Vào các thập kỷ 80 kinh tế thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng có tính chu kỳ. Nền kinh tế đóng nước ta với cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp đã biểu hiên rõ những khuyết nhược điểm của nó. Chính điều này đã làm cho nhiều người nghi ngờ về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhà nước ta đã lựa chọn.
Trước tình hình đó, tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI( tháng 12 năm 1986) Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Lý luận kinh tế về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lúc này đã có những thay đổi cơ bản. Đó là thừa nhận sự tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế và xác định rõ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong cơ cấu nền kinh tế đa thnàh phần.
Trong hơn 10 năm đổi mới, nước ta đã thu được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, nhất là sự phát triển về kinh tế, chứng tỏ đường lối của Đảng và nhà nước ta đề ra là đúng đắn. Việc phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa rất cần có sự điều tiết của nhà nước, để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển đúng hướng.
Do đó tại các kỳ đại hội VII, VIII, XI Đảng ta đã không ngừng khẳng định, bổ sung và nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước-một công cụ điều tiết vĩ mô đắc lực của nhà nước, để nó thực sự có thể đảm nhận vai trò con trưởng trong một gia đình đông con.
Để đi sâu tìm hiểu vấn đề này, qua một năm học tập và nghiên cứu, dưới sự hướng dẫn giảng dạy của thầy Mai Hữu Thực em đã chọn đề tài “Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ta hiện nay
37 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1115 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Vào các thập kỷ 80 kinh tế thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng có tính chu kỳ. Nền kinh tế đóng nước ta với cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp đã biểu hiên rõ những khuyết nhược điểm của nó. Chính điều này đã làm cho nhiều người nghi ngờ về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhà nước ta đã lựa chọn.
Trước tình hình đó, tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI( tháng 12 năm 1986) Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Lý luận kinh tế về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lúc này đã có những thay đổi cơ bản. Đó là thừa nhận sự tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế và xác định rõ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong cơ cấu nền kinh tế đa thnàh phần.
Trong hơn 10 năm đổi mới, nước ta đã thu được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, nhất là sự phát triển về kinh tế, chứng tỏ đường lối của Đảng và nhà nước ta đề ra là đúng đắn. Việc phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa rất cần có sự điều tiết của nhà nước, để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển đúng hướng.
Do đó tại các kỳ đại hội VII, VIII, XI Đảng ta đã không ngừng khẳng định, bổ sung và nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước-một công cụ điều tiết vĩ mô đắc lực của nhà nước, để nó thực sự có thể đảm nhận vai trò con trưởng trong một gia đình đông con.
Để đi sâu tìm hiểu vấn đề này, qua một năm học tập và nghiên cứu, dưới sự hướng dẫn giảng dạy của thầy Mai Hữu Thực em đã chọn đề tài “Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ta hiện nay
.
Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó
trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta hiện nay.
I.Tính tất yếu tồn tại thành phần kinh tế nhà nước.
1.Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều đặc điểm, nhưng đặc điểm nổi bật là cơ cấu của nền kinh tế có kinh tế nhiều thành phần. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tồn tại không phải do ý kiến chủ quan của nhà nước; nó xuất hiện, tồn tại và phát triển phụ thuộc vào những tiền đề kinh tế và chính trị khách quan của nền kinh tế. Trong cơ cấu này, mỗi thành phần kinh tế luôn có vai trò, vị trí và vận động, phát triển theo một xu hướng nhất định. Xuất phát từ qui luật vốn có của nền kinh tế thị trưòng có thể thấy các thành phần kinh tế đều vận động hướng tới mục tiêu lợi ích. Sự vận động này cũng có thể khác hướng, thậm chí ngược chiều nhau tuỳ theo mục tiêu ấy là gì, ai là chủ thể của lợi ích được tạo ra, việc phân chia và sử dụng lợi ích đó như thế nào.
Trong suốt 15 năm qua, nhất là từ Đại Hội VI đến nay, trên cơ sở tư duy ngày càng rõ hơn về thực tiễn của đất nước và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã không ngừng đổi mới quan điểm, chính sách về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế. Điều này được thể hiện tóm tắt trên 6 điểm lớn:
Thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần: mỗi thành phần đều có vị trí quan trọng trong cơ cấu của nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp cũng đan xen nhiều hình thức sở hữu, thực hiện sự bình đẳng về cạnh tranh để phát triển.
