Đề tài Huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam: Thực trạng và giải pháp cho những năm đầu thế kỷ 21

Sự nghiệp đổi mới ở Việt nam thời gian qua đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng. Chúng ta không những đã vượt qua được sự khủng hoảng triền miên trong thập niên 80 mà còn đạt được những thành tựu to lớn trong phát triể kinh tế xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 5 năm liền (1993 1997 ) đạt mức 8 9.5%, lạm phát bị đẩy lùi, đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. Có được thành tựu kinh tế đáng ghi nhận này là nhờ phần đóng góp lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ). Tuy nhiên vài năm trở lại đây do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra ở một số nước trong khu vực và trên thế giới, công với mức độ cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoaì của các nước như: Trung quốc, Indonesia, Thai lan, Malayxia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam có phần giảm thiểu cả về số lượng và chất lượng ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển kinh tế xã hội. Trước tình hình đó, vấn đề đặt ra là chúng ta phải có sự nhìn nhận và đánh giá đúng đắn về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua để thấy được những yếu tố tác động; lợi thế và bất lợi của đất nước trên cơ sở đó đề ra hệ thống những giải pháp cụ thể kịp thời nhằm thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam trong những năm tới góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược mà đảng mà nhà nước đã đề ra: Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt nam trở thành một nước công nghiệp phát triển.

Để nhận thức rõ hơn vấn đề đặt ra ở trên, em chọn đề tài Huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam: Thực trạng và giải pháp cho những năm đầu thế kỷ 21.

 

 

doc27 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1424 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam: Thực trạng và giải pháp cho những năm đầu thế kỷ 21, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Sự nghiệp đổi mới ở Việt nam thời gian qua đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng. Chúng ta không những đã vượt qua được sự khủng hoảng triền miên trong thập niên 80 mà còn đạt được những thành tựu to lớn trong phát triể kinh tế xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 5 năm liền (1993 á 1997 ) đạt mức 8 á 9.5%, lạm phát bị đẩy lùi, đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. Có được thành tựu kinh tế đáng ghi nhận này là nhờ phần đóng góp lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ). Tuy nhiên vài năm trở lại đây do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra ở một số nước trong khu vực và trên thế giới, công với mức độ cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoaì của các nước như: Trung quốc, Indonesia, Thai lan, Malayxia.... Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam có phần giảm thiểu cả về số lượng và chất lượng ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển kinh tế xã hội. Trước tình hình đó, vấn đề đặt ra là chúng ta phải có sự nhìn nhận và đánh giá đúng đắn về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua để thấy được những yếu tố tác động; lợi thế và bất lợi của đất nước trên cơ sở đó đề ra hệ thống những giải pháp cụ thể kịp thời nhằm thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam trong những năm tới góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược mà đảng mà nhà nước đã đề ra: Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt nam trở thành một nước công nghiệp phát triển. Để nhận thức rõ hơn vấn đề đặt ra ở trên, em chọn đề tài ² Huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam: Thực trạng và giải pháp cho những năm đầu thế kỷ 21². Phần I Cơ sở lý luận của đầu tư trực tiếp