Xuất khẩu là một phương tiện không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nhận thức được điều đó, năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 đã đề ra định hướng : “Kinh tế đối ngoại là trọng điểm, xuất khẩu là một trong ba chương trình kinh tế chủ đạo của đất nước”. Hơn 15 năm đổi mới, nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm khuyến khích xuất khẩu, đặc biệt là những lĩnh vực xuất khẩu phát huy được lợi thế về nhân công. Với những thuận lợi trên, hàng dệt may xuất khẩu đã vươn lên vị trí thứ hai(sau dầu thô) trong danh mục những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta. Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may không ngừng tăng lên tuyệt đối,tuy nhiên một vài năm gần đây, tốc độ tăng trưởng này đã chững lại, thậm chí còn suy giảm ở những thị trường chính với những con số đáng suy nghĩ. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh chưa cao. Và một hệ quả tất yếu là thị phần của Việt Nam sẽ bị thu hẹp trước sự cạnh tranh quyết liệt của các đối thủ sừng sỏ hơn. Một đối thủ đáng gờm không chỉ của Việt Nam mà còn là mối lo ngại của các nước Asean hiện nay, đó chính là Trung Quốc, đất nước được mệnh danh là cường quốc xuất khẩu hàng dệt may của thế giới. Sắp tới việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO sẽ đem lại cho xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc những quyền lợi và nhiệm vụ mới. Điều đó đồng nghĩa dệt may xuất khẩu Việt Nam sẽ gặp nhưng bất lợi mới xen kẽ với thời cơ mới. Đứng trước tình hình trên, Việt Nam cần phải nhanh chóng có những phương hướng, chiến lược mới nhằm giải quyết những khó khăn trên, đồng thời phải vô cùng nhạy bén nắm lấy cơ hội, phát huy lợi thế, đạt được những mục tiêu đã đặt ra từ nay đến năm 2010, để trong tương lai không xa đưa dệt may Việt Nam trở thành một trong 10 nước dẫn đầu về xuất khẩu dệt may.
Đây là một trong những đề tài có ý nghĩa thực tiễn lớn,góp phần gợi mở những giải pháp nhằm tăng tổng giá trị xuất khẩu của hàng dệt may. Nghiên cứu đề tài một cách nghiêm túc sẽ là cơ hội cho sinh viên chuyên ngành Quản trị kinh doanh Công nghiệp và Xây dựng bổ sung thêm vốn kiến thức cho bản thân.
39 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 917 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Kinh tế đối ngoại là trọng điểm, xuất khẩu là một trong ba chương trình kinh tế chủ đạo của đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Xuất khẩu là một phương tiện không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nhận thức được điều đó, năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 đã đề ra định hướng : “Kinh tế đối ngoại là trọng điểm, xuất khẩu là một trong ba chương trình kinh tế chủ đạo của đất nước”. Hơn 15 năm đổi mới, nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm khuyến khích xuất khẩu, đặc biệt là những lĩnh vực xuất khẩu phát huy được lợi thế về nhân công. Với những thuận lợi trên, hàng dệt may xuất khẩu đã vươn lên vị trí thứ hai(sau dầu thô) trong danh mục những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta. Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may không ngừng tăng lên tuyệt đối,tuy nhiên một vài năm gần đây, tốc độ tăng trưởng này đã chững lại, thậm chí còn suy giảm ở những thị trường chính với những con số đáng suy nghĩ. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh chưa cao. Và một hệ quả tất yếu là thị phần của Việt Nam sẽ bị thu hẹp trước sự cạnh tranh quyết liệt của các đối thủ sừng sỏ hơn. Một đối thủ đáng gờm không chỉ của Việt Nam mà còn là mối lo ngại của các nước Asean hiện nay, đó chính là Trung Quốc, đất nước được mệnh danh là cường quốc xuất khẩu hàng dệt may của thế giới. Sắp tới việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO sẽ đem lại cho xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc những quyền lợi và nhiệm vụ mới. Điều đó đồng nghĩa dệt may xuất khẩu Việt Nam sẽ gặp nhưng bất lợi mới xen kẽ với thời cơ mới. Đứng trước tình hình trên, Việt Nam cần phải nhanh chóng có những phương hướng, chiến lược mới nhằm giải quyết những khó khăn trên, đồng thời phải vô cùng nhạy bén nắm lấy cơ hội, phát huy lợi thế, đạt được những mục tiêu đã đặt ra từ nay đến năm 2010, để trong tương lai không xa đưa dệt may Việt Nam trở thành một trong 10 nước dẫn đầu về xuất khẩu dệt may.
