu trúc khung hoặc siêu khung của T1 hơn là cấu trúc khung của mạng Ethernet LAN. Trong thực tế, các khung Ethernet có thể tạo nên nội dung của siêu khung ADSL. Toàn bộ cấu trúc siêu khung được miêu tả ở hình 1.15. Trong ADSL, một siêu khung bao gồm một dãy 68 khung ADSL liên tiếp. Trong số đó, một vài khung có chức năng đặc biệt. Ví dụ ở khung 0 và 1, mang thông tin điều khiển lỗi (kiểm tra phần dư chu kỳ - CRC) và các bít chỉ thị sử dụng cho quản lý đường truyền. Ngoài ra, các bít chỉ thị khác được tải ở khung 34 và 35. Một khung đồng bộ đặc biệt không mang tin theo sau siêu khung đảm nhận chức năng đồng bộ cho siêu khung. Một siêu khung ADSL có chu kỳ 17 ms. Vì đường truyền ADSL chỉ truyền cho các tuyến điểm-điểm nên không có địa chỉ khung và nhận dạng kết nối của ADSL. Hình 1.10. Cấu trúc siêu khung ADSL Bên trong các siêu khung là các khung ADSL. Một khung của ADSL có chu kỳ là 250 μs (1/4000 giây) và chia thành hai phần chính. Phần đầu là phần số liệu nhanh. Phần số liệu nhanh liên quan đến độ nhạy trễ, khả năng chấp nhận nhiễu (ví dụ audio và video). Nội dung của phần đệm dữ liệu nhanh của thiết bị ADSL được đặt tại đây. Một byte đặc biệt được gọi là byte nhanh được đặt trước phần này và mang chức năng CRC cộng với một số bít chỉ thị cần thiết. Dữ liệu nhanh được bảo vệ bởi trường FEC để sửa lỗi. Khung Khung Khung Khung 34 Khung 66 Khung 67 Ð-Bộ Khung 35 Byte nhanh FEC Phần đệm dữ liệu nhanh Phần đệm dữ liệu xen Siêu khung ADSL 17 mili giây khung ADSL 250 micro giây Phần thứ 2 của khung bao gồm những thông tin từ bộ đệm chèn. Dữ liệu xen là những gói tin có thể bị ảnh hưởng của nhiễu do thời gian sử lý và bị trễ. Việc chèn bit làm cho bit tín hiệu ít bị ảnh hưởng những tác động của nhiễu. Phần này của khung dùng cho các ứng dụng số liệu thuần tuý, như là truy nhập Internet tốc độ cao. Tuy nhiên, tất cả nội dung của khung phải được trộn ngẫu nhiên trước khi truyền để tối thiểu hoá các lỗi đồng bộ siêu khung. Chú ý rằng sẽ không có một kích cỡ khung tuyệt đối cho các siêu khung ADSL bởi vì tốc độ đường truyền ADSL thay đổi và không đối xứng, hơn nữa bản thân kích cỡ khung cũng không cố định. Tuy vậy, chúng ta vẫn ngầm hiểu rằng kích cỡ khung là cố định, có nghĩa là mỗi khung có chu kỳ 250 μs (phần dữ liệu nhanh và chèn là 125 μs), và một siêu khung phải có chu kỳ 17 ms. Ðương nhiên tốc độ truyền ADSL lớn nhất sẽ có kích thước khung lớn nhất. Kích cỡ phần đệm được xác định theo cấu trúc và tốc độ kênh tải khi thiết lập cấu hình ban đầu. Hơn thế nữa, kích cỡ phần đệm này cũng có thể thay đổi lại trong quá trình khai thác. Như đã đề cập ở trên khung 0, 1, 34 và 34 có chức năng đặc biệt trong cấu trúc siêu khung ADSL. Các khung này kiểm tra phần dư cho các siêu khung và các bit chỉ thị cho các chức năng khác nhau của mào đầu. Các khung khác (2 đến 33 và 36 đến 67) mang thông tin mào đầu cho kênh EOC và kênh điều khiển đồng bộ (SC). Tất cả các thông tin này được tải trong byte dữ liệu nhanh của từng khung ADSL trong siêu khung . Khung lẻ Khung chẵn Khung 0, 1 crc7 crc6 crc5 crc4 crc3 crc2crc1crc0 ib7 ib6 ib5 ib4 Ib3 ib2 ib1 ib0 Khung 34, 45 ib15 ib14 ib13 ib12 ib11 ib10ib9 ib8 Ib23 ib22 ib21 ib20 Ib19ib18ib17 