Sở hữu nhà nước có thể tồn tại ở nhiều hình thức tổ chức kinh tế, kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế vì nó chiếm lĩnh một số ngành, lĩnh vực rất cơ bản. Do đó nó có thể làm đòn bẩy thúc đẩy nhanh chóng tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm chỗ dựa để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nề tảng cho chế độ kinh tế xã hội.
Hợp tác là tổ chức kinh tế đựơc hình thành trên cơ sở người lao động tự nguyện đóng góp sức, vốn và quản lý dân chủ, với mọi qui mô và mức độ tập thể hoá tư liệu sản xuất khác nhau, phát huy vai trò tự chủ của các hộ xã viên.
Kinh tế cá thể có thể có vai trò quan trọng, có thể tham gia nhiều hình thức liên kết, hợp tác khác nhau để có thể tiếp tục lớn hơn.
Kinh tế tư bản tư nhân là một bộ phận trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân, có khả năng góp phần xây dựng đất nước, được phát triển không hạn chế trong những ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được khuyến khích đầu tư như mọi thành phần kinh tế khác.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao độnh là hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp của các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Việc tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan, nó khắc phục được những yếu nhược điểm của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nó phù hợp với sự phát triển của xã hội, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, cho phép tận dụng tối đa mọi nguồn lực hiện có của đất nước một cách hiệu quả nhất. Nhưng để phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta ngày nay không phải bằng bất kỳ cách nào, mà Đảng chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần phải định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại Hội VIII của Đảng, kinh tế nhà nước đựơc giao giữ vai trò chủ đạo trong việc thực hiện trọng trách này.
Tuy nhiên việc xác định rõ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước không rõ ràng chút nào, bởi vì nó còn nằm trong sự tác động qua lại giữa các thành phần kinh tế khác. Do đó đòi hỏi chúng ta cần đi sâu nghiên cứu tính chủ đạo của kinh tế nhà nước dựa trên cơ sở thực tiễn và đổi mới tư duy đúng đắn.
2.Kinh tế nhà nước.
Mọi nhà nước đều có chức năng kinh tế, chức năng này được thể hiện với mức độ khác nhau tuỳ theo từng giai đoạn phát triển. ở bất kỳ nước nào dù kém phát triển, đang phát triển hay phát triển thì chức năng kinh tế của nhà nước luôn gắn liền và thể hiện thông qua các hoạt động kinh tế của nhà nước trên cơ sở tiềm lực vật chất của nhà nước. Nhà nước còn có lực lượng vật chất mạnh trong tay để chi phối, hướng dẫn, điều tiết sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Lực lượng vật chất này cùng với luật pháp, kế hoạch, chính sách tạo cho nhà nước một sức mạnh làm cho nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng đã định.
ở nước ta, sau khi đất nước giành được độc lập, chúng ta đã phiến diện và giản đơn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp ngày càng tỏ ra không phù hợp, đã bộc lộ rất rõ nét những nhược điểm căn bản làm thui chột tính năng động sáng tạo, không phát huy tối đa được các tiềm lực tồn tại trong nền kinh tế.
Trước tình hình đó tại Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng tađã đề ra chủ trương đối với nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thừa nhận sự tồn tại khách quan của 5 thành phần kinh tế, mỗi thành phần kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất. Vệc tổ chức kinh doanh tiến hành theo nguyên tắc hạch toán kinh tế và tiến hành phân phối theo lao động. Đây là thành phần kinh tế đại diện cho quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể. Nó bao gồm những đơn vị do những người lao động góp vốn, góp sức sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi. Nó được phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng từ thấp tới cao, từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và sử dụng lao động làm thuê, trả lương như các công ty trách nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp tư nhân các công ty cổ phần không có vốn của nhà nước.