Đây là một trong những đề tài có ý nghĩa thực tiễn lớn,góp phần gợi mở những giải pháp nhằm tăng tổng giá trị xuất khẩu của hàng dệt may. Nghiên cứu đề tài một cách nghiêm túc sẽ là cơ hội cho sinh viên chuyên ngành Quản trị kinh doanh Công nghiệp và Xây dựng bổ sung thêm vốn kiến thức cho bản thân.
Phần 1: xuất khẩu và các yếu tố tác động
Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo điều kiện cho phát triển các hạ tầng là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
Phần này nhằm vào việc nghiên cứu vai trò của xuất khẩu, mục tiêu nhiệm vụ của xuất khẩu và các yếu tố tác động.
1.1 Vai trò của xuất khẩu
1.1.1 Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân
Thực tiễn đổi mới và phát triển kinh tế ở nước ta qua mấy năm qua đã chứng minh rất rõ ràng, kinh tế đối ngoại đã và đang là một trong những nhân tố cơ bản nước ta không những vượt qua khủng hoảng mà còn cho tốc độ tăng trưỏng kinh tế cao: góp phần cung ứng hàng hoá, cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất trong nước, cung cấp máy móc thiết bị và công nghệ, đặc biệt kích thích cạnh tranh, thúc đẩy xuất khẩu, tận dụng sức mua bên ngoài để tích luỹ cho nền kinh tế. Vai trò ngoại thương được thể hiện thông qua vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Trước hết, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị kỹ thuật, công nghệ tân tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như :
- Đầu tư nước ngoài
- Vay nợ, viện trợ
- Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ
- Xuất khẩu sức lao động
Các nguồn đầu tư nước ngoài,vay nợ và viện trợ…tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
ở nước ta, thời kỳ 1986-1990, nguồn thu về xuất khẩu bằng 3/4 tổng nguồn thu bằng ngoại tệ. Và thu về xuất khẩu năm 1994 đảm bảo được 80% nhập khẩu so với 24,6%năm 1986.
Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên. Nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người nước ngoài cho vay thấy được khả năng xuất khẩu- nguồn vốn duy nhất để trả nợ- trở thành hiện thực.
Vai trò tiếp theo của xuất khẩu chính là sự đóng góp của nó trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cánh mạng khoa học,công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lac hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng nếu chỉ thụ động chờ ở sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp.
Hai là, coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động nay đến sản xuất thể hiện ở:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm.
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, tạo ra một năng lực sản xuất mới.
Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường.
Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh.
Vai trò thứ ba của xuất khẩu chính là tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống và cải thiện đời sống nhân dân. Sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp. Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng cần thiết phục vụ đời sống nhân dân.