ib16 Khung 2-23, 36-73 Eoc eoc Eoc eoc eoc Eoc eoc r1 1 Eoc13eoc12eoc11eoc10 Eoc eoc eoc 1 đk đồng bộ sc7 sc6 sc5 sc4 sc3 sc2 sc1 0 sc7 sc6 sc5 sc4 Sc3 sc2 sc1 0 Hình 1.11. Cấu trúc bit mào đầu ở byte dữ liệu nhanh Các bit mào đầu dữ liệu nhanh có cấu trúc khác nhau phụ thuộc vào tính chẵn lẻ của khung đánh số (hình 1.11). Bốn chức năng chính của mào đầu được thể hiện trong hình vẽ 18. Các bít sử dụng để xác định lỗi và các bit chỉ thị cho chức năng OAM ở khung 0, 1, 34 và 35. Các khung khác tải bít cấu hình (EOC) và bít điều khiển đồng bộ (SC) cho việc xác định cấu trúc kênh tải và đồng bộ. Bit r1 dành cho tương lai và được đặt ở giá trị 1. Có bốn bit khác cũng được đặt giá trị 0 hoặc 1. Những bit này trợ giúp việc nhận dạng khung EOC hay SC. Bit 0 và 1 sẽ là bit đầu tiên của byte nhanh. Phần lớn nhất của mào đầu dành cho các bít chỉ thị. Chức năng của chúng được định nghĩa ở bảng 1.8. Bảng 1.8: Chức năng của các bit chỉ thị Bít chỉ thị Ðịnh nghĩa ib0 - ib7 ib8 ib9 ib10 ib11 ib12 ib13 ib14 - ib23 Dành cho tương lai febe-i fecc-i febe-ni fecc-ni los rdi dành cho tương lai Các bít chỉ thị từ bít 0 đến bít 7 và 14 đến 23 (8 bít đầu và 10 bít cuối) được dành cho tương lai. Bít 8 đến 13 đã được định nghĩa. Bit chỉ thị los (ib12) chỉ ra sự mất tín hiệu và được ADSL ATU sử dụng để xác định tín hiệu hướng ngược lại bị mất hay bị suy giảm ở dưới ngưỡng cho phép. Nếu mất tín hiệu bit los = 1 và ngược lại là 0. Bít rdi chỉ ra sai hỏng đầu xa và được ADSL ATU sử dụng để xác định các khung bị lỗi nặng (SEF). SEF xuất hiện khi hai siêu khung phối hợp không có nội dung như mong muốn ở khung đồng bộ theo sau khung 67. Khái niệm khung đồng bộ với bit điều khiển đồng bộ là hoàn toàn khác biệt nhau. Giá trị rdi =1 khi không có thông báo SEF và bằng 0 khi ngược lại. Bốn bít chỉ thị khác từ ib8 đến ib11. Cả 4 bit biểu thị cho trạng thái lỗi đầu xa. ib8 được gọi là febe-i, thay thế cho lỗi khối đầu xa của dữ liệu chèn trong siêu khung ADSL. Bít này dùng để chỉ kết quả kiểm tra CRC dữ liệu chèn ở siêu khung nhận được có khớp với kết quả tính toán hay không. Nếu khớp bit này bằng 1 và ngược lại bằng 0. ib10 được gọi là febe-ni, thực hiện chức năng tương tự cho phần dữ liệu nhanh với cùng giá trị. ib9 được gọi là fecc-i, dùng cho mã sửa lỗi trước (FEC) dữ liệu chèn trong siêu khung ADSL. Bit này bằng 1 khi không có lỗi phải sửa và ngược lại bằng 0. ib11 được gọi là fecc-ni thực hiện chức năng tương tự như ib 9 nhưng dùng cho dữ liệu nhanh với cùng giá trị. • Cấu trúc khung ADSL. Phần tử tạo nên siêu khung là các khung ADSL. Việc mô tả cấu trúc khung này rất đơn giản vì khung ADSL nằm trong siêu khung có cấu trúc cố định. Ðối với mỗi bộ đệm dữ liệu (nhanh hoặc chèn), khung được tạo một cách đơn giản từ một số byte cho kênh tải AS0, tiếp theo là AS1 và cứ như vậy đến AS2. Tiếp đến là các byte LS0, LS2 và cuối cùng LS3. Nếu không có byte nào cho AS và LS thì vùng đó trống. Cuối cùng là một vài byte mào đầu được thêm và sử dụng chung cho các kênh. Thực tế, ADSL có nhiều tốc độ truyền dẫn khác nhau ở mỗi hướng nên cấu trúc sẽ phức tạp. Chỉ có ở các lớp truyền tải mới có thể thêm bất cứ phần cấu tạo chung nào cho cơ cấu không chặt chẽ này. Chú