nước ngoài I Một số khái niệm chung: 1.1Đầu tư quốc tế: Là những phương thức đầu tư vốn tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất kinh doanh, dịch vụ với mục đích kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Về bản chất đầu tư quốc tế là những hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao của xuất khẩu hàng hoá. Có hai loại hình thức đầu tư: -Đầu tư trực tiếp. -Đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn va người sử dụng vốn là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp cá nhân nước ngoài ( Chủ đầu tư ) trực tiếp tham gia quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi vốn đã bỏ ra và thu lợi nhuận. Đầu tư trực tiếp được thể hiện dưới những hình thức sau: -Hợp đồng hợp tác kinh doanh. -Doanh nghiệp liên doanh. -Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. 1.2 Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên (Gọi là các bên hợp doanh ) quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt nam mà không thành lập một pháp nhân. 1.3 Doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh là loại hình doanh nghiệp do hai bên hoặc các bên nước ngoài hợp tác với nước chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật nước nhận đầu tư. 1.4 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài ( tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài ) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt nam, tự quản lý và tự trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân Việt nam. 2 Cơ sở lý luận của việc tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Lý thuyết lợi thế so sánh của P.Vernon ( Hoa kỳ ). Trước khi lý thuyết này ra đời, người ta cho rằng các nước phát triển toàn diện. vì vậy người ta đã từng ví việc áp dụng lý thuyết này như áp dụng định luật Anhxtanh trong kinh tế. Theo lý thuyết này Vernon đã chứng minh rằng không có nước nào mạnh toàn diện và cũng không có nước nào yếu toàn diện. Nếu chúng ta biết hợp tác thì sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp, có lợi cho tất cả các nước. Hàm sản xuất: y = f ( K, L ). P. Vernon cho rằng nên tận dụng lợi thế so sánh sao cho tỷ K/L ngày càng cao. Như vậy, đối với việc đầu tư ra nước ngoài để khai thác lợi thế so sánh của nước nhận đầu tư, các chủ đầu tư sẽ đầu tư cả vào các nước đang phát triển: Công nghệ, vốn, mặt hàng mang hàm lượng chất xám cao và hàm lượng cồng nghệ lớn.Còn các nước đang phát triển, để phát huy lợi thế so sánh của mình sẽ tiếp nhận công nghệ, vốn các loại. 3 Vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 3.1 Đối với nước đầu tư: Bằng đầu tư ra nước ngoài, họ tận dụng được những lợi thế về chi phí sản xuất thấp của nước nhận đầu tư ( do giá lao động rẻ, chi phí khai thác nguyên vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước nhận đầu tư, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép các công ty này kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm mới được chế tạo ra trong nước. Thông qua đầu tư trực tiếp, cac công ty của các nước phát triển chuyển được một phần các sản phẩm công nghiệp ở giai đoạn cuối của chu kỳ sống của chúng sang các nước nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng như sản phẩm mới ở các nước này, nhờ đó mà tiếp tục duy trì được việc sử dụng các sản phẩm này, tạo thêm lợi nhuận cho nhà đầu tư. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp các công ty đi đầu tư tạo dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu dồi dào ổn định với giá rẻ. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép chủ đầu tưbành trướng sức mạnh về kinh tế, tăng cường ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế, nhờ mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm lại tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước nhận đầu tư, nhờ đó mà giảm được giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với hàng hoá nhập từ nước khác. Xét cho cùng thì mục tiêu chủ yếu của các chủ đầu tư ra nước ngoài là làm cho đồng vốn được sử dụng hiệu quả cao nhất. 3.2. Đối với nước nhận đầu tư. Để phát triển kinh tế - xã hội các nước đang phát triển trước hết đều phải đương đầu với sự thiếu thốn gay gắt các yếu tố cần thiết cho sự phát triển. Việc tiếp nhận FDI có các tác dụng sau: FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế xã hội do tích luỹ nội bộ thấp. Điều này đã hạn chế quy mô đầu tư và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện nền khoa học kỹ thuật thế giới phát triển mạnh. Các nước NICs trong gần 30 năm qua nhờ nhận được trên 50 tỷ USD đầu tư nước ngoài cùng với chính sách kinh tế năng động và có hiệu quả đã trở thành các con rồng Châu á. Cùng với việc cung cấp vốn, thông qua hoạt động FDI các công ty nước ngoài đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang nước nhận đầu tư do đó các nước này nhận được kỹ thuật tiên tiến ( trong đó có những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ thương mại đơn thuần ), kinh nghiệm quản lý, năng lực maketing, đội ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về mọi mặt ( trình độ kỹ thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động...) Đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển, tính năng động và khả năng cạnh tranh trong nước ngày càng được tăng cường, các tiềm năng cho phát triển kinh tế xã hội đất nước có điều kiện để khai thác và được khai thác. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Với việc tiếp nhận FDI, nước chủ nhà không phải lo trả nợ. Thông qua hợp tác với nước ngoài, nước chủ nhà có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giới nơi chủ đầu tư có chỗ đứng. Ngày nay FDI đã trở thành một tất yếu khách quan trong điều kiện quúc tế hoá nền sản xuất, lưu thông và được tăng cường mạnh mẽ. Có thể nói, hiệ nay không một quốc gia nào lại không cần đến nguồn vốn DI của nước ngoài và coi đó là một nguồn lực cần khai thác để hoà nhập vào cộng đồng quốc tế. Mặc dù vậy, đầu tư trực tiếp của nước ngoài không phải bất cứ lúc nào và ở đâu cũng phát huy tác động tích cực đối với đời sống kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. Nó chỉ có thể phát huy tác dụng trong môi trường kinh tế chính trị, xã hội ổn định và đặc biệt là nhà nước của nước nhận đầu tư biết sử dụng và phát huy vai trò quản lý của mình. 4 Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiện nay trên thị trường đầu tư quốc tế đang có sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà đầu tư có nguồn vốn lớn cũng như giữa các nước tiếp nhận đầu tư với nhau. Qua nhiều công trình nghiên cứu, các học giả kinh tế đã đưa ra 12 yếu tố có ý nghĩa quyết định cho việc chọn lựa một vùng hay một nước nào đó để đâù tư, đó là: 4.1 Đặc điểm của thị trường bản địa ( quy mô, dung lượng của thị trường, sức mua của dân bản xứ và khả năng mở rộng quy mô đầu tư ). Việt nam là một thị trường khá rộng lớn với quy mô dân số gần 80 triệu người, nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao, đây là một lợi thế song trên 80% dân số sống ở khu vực nông thôn, thu nhập thấp, sức mua chưa cao. Đây là nhân tố cản trở khả năng thu hút FDI. 4.2 Luật đầu tư. Yếu tố này có thể là thúc đẩy hoặc hạn chế hoạt động của các công ty nước ngoài trên thị trường bản địa. Luật này thường bảo vệ lợi ích của các nhà sản xuất bản xứ. Nhiều nước mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài theo các điều kiện giống như các nhà đầu tư bản xứ . Sau nhiều lần sửa đổi ,bổ sung luật đầu tư nước ngoài ở việt nam đã khá thông thoáng và cởi mở song còn tồn tại nhiều yêú tố cần được xem xét hoàn thiện hơn nhằm thúc đẩy thu hút FDI tại Việt Nam 4.3.