Vai trò tiếp theo cũng không kém phần quan trọng đó là xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. Trước năm 1986, chúng ta chỉ quan hệ với các nước trong khối Xã Hội Chủ Nghĩa và cho đến bây giờ Việt Nam đã là bạn của trên 146 quốc gia và điều này làm cho nền kinh tế quốc gia gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Xét ở khía cạnh khác thì thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như hoạt động tín dụng,đầu tư…Và do đó, nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Đến lượt mình, các quan hệ kinh tế đối ngoại trên lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
1.1.2. Vai trò của xuất khẩu đối với doanh nghiệp
Tầm quan trọng của xuất khẩu đối với từng doanh nghiệp được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa doanh nghiệp với toàn bộ nền kinh tế nói chung. Bởi lẽ, doanh nghiệp cho dù có mạnh đến đâu thì cũng chỉ là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Xét trên góc độ của một doanh nghiệp thì hoạt động tiêu thụ sản phẩm nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng có vai trò hết sức cụ thể. Chỉ có thể tiêu thụ được hàng hoá thì mới có thể đảm bảo cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Phải tiêu thụ được sản phẩm do mình làm ra thì mới có thể bù đắp được chi phí và mới có thể hi vọng đem lại lợi nhuận để tích lũy cho quá trình sản xuất, mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Một doanh nghiệp khi đã có thể xuất khẩu sản phẩm và được thị trường nước ngoài chấp nhận thì chắc chắn đây cũng phải là doanh nghiệp có uy tín trong nước. Mặt khác, muốn trụ vững được trên thị trường doanh nghiệp buộc phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm bằng cách đầu tư công nghệ mới, máy móc,trang thiết bị hiện đại. Điều này làm cho nền kinh tế nói chung được tiến thêm một bước và đến lượt nó lại tác động trở lại đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hóa đất nước.
1.2 Mục tiêu và nhiệm vụ của xuất khẩu
1.2.1 Mục tiêu của xuất khẩu
Mục tiêu của xuất khẩu mà chúng ta muốn nói đến ở đây là mục tiêu nói chung của xuất khẩu. Mục tiêu này có thể không hoàn toàn giống với mục tiêu của một doanh nghiệp, hay mục tiêu cụ thể của một thời kỳ nào đó. Một doanh nghiệp phấn đấu xuất khẩu không phải để nhập khẩu, mà để thu ngoại tệ và hưởng lợi nhuận do việc chuyển đổi từ ngoại tệ thu được ra đồng Việt Nam.
ở một thời điểm nào đó, xuất khẩu cũng có thể được dùng để trả nợ, để mua vũ khí, để chi cho các hoạt động ngoại giao…
Đó là những mục tiêu, nhưng mục tiêu quan trọng chủ yếu nhất của xuất khẩu là để nhập khẩu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
Xuất khẩu là để nhập khẩu, do đó thị trường xuất khẩu phải gắn với thị trường nhập khẩu. Phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường nhập khẩu để xác định phương hướng và tổ chức nguồn hàng thích hợp.
1.2.2 Nhiệm vụ của xuất khẩu.
Để thực hiện tốt mục tiêu trên, hoạt động xuất khẩu cần hướng vào thực hiện các nhiệm vụ sau :
Phải ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước (Đất đai, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất…)
Nâng cao năng lực sản xuất hàng hoá xuất khẩu để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu.
Tạo ra những nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đáp ứng những đòi hỏi của thị trường quốc tế và của khách hàng về chất lượng và số lượng, có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao.
1.3. Nội dung và các hình thức xuất khẩu
1.3.1 Nội dung xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là việc bán hàng hoá cho nước ngoài, mà nó là kết quả của cả một quá trình. Trong đó, mỗi khâu có vai trò khác nhau nhưng quyết định đến hiệu quả của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Tổ chức quá trình nghiên cứu thị trường nước ngoài :Là quá trình doanh nghiệp tiến hành thu thập, phân tích và sử lý các số liệu, thông tin về thị trường nước ngoài mà doanh nghiệp dự định sẽ xuất khẩu. Từ đó doanh nghiệp xác định triển vọng phát triển của sản phẩm dự định xuất khẩu. Trong nội dung này doanh nghiệp cần nắm bắt rõ các yếu tố sau :
+ Các chính sách ngoại thương, thuế khoá.
+ Nhu cầu của thị trường hiện tại và tương lai.
+ Thông tin về các đối thủ cạnh tranh.
Tổ chức quảng cáo và tìm kiếm bạn hàng, đối tác kinh doanh. Đây là cách thức doanh nghiệp cung cấp các thông tin về sản phẩm và bản thân doanh nghiệp cho thị trường nước ngoài. Đó là công việc quan trọng trước khi đưa sản phẩm của doanh nghiệp đến tay người tiêu dùng bên ngoài.
Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu : doanh nghiệp phải thoả thuận rõ với khách hàng về điều khoản hợp đồng: Giá cả, số lượng, chất lượng, phương thức thanh toán, vận chuyển…Việc ký kết hợp đồng là cơ sở, bằng chứng pháp lý để đảm bảo cho hoạt động được tiến hành.
Thực hiện hợp đồng xuất khẩu : doanh nghiệp tiến hành theo các hoạt động nhằm thực hiện các điều khoản được ký kết trong hợp đồng. Doanh nghiệp cần phải tiến hành các hoạt động :
+ Xin giấy phép xuất khẩu.
+ Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu.
+ Làm các thủ tục hải quan.
+ Vận chuyển hang hoá.
+ Thanh toán.
Giải quyết các tranh chấp ( Nếu có ).
1.3.2 Các hình thức xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp
Xuất khẩu hàng hoá trực tiếp : là việc doanh nghiệp bán hàng hoá trực tiếp cho người tiêu dùng nước ngoài.
Xuất khẩu hàng hoá gián tiếp :Là việc doanh nghiệp bán hàng hoá của mình cho người tiêu dùng nước ngoài thông qua các trung gian thương mại.
Gia công quốc tế : Là một phương thức kinh doanh sản xuất xuất khẩu, trong đó một bên nước ngoài cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu hay bán thành phẩm cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp tiến hành tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo mẫu có sẵn. Sau đó, toàn bộ sản phẩm lại xuất sang giao trả cho bên nước ngoài và nhận tiền gia công.
Tạm tái xuất : Là việc doanh nghiệp mua hàng hoá của một nước trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương có làm đầy đủ thủ tục hải quan nhập về nước mình. Sau đó, hàng hoá đó lại làm thủ tục xuất khẩu sang bán cho một nước khác mà không qua quá trình gia công chế biến.
Chuyển khẩu :là hình thức tương tự như hình thức tạm nhập tái xuất nhưng hàng hoá không được nhập về mà xuất khẩu thẳng để bán sang nước thứ ba.
Xuất khẩu tại chỗ : Là hình thức xuất khẩu đặc biệt trong đó hàng hoá không được chuyển qua biên giới nhưng vẫn tiến hành thủ tục hải quan như với các hoạt động xuất khẩu khác.
Xuất khẩu thông qua hiệp định thương mại đặc biệt : Đây là hình thức xuất khẩu trong đó hàng hoá được trao đổi trực tiếp với nhau trên cơ sở giá trị của chúng dựa trên hiệp định được ký kết giữa các quốc gia.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp chịu tác động của nhân tố. Về bản chất, đây chính là hoạt động buôn bán hàng hoá, do vậy các nhân tố tác động đến hoạt động buôn bán hàng hoá nói chung cũng tác động đến hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu là hoạt động buôn bán với nước ngoài nên cũng có những nhân tố khác biệt. Việc nghiên cứu tất cả các nhân tố này là cơ sở nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu đối với các doanh nghiệp. Có thể phân loại các yếu tố ảnh hưởng làm hai nhóm chính :
Nhóm nhân tố khách quan.
Nhóm nhân tố chủ quan.
1.4.1 Nhóm nhân tố khách quan
Đây là nhóm nhân tố doanh nghiệp không thể kiểm soát nhưng chúng lại có tác động to lớn đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Một sự biến động của chúng có thẻ làm cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp bị ngừng trệ, thậm chí bị huỷ bỏ. Do doanh nghiệp không thể kiểm soát hay tác động đến chúng nên việc nghiên cứu nắm bắt các nhân tố này là cơ sở để doanh nghiệp lập kế hoạch xuất khẩu và có những biện pháp điều chỉnh kịp thời trước những biến động.
Môi trường chính trị .
Nhắc đến môi trường chính trị trong hoạt động xuất khẩu trước hết phải nói đến chế độ chính trị. Vì hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp là biểu hiện quan hệ quốc tế giữa hai quốc gia. Ngày nay với quan điểm phát triển hợp tác đa phương cùng có lợi, hoạt động xuất khẩu được tiến hành mà không gặp sự cản trở do sự khác biệt về chế độ chính trị giữa các quốc gia. Nhưng trước đây, có thời kỳ sự khác biệt đó là một rào cản, không chỉ ngăn cách quan hệ ngoại thương mà còn cản trở quan hệ hợp tác khác. ở giai đoạn khác hạot động xuất khẩu chỉ tiến hành giữa các nước xã hội chủ nghĩa hay giữa các quốc gia tư bản chủ nghĩa với nhau.