Kinh tế cả thể tiểu chủ là thành phần kinh tế dựa trên cơ sở tư hữu nhỏ và lao động của bản thân người sở hữu. Tức là hoàn toàn dựa vào vốn và lao động của bản thân và các thành viên trong gia đình. Kinh tế tiểu chủ cũng dựa trên tư hữu nhỏ nhưng có sử ụng lao động làm thuê, tuy nhiên thu nhập chủ yếu vẫn dựa vào lao động của bản thân và các thành viên trong gia đình
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu hỗn hợp giữa nhà nước và tư nhân. Nó bao gồm các hình thức hợp tác kinh doanh giữa tư bản nhà nước với tư bản tư nhân trong và ngoài nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: là thành phần kinh tế mới được Đảng và nhà nước ta công nhận tại Đại Hội IX, nó là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam bao gồm vốn do người Việt Nam ở nước ngoài về nước đầu tư kinh doanh. Nhà nước cần tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng, gắn với thu hút công nghệ hiện đại. Hiện nay cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh tế, pháp lý để thu hút, tận dụng triệt để các nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Sự tồn tại của kinh tế nhà nước ở hầu hết các nước trên thế giới chứng tỏ sự cần thiết khách quan của khu vực này trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện đại, khi các hoạt động vĩ mô đòi hỏi nhà nước phải đóng vai trò ngày càng to lớn trong nền kinh tế. Có thể nói khu vực kinh tế nhầ nước giữ vai trò như một công cụ kinh tế của nhà nước vừa thực hiện chức năng kinh tế, vừa làm một phần chức năng xã hội, góp phần thực hiện sự tăng trưởng và ổn định kinh tế mỗi nước.
Trên thực tế, không một nước nào phát triển nền kinh tế thị trường lại không sử dụng các xí nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực quan trọng nhằm thực hiện chức năng kinh tế vĩ mô, đặc biệt vì lợi ích của toàn xã hội như:
Những ngành thuộc cơ sở hạ tầng của nền kinh tế: năng lượng, giao thông, bưu điện, ngân hàng, bảo hiểm… nhằm đảm bảo ổn định xã hội và tạo ra quá trình liên tục trong tái sản xuất xã hội.
Những ngành kinh tế chiến lược bảo đảm đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật như: kỹ thuật hàng không vũ trụ, năng lượng nguyên tử, chế tạo ô tô…
Những ngành thuộc về sản xuất và dịch vụ các loại hàng hoá công cộng cần thiết cho sinh hoạt xã hội được nhà nước trợ cấp hoặc bù lỗ như: giáo dục, y tế, văn hoá, bảo vệ môi trường…
Như vậy, dù phát triển theo định hướng nào mỗi nước đều phải có khu vực kinh tế nhà nước. Sự khác nhau chủ yếu ở mức độ chiếm giữ của sở hữu nhà nước trong các ngành, các lĩnh vực cũng như mục tiêu và cách thức hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.
3.Các bộ phận cấu thành kinh tế nhà nước.
Kinh tế nhà nước được thể hiện dưới nhiều hình thức hoạt động khác nhau với các tổ chức tương ứng như hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, các hoạt động đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội mà ở đó nhà nước được biểu hiện như một chủ sở hữu, chủ thể kinh doanh, người tham gia. Nghĩa là kinh tế nhà nước có nhiều bộ phận hợp thành, mỗi bộ phận hợp thành kinh tế nhà nước có chức năng và nhiệm vụ khác nhau.
a.Nếu xét theo lĩnh vực hoạt động thì kinh tế nhà nước bao gồm các hoạt động kinh tế của nhà nước trong việc:
Quản lý, khai thác, bảo tồn và phát triển các nguồn tài nguyên tự nhiên nhằm mục dích phát triển kinh tế xã hội.
Đầu tư, quản lý và khai thác các công trình hạ tầng kỹ thuật như: bến bãi, cảng, đường xá, các khu công nghiệp tập trung…nhằm tạo điều kiện chung thuận lợi cho nền kinh tế phát triển.
Các hoạt động kinh tế trong công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ; trong lĩnh vực tín dụng, tài chính, ngân hàng, dự trữ quốc gia…
Hoạt động bảo hiểm cũng là một lĩnh vực hoạt động quan trọng của khu vực kinh tế nhà nước, thực hiện chế độ bảo hiểm do nhà nước quy định đối với kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế khác nhằm đảm bảo hoạt động kinh tế xã hội bình thường trong những điều kiện bị tổn thất do rủi ro khách quan.
Tất cả các lĩnh vực hoạt động trên có thể gộp thành hai nhóm lớn:
Hoạt động trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.
Hoạt động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội.
b.Xét theo hình thức tổ chức.