Đặc điểm của thị trường nhân lực. Nhân công rẻ là mối quan tâm hàng đầu ở đây đặc biệt là đối với những nhà đầu tư nước ngoài muốn bỏ vốn vào các lĩnh vực cần nhiều lao động,có khối lượng sản xuất lớn như: Dệt may,lắp ráp điện tử ,xe máy...Trình độ học vấn và nghề nghiệp của những công nhân đầu đàn (có tiềm năng và triển vọng ) có ý nghĩa quan trọng. Việt Nam có nguồn nhân công dồi dào, giá nhân công rẻ so với các nước trong khu vực,song còn tồn tại nhiều bất cập : Năng xuất lao động thấp do lực lượng lao động qua đào tạo ít,tình tự tay nghề thấp thiếu đội ngũ kỹ sư,công nhân lành nghề và cán bộ quản lý có năng lực thực sự. cơ cấu lao động chưa hợp lý,xuất hiện và tồn tại tình trạng ²thừa thầy, thiếu thợ “. Cơ chế thi tuyển chưa rõ ràng, công khai và phổ biến.... 4.4 Chính sách tiền tệ ổn định và mức độ rủi ro tiền tệ ở nước tiếp nhận vốn đầu tư: Yếu tố đầu tiên ở đây góp phần mở rộng hoạt động xuất khẩu của nhà đầu tư. Tỷ giá đồng bản tệ bị nâng cao hay hạ thấp đều ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. 4.5 Khả năng hồi hương vốn đầu tư. Vốn và lợi nhuận được tự do qua biên giới ( hồi hương ) là tiền đề quan trọng để thu hút vốn FDI. ở một số nước thủ tục mang ngoại tệ ra nước ngoài khá rầy rà, cản trở hoạt động đầu tư nước ngoài. ở Việt nam bên cạnh việc quản lý hồi hương vốn, lợi nhuận bằng ngoại tệ chuyển ra nước ngoài ở một trừng mực nhất định chúng ta đã có những chính sách hạn chế những rầy rà, tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài. 4.6 Bảo vệ quyền sở hữu. Quyền này gồm quyền của người phát minh, sáng chế, quyền tác giả, cả nhãn hiệu hàng hoá và bí quyết thương nghiệp...đây là yếu tố đặc biệt có ý nghĩa đối với những người muốn đầu tư vào các ngành có hàm lượng khoa học cao và phát triển năng động( như sản xuất máy tính và thiết bị liên lạc ...)ở một số nước,lĩnh vực này được kiểm tra,giám sát khá lỏng lẻo,phổ biến là dùng bất hợp pháp các công nghệ ấycủa nước ngoài.chính vì vậy mà mốtố nước bị các nhà đầu tư loại khỏi danh sách các nước có kha năng nhận vốn đầu tư. 4.7 Chính sách thươngmại. Yếu tố này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với vấn đề đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu. Hạn ngạch xuất nhập khẩu thấp và các hàng rào thương mại khác trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng có thể không kích thích hấp dẫn với nhà đầu tư nước ngoài. chính những yếu tố này làm phức tạp thêm cho thủ tục xuất nhập khẩu. 4.8 Điều chỉnh hoạt động của các công ty nước ngoài. Luật lệ cứng rắn cũng làm tăng chi phí củacác công ty nước ngoài. Các nhà đầu tư rất thích có sự tự do hơn trong hoạt động và do vậy họ rất mong muốn có luật mềm rẻo , linh hoạt ,các nhà đầu tư có thể ứng phó đạt hiệu quả trước những diễn biến của thị trường Vấn đề can thiệp qúa sâu vào hoạt động của các công ty nước ngoài cũng là một lực cản trong việc thu hút FDI .Ví dụ một số nước cấm sa thải công nhân là không phù hợp với lợi ích của công ty nuớc ngoài. Chính sách lãi suất của ngân hàng và chính sách ưu đãi đối với một số khu vực(khu chế xuất ,khu công nghiệp...) cũng có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư ở một số nước 4.9 Chính sách thuế và những ưu đãi. Chính sách thuế và những ưu đãi thường được áp dụng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Giảm thuế nhập khẩu công nghệ, nguyên vật liệu, thuế xuất; tăng thuế nhập thành phẩm; Miễn giảm thuế thu nhập đối với các vùng có điều kiện khó khăn, ngành khuyến khích đầu tư. 4.10 ổn định chính trị xã hội ở nưốc nhận đầu tư và trong khu vực. Đây là yếu tố không thể xem thường mỗi khi bỏ vốn đầu tư vì rủi ro chính trị có thể gây thiệt hại lớn cho nhà đầu tư nước ngoài.Ví dụ về các nước đang phát triển Mỹ la tinh cho thấy, mặc dù nguồn lực tư nhiên của các nước này khá rồi rào nhưng do luôn có những bất ổn định trong đời sống chính trị- hội nên dòng FDI đổ vào các nước này không