Sự ổn định về chính trị giữa các quốc gia, khu vực đặc biệt là của nước nhập khẩu hàng hoá của doanh nghiệp cũng tác động đến hoạt động xuất khẩu. Một môi trường chính trị thường xuyên biến đổi làm suy giảm niềm tin của doanh ngiệp về thị trường nước ngoài và làm tăng độ rủi ro trong kinh doanh.
Môi trường kinh tế.
Hoạt động xuất khẩu là một trong các lĩnh vực của hoạt động kinh tế. Do vậy nó cũng biến động theo tình hình kinh tế của từng quốc gia. Để đánh giá sự biến động đó, thường xem xét nhiều chỉ tiêu như : Tốc độ tăng trưởng, tình hình lạm phát và khả năng kiểm soát lạm phát, tiềm năng của nền kinh tế, cơ cấu kinh tế… Những chỉ tiêu đó không chỉ phản ánh khái quát chung về môi trường kinh doanh ở một quốc gia. Bên cạnh đó, nó phản ánh nhu cầu của quốc gia đó về các loại sản phẩm hàng hoá.
Những quốc gia mà ở đó đại bộ phận dân cư sản xuất nông nghiệp giản đơn. Hàng hoá sản xuất ra được chính họ tiêu dùng, phần còn lại dùng để trao đổi trực tiếp lấy hàng hoá khác. Điều kiện đó khiến cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá sang các thị trường đó là khó khăn.
Những nước sản xuất và xuất khẩu nguyên vật liệu thô chưa qua chế biến. Đây thường là các quốc gia giàu có về tài nguyên thiên nhiên do vậy thường là thị trường lớn cho xuất khâu thiết bị khai khoáng và hàng tiêu dùng. Những nước đang phát triển lại là thị trường có nhu cầu cao về nguyên vật liệu và các thiết bị máy móc hiện đại. Trong khi đó, những nước công nghiệp phát triển là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho mọi loại hàng hoá.
Môi trường văn hoá xã hội.
Yếu tố văn hoá xã hội của thị trường mà doanh nghiệp dự định xuất khẩu cũng có một ảnh hưởng lớn. Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp cần phải hướng tới khách hàng. Trong khi quy mô về dân số, tốc độ phát triển của dân cư, cơ cấu dân số… lại quy định nhu cầu về sản phẩm hàng hoá và xu thế biến động trong tương lai.
Thu nhập và mức sống của người dân của thị trường nước ngoài quyết định đến nhu cầu tiêu thụ và tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm. ở những quốc gia có đời sống càng cao như ở các nước tư bản phát triển yêu cầu về chất lượng rất khắt khe, mẫu mã sản phẩm phải được thường xuyên cải tiến trong khi vấn đề giá cả có thể chỉ là thứ yếu. Tại đó hàng hoá tiêu dùng cao cấp, xa xỉ dễ được chấp nhận. Ngược lại đối với quốc gia có mức thu nhập thấp, giá cả lại là yếu tố hàng đầu. Doanh nghiệp cân phải dựa vào đặc điểm này để xây dựng chiến lược xuất khẩu hợp lý.
Vấn đề dân tộc, chủng tộc và tôn giáo: đặc điểm này rất đa dạng ngay cả trong một quốc gia. Mỗi vùng, địa phương có phong tục, tập quán riêng ở đó có các quy tắc và những điều cấm kỵ riêng có thể ngăn cản khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Môi trường khoa học công nghệ.