Kinh tế nhà nước bao gồm nhiều bộ phận hoạt động trong các lĩnh vực then chốt, thiết yếu của nền kinh tế quốc dân. Mỗi bộ phận có chức năng nhiệm vụ khác nhau nhưng đều nhằm thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ở một mức độ nhất định. Cụ thể là:
Ngân sách nhà nước: thực hiện chức năng thu chi ngân sách và có nhiệm vụ điều chỉnh, quản lý, kiểm soát các hoạt động của kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế khác theo mục tiêu kinh tế xã hội đã định.
Ngân hàng nhà nước: có tác dụng điều chỉnh, quản lý, kiểm soát các hoạt động kinh doanh tiền tệ, đặc biệt là xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ để phát triển kinh tế xã hội.
Kho bạc nhà nước: với chức năng quản lý quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, đồng thời kiểm soát quá trình chi tiêu ngân sách cho những mục đích khác nhau.
Các quỹ dự trữ quốc gia: là một bộ phận của khu vực kinh tế nhà nước, nhân dân bảo đảm cho khu vực này hoạt động bình thường trong mọi tình huống, là lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết, quản lý, bình ổn giá cả thị trường, bảo đảm kinh tế xã hội.
Các tổ chức sự nghiệp có thu: hoạt động gần giống như doanh nghiệp nhà nước trong cung ứng một số dịch vụ công, đặc biệt trong giáo dục, y tế, dịch vụ hành chính công.
Hệ thống doanh nghiệp nhà nước: theo luật doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam năm 1995, doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc công ích, nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao cho. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự. Đây là một bộ phận chính yếu của kinh tế nhà nước, đóng vai trò then chốt là một lực lượng vất chất cơ bản, đảm bảo cho viêc thực hiện các mặt trân kinh tế xã hội của đất nước.
c.Xét theo mục tiêu hoạt động.
Các doanh nghiệp nhà nước được chia làm ba nhóm với những tiêu chí tương ứng để đánh giá kết quả hoạt động:
Nhóm I: Nhóm các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Các doanh nghiệp này hoạt động theo các chính sách xã hội của nhà nước phục vụ cho lợi ích của toàn xã hội hay lợi ích công cộng, chuyên sản xuất hàng quốc phòng, an ninh, y tế, văn hoá…Mục đích hoạt động của nhóm này không phải vì lợi nhuận mục tiêu phát triển của nó là sự ổn định và an toàn xã hội gắn với môi trường kinh tế-xã hội-chính trị.
Nhóm II: nhóm các doanh nghiệp hoạt động bán công ích. Về thực chất, hoạt động của nhóm này là bán kinh doanh, là loại doanh nghiệp nửa bao cấp nửa kinh doanh. Loại doanh nghiệp này được nhà nước hỗ trợ một phần.
Nhóm III: nhóm các doanh nghiệp thuần tuý kinh tế. Mục đích hoạ động của nhóm này là sản xuất và kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Nếu như nhóm II chỉ trong chừng mực nào đó chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường thì nhóm này hoàn toàn bình đẳng với các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong cạnh tranh trên thị trường.
Xuất phát từ những yếu tố trên, đối với mỗi nhóm hay đối với mỗi loại hình doanh nghiệp cần phải xác định một cơ chế quản lý mang tính đặc thù riêng.
4.Vị trí, vai trò của kinh tế nhà nước đối với các thành phần kinh tế khác.
a.Giai đoạn trước năm 1986.
ở nước ta, sau khi miền Bắc giải phóng (1954) và thống nhất đất nước (1975), trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội do nhận thức giản đơn phiến diện đã đồng nhất sở hữu nhà nước với chủ nghĩa xã hội, công hữu ngày càng hiều thì chủ nghĩa xã hội càng nhiều. Chúng ta đã coi kinh tế quốc doanh chủ yếu bó hẹp trong phạm vi các xí nghiệp quốc doanh. Các xí nghiệp quốc doanh ở thời kỳ này được quản lý theo kiểu kế hoạch hoá tập trung của Liên Xô. Các xí nghiệp quốc doanh hoạt động dựa trên cơ sở các nguồn lực được nhà nước phân bổ một cách trực tiếp, chỉ có nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh theo kế hoạch đã được định trước, lỗ thì được bù còn lãi thì phải nộp ngân sách. Cơ chế này đã có tác dụng kích thích huy động một cách tích cực các nguồn lực của đất nước đáp ứng yêu cầu giải phóng miền Nam và bảo vệ miền Bắc trong giai đoạn 1954-1975. Xong trong điều kiện mới khi đất nước đã thống nhất, nền kinh tế thế giới phát triển với tốc độ chóng mặt thì những yếu nhược điểm căn bản của cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp đã bộc lộ rõ nét, làm thui chột tính năng động sáng tạo của các xí nghiệp vì sản xuất kinh doanh không tính đến hiệu quả, đặc biệt là thiếu vắng môi trường cạnh tranh…
Thêm vào đó số lượng xí nghiệp quốc doanh quá nhiều, dàn trải chồng chéo, trình độ kỹ thuật công nghệ lạc hậu, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp đã đẩy đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng.