ổn định. Ngay cả các nước thuộc khu vực năng động Đông Nam á như Philipin, cho dù nguồn tài nguyên và nguồn nhân lực không nghèo, nhưng do xã hội không ổn định,thường xuyên có những xung đột, mâu thuẫn về ý tưởng giai cấp trong xã hội đã dẫn đến kết quả là nguồn FDI trung bình hàng năm không cao như với một số nước đang phát triển khác trong khu vực 4.11 Chính sách kinh tế vĩ mô. Chính sách kinh tế vĩ mô ổn định sẽ góp phần thuận lợi cho hoạt động của cả các nhà đầu tư nước ngoài lẫn bản xứ Không có những biện pháp tích cực chống lạm phát có thể làm cho các nhà đầu tư không thích bỏ vốn vào nước này. Nếu giá cả tăng nhanh hay tăng ngoài dự kiến khó có thể dự đoán được các kết quả hoạt động kinh doanh. Mức độ ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện quan trọng để thu hút vốn nước ngoài. Tính ổn định ở đây được xét đến theo nghĩa làm sao đó nó thoả mãn được 2 nhu cầu: Thứ nhất: ổn định vững chắc nhưng không phải là và không thể là sự ổn định bất động ( tức là sự ổn định hàm chứa trong nó khả năng trì trệ kéo dài và dẫn tới khủng hoảng). Một sự ổn định được coi là vững chắc nhưng bất động chỉ có thể là sự ổn định ngắn hạn. Xét trong dài hạn, loại ổn định này tiền chứa trong nó khả năng gây bất ổn định. Bởi vì vắng sự ổn định về nguyên tắc, không thể đồng nhất với sự trì trệ. Bản chất của sự ổn định kinh tế gắn liền với năng lực tăng trưởng. Thứ hai: ổn định trong tăng trưởng, tức là kiểm soát nhịp độ tăng trưởng sao cho quá trình tăng trưởng, đặc biệt là các nỗ lực tăng trưởng nhanh, lâu bền , không gây ra trạng thái quá nóng của đầu tư. Theo nghĩa xác định, tăng trưởng tức là phá vỡ thế ổn định cũ. Nhưng nếu quá trình tăng trưởng được kiểm soát sao cho có thể chủ động tái lập được thế cân bằng mới thì quá trình đó cũng đồng thời là việc taọ ra cơ sở cho sự ổn định vững chắc và lâu bền. 4.12. Cơ sở hạ tầng phát triển. Nếu các yếu tố trên đều thuận lợi nhưng một khâu nào đó của cơ sở hạ tầng( giao thông liên lạc, điện, nước) bị thiếu hay yếu kém cũng ảnh hưởng đến sự hấp dẫn của các nhà đầu tư. Tăng trưởng cao của FDI thường đi đôi với các kế hoạch triển vọng về phát triển cơ sở hạ tầng của các nước chủ nhà. Việt Nam là nước có cơ sở hạ tầng kém phát triển. Do vị thế địa lý và chiến tranh tàn phá. Hệ thống đường sắt lạc hậu khá xa so với thế giới giao thông đường thủy gặp nhiều khó khăn. Vận tải biển và hàng không chưa phát triển. Chúng ta đang từng bước cải tạo, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng tạo tiền đề cho việc thu hút và sử dụng FDI hiệu quả Phần hai Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ năm 1989 đến nay và xu thế trong những năm tới Hiện nay, xu thế toàn cầu hoá, khu vực nền kinh tế đang diễn ra khắp trên toàn thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo phát triển chung đó. Ngày nay có nhiều các công ty, tổ chức quốc tế đầu tư vào Việt Nam và hiện nay nguồn vốn này đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh thế. Sau đây là bức tranh tổng thể về FDI I.Thực trạng 1.Về số dự án và số vốn đầu tư: Trong hơn 10 năm, từ 1989-1999 đã có 3087 dự án với tổng số vốn đăng ký là: 40.055 triệu USD. Trong đó tổng số vốn thực hiện là: 15.700 triệu USD, đạt tỉ lệ 39,2% so với tổng vốn đăng ký. Đây là một tỉ lệ khá cao( đồng thời cũng khá cao so với các nước trong khu vực; Trung Quốc: 31%, Indonexia 44%, ấn độ 18%/ theo số liệu thống kê của bộ kế hoạch và đầu tư, quá trình thu hút vốn và số dự án FDI qua các năm trong giai đoạn 1989-1999 được thể hiện qua biểu đồ sau: Năm Số dự án Tổng vốn đầu tư (Triệu USD) Tổng vốn thực hiện (Triệu USD) 1989 70 539 130 1990 111 596 220 1991 155 1388 221 1992 193 2271 398 1993 272 2987 1106 1994 362 4071 1952 1995 404 6616 2652 1996 501 9212 2371 1997 479 5548 3250 1998 260 4827 1900 1999 280 2000 1500 Nguồn : Thông tin tài chính - số 1/1-2000 