Trong điều kiện hiện nay, khi môi trường khoa học công nghệ thay đổi từng ngày từng giờ, giữa các quốc gia khác nhau trình độ khoa học công nghệ khoa học khác nhau. Nhân tố khoa học công nghệ lại chi phối mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Muốn hàng hoá doanh nghiệp có thể xuất khẩu và được thị trường nước ngoài chấp nhận, thì việc không ngừng nắm bắt vận dụng thành tựu khoa học công nghệ là yêu cầu cấp thiết đối với doanh nghiệp.
Hệ thống các chính sách của quốc gia.
Các chính sách quốc gia luôn có tác động sâu sắc và toàn diện lên mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội của quốc gia. Các chính sách đó một mặt tác động gián tiếp bằng cách làm thay đổi các nhân tố nêu trên ( môi trường chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, khoa học công nghệ ) mặt khác còn tác động trực tiếp mạnh mẽ đến hoạt đông xuất khẩu.
Chính sách tỷ giá hối đoái: Đây là công cụ hữu hiệu của nhà nước để quản lý xuất nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái tăng hay giảm làm cho giá cả của hàng xuất khẩu trở lên rẻ hay đắt một cách tương đối. Sự thay đổi đó có thể tạo ra biến động về nhu cầu của hàng hoá xuất khẩu. Nhưng một chính sách tỷ giá hối đoái ổn định luôn là điều mà bất kỳ doanh nghiệp xuất khẩu nào cũng mong đợi.
Chính sách tiền tệ và quản lý ngoại tệ: Quản lý ngoại tệ khiến cho việc thanh toán các hợp đồng kinh doanh xuất khẩu trở nên khó khăn do đối tác không đủ lượng ngoại tệ do sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Trong khi đó, chính sách tiền tệ là công cụ nhà nước quản lý lạm phát hay tác động đến tỷ giá hối đoái. Chính sách đó có thể khuyến khích hay hạn chế nhu cầu tiêu dùng của người dân.
Hệ thống pháp luật: ở mỗi quốc gia quy định khác nhau về các mặt hàng được phép hay không được phép xuất nhập khẩu qua biên giới của mình. Cùng với đó là các quy định về mức thuế, hạng nghạch cho từng nhóm hàng. Thuế nhập khẩu là nhân tố tác động mạnh đến hoạt động xuất khẩu, các nước nhập khẩu dùng nó để bảo hộ cho nền sản xuất nội địa và làm tăng giá cả sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp. Hạn ngạch tuy không làm tăng giá cả nhưng hạn chế về quy mô, số lượng sản phẩm được phép xuất khẩu.
Hệ thống các chính sách ưu đãi : đây là chính sách mà doanh nghiệp cần triệt để lợi dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Do mỗi quốc gia trong các giai đoạn khác nhau có chiến lược, sách lược khác nhau để đạt được mục tiêu cho chiến lược xuất khẩu. Do vậy, họ thường xây dựng nhiều chính sách ưu đãi. Đỗi với nhiều doanh nghiệp xuất khẩu, đó có thể là việc giảm thuế, miễn thuế hay biện pháp hỗ trợ xuất khẩu…Doanh nghiệp có thể hưởng ưu đãi do các hiệp định thương mại, quy chế đãi ngộ tối huệ quốc (MFN), hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) đối với quốc gia mình để có được mức thuế ưu đãi gia tăng hạn ngạch xuất khẩu.
Hệ thống các chính sách, pháp luật của mỗi quốc gia luôn thay đổi, buộc các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu cần phải có những điều chỉnh linh hoạt và hợp lý để thích ứng kịp đối với quy định mới ở những thị trường đã, đang và sẽ tiến hành hoạt động xuất khẩu.
Đối thủ cạnh tranh.
Hoạt động xuất khẩu chính là việc doanh nghiệp phải cạnh tranh để tiêu thụ hàng hoá ở thị trường nước ngoài. Trong bối cảnh hiện nay, khi các quốc gia đang đẩy mạnh tiến trình hội nhập và phát triển. Sự cạnh tranh đó là tất yếu, nó đảm bảo cho doanh nghiệp chỗ đứng trên thị trường quốc tế, giúp doanh nghiệp nâng cao hình ảnh của mình. Việc nắm rõ về đối thủ cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu doanh nghiệp có thể lựa chọn chiến lược kinh doanh, chiên lược cạnh tranh có hiệu quả nhất.