ý rằng các bit AS và LS có thể truyền trong phần đệm dữ liệu nhanh hoặc dữ liệu chèn trong khung ADSL. Mỗi chuỗi số liệu người sử dụng được gán cho một vùng đệm dữ liệu nhanh hoặc chèn trong suốt quá trình xử lý ban đầu. Tuy nhiên nếu AS được gán vào phần đệm nhanh thì sẽ không có trong phần đệm chèn. Nói cách khác, nếu khung ADSL có chứa các bit cho AS0 trong vùng đệm dữ liệu nhanh của khung thì nhất thiết phải có một số lượng bít tương tự cho AS 0 trong vùng đệm dữ liệu chèn của khung. Cấu trúc cho số byte mặc định trong khung ADSL được trình bày trong bảng 1.9. Tuy nhiên, các giá trị mặc định có thể thay đổi. Chú ý rằng nếu một phần của vùng đệm khác không thì giá trị trong vùng đệm khác phải bằng 0. Bảng 1.9. Vùng đệm mặc định cho các lớp truyền tải (T1) Tín hiệu Phần đệm dữ liệu xen Phần đệm dữ liệu nhanh Lớp1 Lớp 2 Lớp 3 Lớp 4 Lớp 1 Lớp 2 Lớp 3 Lớp 4 AS0 96 96 48 48 0 0 0 0 AS1 96 48 48 0 0 0 0 0 AS2 0 0 0 0 0 0 0 0 AS3 0 0 0 0 0 0 0 0 LS0 2 2 2 255 0 0 0 0 LS1 0 0 0 0 5 0 0 5 LS2 0 0 0 0 12 12 12 0 Trên đây chúng ta đã miêu tả những nét chính của trúc khung và siêu khung ADSL, cần chú ý rằng trong lớp truyền tải thứ nhất, cấu trúc mặc định chỉ định 96 byte cho AS0 và AS1 trong mỗi khung ADSL. Vì có 8 bit trong 1 byte và 4000 khung ADSL được gửi mỗi giây nên tốc độ bít trên AS0 và AS1 là 3,072 Mbit/s không kể đến kích thước khung đầy đủ. Như vậy hai kênh tải tin từ tổng đài tới thuê bao hoạt động ở 3,072 Mbit/s là sự tuỳ chọn thiết lập cho lớp thứ nhất. Thực tế trong trường hợp này, đối với cấu hình mặc định thì kích thước phần đệm cũng nên nhận giá trị mặc định là hiệu quả nhất. Chú ý rằng các kênh LS0 cũng có tốc độ 64 kbit/s cho hai hướng. Cấu trúc khung ADSL trong lớp truyền tải thứ nhất được gửi đi từ ATU-C. Các byte nhanh được truyền đi trước loại trừ tất cả các byte tới từ bộ đệm chèn. Cũng tương tự như trên, các dịch vụ tốc độ dựa trên chuẩn 2,048 Mbit/s cũng có sự qui định kích cỡ mặc định của vùng đệm cho lớp truyền tải 2M. Giá trị này biểu diễn ở bảng 1.10. Bảng 1.10. Vùng đệm mặc định cho các lớp truyền tải (E1) Tín hiệu Phần đệm dữ liệu xen Phần đệm dữ liệu nhanh Lớp 2M-1 Lớp 2M-2 Lớp 2M-3 Lớp 2M- 1 Lớp 2M- 2 Lớp 2M- 3 AS0 64 64 64 0 0 0 AS1 64 64 0 0 0 0 AS2 64 0 0 0 0 0 LS0 2 2 255 0 0 0 LS1 0 0 0 5 0 5 LS2 0 0 0 12 12 0 Các kênh AS0, AS1 và AS2 gửi toàn bộ 64 byte trong mỗi khung trên lớp truyền tải 2M- 1. Như vậy sẽ có ba kênh tải tin từ tổng đài xuống thuê bao hoạt động ở tốc độ 2,048 Mbit/s. Việc thiết lập cấu hình này là tuỳ chọn. Kích thức vùng đệm mặc định chỉ hiệu quả đối với cấu hình mặc định. Trong cấu hình này kênh LS0 hoạt động ở tốc độ 64 kbit/s cho cả hai hướng. 1.4.6 Kỹ thuật ADSL không sử dụng bộ chia (Splitterless) Kỹ thuật ADSL không sử dụng bộ chia là một ứng dụng đặc biệt của kỹ thuật ADSL. Kỹ thuật này đã được nhóm Universal nghiên cứu thành tiêu chuẩn G.lite sau này được ITU chấp nhận thành tiêu chuẩn G992.2 vào thàng 6 năm 1999. Mục đích của kỹ thuật này cho phép đơn giản hoá việc lắp đặt thiết bị cho khách hàng đồng thời cung cấp khả năng quản lý cao hơn cho nhà khai thác và giảm giá thành lắp đặt ban đầu. Kỹ thuật ADSL G.Lite đơn giản hoá bằng cách bỏ bộ chia