b.Giai đoạn từ 1986 đến nay.
Đứng bên bờ vực thẳm của chủ nghĩa xã hội trong tình hình hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang theo chiều hướng tan rã, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta bị giao động mạnh. Trước tình hình đó, với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, tại Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện. Lý luận kinh tế về thời kỳ quá độ trong thời kỳ này đã có những thay đổi cơ bản. Trước hết là sự thừa nhận sự tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế, kinh tế quốc doanh đựơc thừa nhận là thành phần kinh tế nhà nước trong cơ cấu nền kinh tế đa thành phần.
Nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại với tư cách là một chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận không thể tách rời, vì nó đều nằm trong tổng thể của nền kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế không tồn tại độc lập mà đan xen nhau, giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ thông qua liên doanh, liên kết và tác động qua lại lẫn nhau, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn. Tính thống nhất thể hiện ở chỗ các thành phần kinh tế đều nằm trong cơ cấu thống nhất, luôn biến đổi, phát triển và đều chịu sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh, vừa hợp tác để nâng cao hiệu quả kinh tế của các nguồn lực, huy động tối đa sức mạnh và lợi thế của từng thành phần vào việc giải quyết các nhiệm vụ kinh tế xã hội của đất nước.
Các thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu đặc thù và mục tiêu, lợi ích riêng mà nó hình thành. Do đó tất yếu sẽ tồn tại những mâu thuẫn, điển hình là mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Tuy nhiên mỗi chế độ xã hội bao giờ cũng có một phương thức sản xuất thống trị. Đó là một sự thật đã từng và sẽ tồn tại trong lịch sử. Trên cơ sở kinh tế đó mà dựng lên kiến thức thượng tầng, quan trọng nhất là chế độ chính trị thích ứng với nó, chúng ta đã lựa chọn chế độ chính trị là chế độ xã hội chủ nghĩa thì tất yếu chúng ta phải có một cơ sở kinh tế đảm bảo cho định hướng đã lựa chọn.
Chủ nghĩa xã hội vươn tới là sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, thích ứng với nó chỉ có kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể mới có thể tạo được một nền tảng vững chắc cho cơ sở kinh tế xây dựng lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, sự phát triển kinh tế nhiều thành phần không phải là phát triển theo bất kỳ xu hướng nào mà phải có định hướng cụ thể phù hợp với mục tiêu chính trị xã hội mà Đảng và nhà nước ta đã lựa chọn. Xét trên giác độ này thì kinh tế nhà nước có thể nói là một công cụ đắc lực để nhà nước thông qua nó hỗ trợ, hướng dẫn định hướng cho các thành phần kinh tế khác cũng phát triển theo con đường mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001) đã nêu lên sáu thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong nền kinh tế đó, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng của kinh tế quốc dân và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
II. Kinh tế nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân hiện nay ở nước ta.
1.Cơ sở lý luận cho tính chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Tại các đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, VI, VII, VIII, IX Đảng ta đã xác định: “ chủ động hội nhập, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể dần trở thành nền tảng”.
Tuy nhiên hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, vấn đề đặt ra là trong nền kinh tế nước ta hiện nay có hay không có mặt thành phần kinh tế nào đó đóng vai trò chủ đạo. Nếu có thì căn cứ nào để xác định tính chất chủ đạo của một thành phần kinh tế, và vì sao vai trò chủ đạo đó lại được giao cho thành phần kinh tế này chứ không phải thành phần kinh tế khác.
Từ sau đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay Việt Nam chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy nền kinh tế thi trường ở Việt Nam được xây dựng trên cơ sở đa dạng hoá sở hữu, đa dạng hoá thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế này có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại.