Vị trí địa lý, khí hậu.
Trong hoạt động xuất khẩu, hàng hoá thương chuyển qua các quốc gia, do vậy khoảng cách giữa các quốc gia xuất khẩu và nhập khẩu,ảnh hưởng đến chi phí vận chuyển, lựa chọn hình thức vận chuyển. Những vấn đề nay thường được quy định rõ trong các hợp đồng xuất khẩu. Còn điều kiện khí khác biệt giữa các quốc gia lại tác động đến hoạt động bảo quản hay ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ, chủ yếu là đối với sản phẩm sản xuất và tiêu thụ theo vụ mùa như nông sản.
1.4.2 Nhân tố chủ quan.
Tiềm lực tài chính.
Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp cũng như bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh khác đều cần có vốn. Khi xem xét nhân tố nay, cần phải chú ý đến các chỉ tiêu về quy mô vốn và khả năng thanh toán. Quy mô vốn của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô khả năng sản xuất hàng hoá tức là tác động đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Dựa trên quy mô vốn của mình, doanh nghiệp lựa chọn đoạn thị trường mà doanh nghiệp dự định kinh doanh xuất khẩu. Còn đối với phía nước ngoài, các chỉ tiêu về khả năng thanh toán là cơ sở để họ lựa chọn bạn hàng để ký kết hợp đồng.
Nguồn lao động, máy móc thiết bị và công nghệ.
Đây là các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sản xuất của doanh nghiệp và quyết định đến chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là tiêu chí hàng đầu trong việc cạnh tranh với các sản phẩm khác ở thị trường nước ngoài. Doanh nghiệp quản lý và sử dụng hợp lý lao động, máy móc, thiết bị thì chất lượng sản phẩm sẽ được nâng cao, qua đó làm tăng hiệu quả hoạt động xuất khẩu.
Quản lý chi phí và chính sách giá.
Quản lý chi phí và chính sách giá là các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới xuất khẩu. Việc quản lý chi phí tốt sẽ dẫn tới việc giá thành sản phẩm hạ, và do đó giá cả hàng hoá giảm. Giá cả hàng hóa cũng là một yếu tố cạnh tranh của sản phẩm. Sản phẩm cá chất lượng tốt, đảm bảo thì giá cả thấp là một lợi thế để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Khách hàng sẽ chấp nhận sản phẩm với giá cả thấp và hàng hoá của doanh nghiệp thâm nhập thị trường nước ngoài dễ ràng hơn.
Trình độ quản lý.
Trình độ quản lý của doanh nghiệp cũng có ảnh hưởng đến xuất khẩu. Một doanh nghiệp xuất khẩu có trình độ quản lý tốt sẽ là một đảm bảo cho chất lượng sản phẩm, tạo cho khách hàng một sự đảm bảo và tin cậy giúp cho sản phẩm của doanh nghiệp được thị trường nước ngoài chấp nhận, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp, từ đó nâng cao hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp.
Uy tín và hình ảnh doanh nghiệp trên trường quốc tế.
Đây là một trong những lợi thế vô hình mà doanh nghiệp không thể lượng hoá hết. Doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp có thể được thị trường trong và ngoài nước biết đến và chấp nhận hay không phụ thuộc vào các yếu tố này. Nhiều sản phẩm có thể tiêu thụ mạnh tại thị trường nội địa nhưng khi xuất khẩu sang thị trường nước ngoài lại không tiêu thụ được mặc dù giá cả rẻ, chất lượng cao. Đó là do tên tuổi, nhãn hiệu sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp còn quá xa lạ với người tiêu dùng nước ngoài, tạo cho họ sự lưỡng lự khi lựa chọn tiêu dùng hàng hoá của doanh nghiệp.Khi doanh nghiệp đã xây dựng cho mình một hình ảnh, tên tuổi trên thị trường thế giới chính là tạo ra cho khách hàng và đối tác kinh doanh khác một sự đảm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 310dxc.doc