ở phía khách hàng nhưng vẫn giữ lại bộ lọc băng thông cao ở modem ADSL. Như vậy ở phía modem ADSL chỉ nhận được tín hiệu tần số cao dành cho ADSL còn ở phí thoại có thể nhận được cả 2 loại tín hiệu thoại và ADSL nhưng chỉ có tín hiệu toại được chuyển sang tín hiệu âm thanh. tuy nhiên vẫn có thể một phần tín hiệu ADSL được chuyển sang tín hiệu âm thanh có nghĩa là chát lượng thoại cũng bị ảnh hưởng. Với kỹ thuật này modem G.Lite và điện thoại của khách hàng hoạt động trên cùng một hệ thống dây dẫn cho phép khách hàng có thể sử dụng dịch vụ thoại hay modem băng tần thoại một cách bình thường. Việc này trái ngược với ADSL thông thường là phải có các đường dây dẫn riêng cho ADSL và dịch vụ điện thoại sau khi tín hiệu qua bộ chia (thông thường là một đoạn dây dẫn mới tới modem ADSL). Chúng ta có thể so sánh giữa 2 loại ADSL qua hình vẽ Voice & ADSL Custormer Premies Splitter ADSL G.DMT Modem Voice & ADSL Custormer Premies Microfilter ADSL G.Lite Modem 1.4.7 Các dịch vụ có thể được kỹ thuật ADSL cung cấp Khái niệm ADSL (Asymmetric Digital Subscriber Line) - đường thuê bao số không đối xứng là một kỹ thuật làm thay đổi hoàn toàn năng lực của đường thuê bao thoại truyền thống. Kỹ thuật này cho phép truyền đồng thời tín hiệu thoại và nhiều dịch vụ tốc độ cao khác (truyền số liệu, thông tin) với chất lượng tốt trên đôi dây đồng. Ðiều này đem lại lợi ích rất lớn cho nhà khai thác và cả khu vực thuê bao dân cư lẫn thuê bao công sở. Sau đây chúng ta cùng xem xét những yếu tố thúc đẩy việc triển khai rộng rãi kỹ thuật ADSL trên thế giới. - ADSL cho phép tận dụng các đôi cáp đồng thuê bao cho truy nhập Internet từ xa với tốc độ cao qua mạng kết hợp và dịch vụ. Về cơ bản, ADSL là giải pháp trung gian cung cấp các dịch vụ băng rộng trên mạng viễn thông hiện nay. - ADSL có khả năng đáp ứng cho các ứng dụng mới đòi hỏi thời gian thực, đa phương tiện và dịch vụ video băng rộng chất lượng cao. Những ứng dụng này bao gồm: tính toán cộng đồng, hội nghị qua truyền hình, đào tạo từ xa và dịch vụ video theo yêu cầu. - Hiện nay, ngành công nghiệp đang nghiêng mạnh theo hướng phát triển dựa trên các tiêu chuẩn. Ðiều này tạo ra sự liên kết hoạt động giữa các công ty và nhanh chóng hình thành một thị trường đồng nhất. Ðây chính là môi trường đảm bảo cho sự tồn tại của ADSL. - ADSL mang lại cho nhà khai thác khả năng mềm dẻo trong việc cung cấp băng tần dịch vụ (tốc độ cố định hoặc lựa chọn tốc độ thích hợp) hoặc chất lượng dịch vụ tốt nhất như modem tương tự. • Nhanh hơn gần 300 lần modem 24,4 kbit/s • Nhanh hơn trên 100 lần modem 56 kbit/s • Nhanh hơn gấp 70 lần ISDN tốc độ 128 kbi/s - ADSL là một giải pháp mang lại lợi ích cho nhà cung cấp dịch vụ nhờ vào việc tận dụng cơ sở hạ tầng hiện có. Nhà khai thác chỉ phải bảo dưỡng một đôi dây thuê bao của dịch vụ điện thoại truyền thống để cung cấp dịch vụ truyền số liệu và thoại. - ADSL cũng cho phép nhà khai thác cung cấp các kênh đảm bảo riêng giữa khách hàng và nhà cung cấp dịch vụ: • Khách hàng làm chủ đường truyền dữ liệu của mình, điều này khác với dịch vụ modem thoại bị chia đường truyền cho các dịch vụ khác. • Tốc độ đường truyền không bị ảnh hưởng bởi các người sử dụng khác do mỗi khách