Qua số liệu trên ta dễ dàng nhận thấy tổng số dự án cũng như tổng số vốn FDI trong giai đoạn 1989-1996 tăng lên với tốc độ rất nhanh. Năm 1989 số lượng vốn đầu tư thu hút được mới chỉ đạt 539 Triệu USD, năm 1995 đã tăng lên 6616 triệu USD và năm 1996 đạt mức 9212 triệu USD. Mức tăng bình quân hàng năm trong giai đoạn này là 50%. Quy mô trung bình của một dự án cũng tăng dần qua các năm. Từ 3,5 triệu USD thời kỳ 1988-1990 tăng lên 7,5 triệu USD năm 1991; 7,6 triệu USD năm 1992; 10 triệu USD năm 1993-1994; 16,38 triệu USD năm 1995 và 23,7 triệu USD năm 1996. Ngày càng có nhiều dự án có tổng số vốn đầu tư lớn như dự án xây dựng khu đô thị nam Thăng long. 2,1 tỉ USD, khu đô thị nam Sài Gòn. 991 triệu USD, dự án xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Sao Mai-Bến Đình 637 triệu USD...Điều đó cho thấy thời kỳ này, việc thu hút FDI của Việt Nam tỏ ra rất có hiệu quả. Một phần đó là do Việt Nam là một thị trường mới hấp dẫn các nhà đầu tư, một phần quan trọng khác là những chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài đúng đắn của nhà nước Việt Nam. Các khoản đầu tư này đã góp phần đáng kể trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đóng góp vào ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và giải quyết công ăn việc làm: Doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng dần qua các năm: Năm 1990 là 43 triệu USD, năm 1991 là 149 triệu USD, năm 1992 là 206 triệu USD, năm 1993 là 447 triệu USD, năm 1994 là 951 triệu USD, năm 1995 là 1397 triệu USD, năm 1996 là 1814 triệu USD, năm 1997 đạt 2,4-2,5 tỉ USD...mức tăng trưởng giai đoạn này là 30%. Tỷ lệ xuất khẩu trên doanh thu đạt khoảng hơn 60% năm 1997 và bằng 44% năm 1996, 31% cho năm 1995. Giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm ngàn người. Đa số các dự án hoạt động theo hình thức liên doanh( giai đoạn 1987-1997) có 1337 dự án chiếm 61% tổng số dự án với số vốn trên 23,7tỉ USD-chiếm 69% tổng vốn đăng ký. Đây là một điểm mạnh của các dự án đầu tư nước ngoài vì các đối tác nước ngoài cũng mong muốn hợp tác với Việt Nam. Số dự án hoạt động theo hình thức 100% vốn nước ngoài là 669 dự án – chiếm 30% tổng số dự án. với số vốn 6,48 tỉ USD. Số dự án hoạt động theo hình thức hợp tác kịnh doanh trên cơ sở hợp đồng rất thấp: Có 145 dự án chiếm 7% với số vốn là 3,23 tỉ USD-chiếm 9,4 %. Sở dĩ như vậy là do một số nghành đặc biệt như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông nhà nước quy định phải làm theo hình thức hợp doanh. Chỉ có 3 dự án hoạt động theo hình thức BOT-chủ yếu xây dựng cơ sở hạ tầng( cấp nước thành phố Hồ Chí Minh, xây dựng cảng quốc tế Sao Mai-Bến Đình, xây dựng nhà máy điện Watsina tại Cần Thơ, còn lại là các dự án hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Nhiều công trình, dự án quan trọng đã đi vào hoạt động, nhiều công nghệ quan trọng được chuyển giao đã tạo ra năng lực mới cho nền kinh tế. Tác động rõ nét nhất là lĩnh vực công nghiệp, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 100% về khai thác dầu thô, lắp ráp ô tô, sản xuất bóng đèn hình; 45% về sản xuất thép, 21% về sản xuất vải, 20% về sản xuất bia... Theo thống kê, trong giai đoạn 1991-1996 vốn FDI đã thực hiện chiếm 40% tổng vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm. Tỷ trọng sản phẩm trong tổng GDP của khu vực đầu tư nước ngoài cũng ngày một tăng. Năm 1993 là 5,6%, năm 1994 là 7,5%; năm 1995 là 10% và đến năm 1996 là 13%. Tuy nhiên đến sau năm 1996, tình hình thu hút FDI có xu hướng chững lại. Nếu nhìn vào con số thống kê, số vốn đăng ký của cả năm 1996 là 9212 triệu USD tăng 39% so với năm 1995 thì có lẽ tình hình vẫn khả quan. Tuy vậy, những ai quan tâm đến tình hình đầu tư đều nhận thấy rằng, nếu không có hai dự án xây dựng khu đô thị mới với tổng vốn đầu tư trên 3 tỉ USD được cấp vào những ngày cuối năm thì