Ai cũng biết rằng, trong một gia đình nếu chỉ có một con thì không thể có con trưởng, con thứ. Nhưng với một gia đình đông con thì sự phân định con trưởng con thứ là tất yếu. Trong nền kinh tế nhiều thành phần cũng vậy, sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế dựa trên các hình thức sở hữu đặc thù làm cho vai trò vị trí của chúng khác nhau và tất yếu sẽ có một sự phân vai, đó là thành phần kinh tế chủ đạo cùng với các thành phần còn lại. Vấn đề nằm ở chỗ thế nào là chủ đạo và ai là chủ đạo?. Căn cứ vào đâu đế xác định tính chất chủ đạo này?.
Trước đây chúng ta lý giải vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế được thể hiện ở phạm vi của nó chiếm hữu trong nền kinh tế, ở tính hiệu quả hơn, ưu việt hơn hẳn của nó so với các thành phần kinh tế khác. Nhưng qua quá trình thực tiễn cùng với đổi mưói tư duy thì thành phần kinh tế chủ đạo phải là thành phần kinh tế chi phối, làm thay đổi và xác định phương hướng hoạt động của các thành phần kinh tế khác, hướng tới mục tiêu kinh tế-chính trị-xã hội mà Đảng và nhà nước đã chọn. Vì bản chất cốt lõi của một chế độ xã hội sẽ quyết định tính chất chủ đạo của nền kinh tế.
Đối với một nước đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội như nước ta thì kinh tế nhà nước cần và có thể giữ vai trò chủ đạo vì những lý do sau đây:
Thứ nhất: kinh tế nhà nước dựa trên chế độ công cộng về tư liệu sản xuất, là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất.
Thứ hai: kinh tế nhà nước đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến trong nền kinh tế, tạo ra cơ sở kinh tế cho chế độ xã hội mới- xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba: kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, xương sống của nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định.
Thứ tư: kinh tế nhà nước là lực lượng bảo đảm cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế, là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn giúp đỡ và liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Thứ năm: kinh tế nhà nước có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế mà còn bằng con đường gián tiếp, thông qua những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu: kinh tế nhà nước dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến. Do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng góp phần lớn cho ngân sách nhà nước và sự tích tụ để có thể không ngừng tái sản xuất mở rộng.
Thứ bảy: kinh tế nhà nước là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị mới, là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng sống còn nhưng ít ai dám đàu tư vì đòi hỏi vốn quá nhiều mà thời gian thu hồi vốn quá chậm.
Trong xã hội tư bản, một xã hội dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì hoạt động kinh doanh sinh lợi là cái chi phối các nhà kinh doanh. Do vậy tính chất chủ đạo của nền kinh tế này thể hịên ở hiệu quả kinh tế, là lợi nhuận. Nhưng con đường mà chúng ta đang đi là quá độ lên một xã hội mà ở đó bản chất của nó là bình đẳng-xã hội xã hội chủ nghĩa, vì vậy tính chất chủ đạo của nó phải thể hiện được quan hệ sản xuất đặc thù của xã hội đó. Đáp ứng với nó kinh tế nhà nước với hình thức sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo là một tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2.Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Cùng với tíên trình lịch sử, xã hội đã trải qua các hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Nhưng đến nay trên thế giới vẫn song song tồn tại hai hệ thống đại diện cho hai hình thái kinh tế xã hội là hệ thống tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Lực lượng sản xuất phát triển không ngừng, cùng với nó quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đã bộc lộ rõ những khuyết tật kìm hãm lực lượng sản xuất như:
Về kinh tế: phân hoá giàu nghèo, bóc lột, phân phối không cân bằng, thất nghiệp, tình trạng vô chính phủ trong sản xuất, sự phá hoại môi trường tự nhiên….
Về chính trị: áp bức, bất bình đẳng, không dân chủ, quyền lợi cá nhân không được đảm bảo, thiếu tự do, mối đe dạo về chiến tranh…
Về tinh thần: trống rỗng, suy đồi, sa đoạ…và suy cho cùng tất cả đều bắt nguồn từ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Bởi vậy, để đạt được mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội là dân chủ, công bằng, xã hội phải xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu. Chế độ công hữu và chế độ tư hữu vì thế cũng trở thành hai tiêu chí cơ bản để phân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50106.doc