hàng sở hữu một đường truyền. Với dịch vụ qua modem thông thường tốc độ bị giảm xuống đáng kể khi có thêm người sử dụng. - ADSL luôn ở chế độ chờ và sẵn sàng truyền tin bất cứ khi nào khách hàng cần. ADSL luôn được kết nối sẵn như một đường thuê bao điện thoại thông thường hoạt động do đó sẽ không phải bỏ phí thời gian cho việc quay số và đợi kết nối nhiều lần trong ngày. - Tất cả các nhà cung cấp dịch vụ lớn đều đã tiến hành thử nghiệm và đã chứng minh được tính hấp dẫn của ADSL. Hiện nay, ADSL đã đưa vào khai thác trên toàn thế giới với kết quả vượt ngoài mong đợi trong năm 1998 và 1999. Về khía cạnh thị trường, hầu hết các nhà cung cấp thiết bị đang thương mại hoá thế hệ sản phẩm thứ hai và thứ ba với độ hoàn thiện cao hơn và giá thành thấp hơn. - ADSL sẽ trở thành kỹ thuật của những thập kỷ tới do mạng xây dựng trên nền ADSL rất phù hợp cho việc tải lưu lượng ATM. - ADSL là cầu nối thông tin tới thế kỷ sau mà không cần thay cơ sở hạ tầng mới, không cần thêm các chi phí ngoài luồng và không phải tái đầu tư. 1.5 Kỹ thuật VDSL Kỹ thuật cung cấp các đường thuê bao số với tốc độ rất cao được viết tắt là kỹ thuật VDSL. Cũng như các kỹ thuật xDSL khác như: ADSL, HDSL, SDSL, kỹ thuật VDSL được sử dụng để cung cấp các dịch vụ số liệu băng rộng như các kênh tivi, truy nhập dữ liệu với tốc độ rất cao, hội nghị qua video, video động, truyền tổ hợp dữ liệu và tín hiệu và tín hiệu video trên cùng một đường dây..v v.. cho các thuê bao dân cư và kinh doanh trong lúc chưa lắp đặt được mạng cáp quang đến tận nhà thuê bao. Kỹ thuật VDSL sử dụng phương thức truyền dẫn giống như kỹ thuật ADSL, nhưng kỹ thuật VDSL có khả năng cung cấp số liệu với tốc độ cao gần gấp 10 lần tốc độ truyền dẫn của kỹ thuật ADSL (hình 1.19). Tốc độ truyền dẫn của VDSL thường nằm trong khoảng từ 13Mbit/s đến 60Mbit/s tuỳ thuộc vào khoảng cách truyền dẫn. Kỹ thuật VDSL có thể sử dụng phương thức truyền dẫn dịch vụ đối xứng (phương thức truyền dẫn có tốc độ truyền dẫn xuôi từ phía tổng đài tới thuê bao bằng với tốc độ truyền dẫn từ phía thuê bao đến tổng đài) và không đối xứng (phương thức truyền dẫn có tốc độ truyền dẫn xuôi từ phía tổng đài tới thuê bao cao hơn rất nhiều so với tốc độ truyền dẫn từ phía thuê bao tới tổng đài). Ðối với dạng truyền dẫn không đối xứng kỹ thuật VDSL thường dùng tỷ lệ tốc độ chiều đi và chiều về là 10:1, phương thức truyền dẫn này phù hợp để cung cấp dịch vụ tốc độ cao từ phía tổng đài tới thuê bao nên rất hay được sử dụng trong kỹ thuật VDSL. Ngoài việc có khả năng cung cấp tốc độ cao hơn nhiều so với tốc độ truyền dẫn của kỹ thuật ADSL kỹ thuật VDSL còn yêu cầu khoảng động nhỏ hơn kỹ thuật ADSL nên kỹ thuật truyền dẫn của VDSL không phức tạp bằng kỹ thuật truyền dẫn ADSL. Mặc dù có nhiều ưu điểm như vậy nhưng kỹ thuật này vẫn chưa được sử dụng rộng rãi đó là vì chưa lựa chọn được cơ chế điều chế, băng tần, phương pháp ghép kênh thích hợp. Hơn nữa, một số chipset của modem sử dụng kỹ thuật VDSL vẫn còn đắt nên kỹ thuật này chưa được sử dụng nhiều trên thực tế. Tuy nhiên đây là một kỹ thuật đầy hứa hẹn trong một vài năm tiếp theo.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTaiLieuTongHop.Com---Ky thuat xDSL.pdf