tổng vốn FDI năm 1996 sẽ chỉ còn gần 6 tỉ USD, thấp hơn tổng vốn FDI năm 1995. Đến năm 1997 thì tình hình rõ ràng hơn, tổng vốn đăng ký chỉ còn 4462 triệu USD, nếu kể cả số vốn tăng thêm 1095 triệu USD của 143 dự án điều chỉnh thì cả năm số vốn đăng ký là 5,5 tỉ USD, chỉ bằng khoảng 64% số vốn FDI đăng ký năm 1996 mặc dù số dự án bằng 91%. Bước sang năm 1998 do tiếp tục bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực kéo daì nên đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bị giảm xút mạnh. Tuy vậy phải nhờ các chính sách phù hợp, tập trung sử lý những vướng mắc kịp thời nên năm 1998 vẫn có thêm 260 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn là 4827 triệu USD. Năm 1999 số dự án là 280 song tổng số vốn chỉ đạt 2000 triệu USD. Như vậy trong giai đoạn 1996-1999 số dự án( trừ 1999) được cấp giấy phép liên tục giảm, tổng số vốn đầu tư cũng có chiều hướng giảm theo. 2.Về cơ cấu vốn đầu tư: Đây là một vấn đề có vai trò rất quan trọng trong việc thu hút vốn FDI, nó có tác dụng to lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của chúng ta. Theo số liệu thống kê, cơ cấu vốn đầu tư vào Việt Nam trong những năm qua đã có bước tiến bộ rõ rệt. Tính đến tháng 8-1993, ngành công nghiệp khai thác ( chủ yếu là dầu khí) và khách sạn, du lịch thu hút tới 40,9% tổng số vốn đầu tư, thì năm 1998 số vốn đầu tư vào các ngành này chỉ còn 18,2%. Số vốn đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất và xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng gia tăng. Tính đến năm 1998 đã có đến 21,236 tỉ USD đầu tư vào khu vực này, chiếm 2/3 tổng số vốn FDI đầu tư vào Việt Nam. Nếu tính suốt cả thời kỳ 1988-1997 ngành công nghiệp có 1977 dự án với số vốn đăng ký là 11546,3 triệu USD, thứ hai là ngành khách sạn, du lịch co 189 dự án với số vốn đăng ký là 3880,5 triệu USD; thứ ba là ngành giao thông-bưu điện có 120 dự án với số vốn là 2785,9 triệu USD; thứ tư là ngành nông-lâm nghiệp-thuỷ sản có 316 dự án với số vốn là 1527,3 triệu USD. Cơ cấu này được thể hiện ở bảng sau: (Đơn vị vốn đầu tư: triệu USD) STT Ngành Tính đến tháng 8-1993 Tính đến năm 1998 số dự án tổng số vốn Tỉ lệ % vốn số dự án tổng số vốn Tỉ lệ % vốn 1. Công nghiệp chế biến 285 2328 39.6 1291 13008 40,5 2. Công nghiệp khai thác 25 1124 19.1 79 2184 6.8 3. Xây dựng 14 16 0.3 259 8228 25,6 4. Khách sạn và du lịch 86 1276 21.8 161 3650 11,4 5. Giao thông và bưu điện 34 456 7.8 102 1465 4,6 6. Nông-lâm nghiệp 81 239 4.1 54 316 1,0 7. Ngư nghiệp 32 90 1.5 47 206 0,6 8. Các nghành khác 68 336 5.8 327 3045 9.5 Tổng cộng 625 5865 100 2320 32102 100 (Nguồn:Bộ Kế hoạch vàĐầu tư) Nếu như thời kỳ đầu các ngành sản xuất chỉ chiếm từ 50-60% tổng số vốn đầu tư thì năm 1996 con số đó đã lên tới 80%. Vốn đầu tư tăng mạnh vào các ngành công nghiêp thực phẩm, năm 1996 tăng 154% so với năm 1995; Ngành giao thông và bưu điện tăng 89%; xây dựng và sản xuất vật liệu công nghiệp tăng 63% trong cùng thời kỳ. Điều đáng chú ý là trong thời gian qua đã có một số dự án đầu tư vào hạ tầng cơ sở. Ngược lại so với năm 1995, năm 1996 FDI trong lĩnh vực khách sạn giảm đi 53%, văn phòng cho thuê giảm 70% và tài chính ngân hàng giảm 44%. Mức giảm còn mạnh hơn vào 1997 và 1998. Sự phân phối lại nguồn vốn đầu tư trong công nghiệp chứng tỏ các nhà đầu tư nước ngoài đã ngày càng tin tưởng vào tiến trình đổi mới ở Việt Nam, không chỉ đầu tư vào những ngành thu hồi vốn nhanh mà họ còn yên tâm đầu tư vào các dự án phát triển dài hạn. Có được kết quả này là nhờ vào một phần quan trọng trong việc phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao. Tuy nhiên cũng dễ nhận thấy là số vốn FDI đầu tư vào các ngành nông-lâm-ngư nghiệp còn quá ít. Đến năm 1998, mới có 1629 triệu USD chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số vốn FDI mặc dù khu vực này có rất nhiều tiềm năng để phát triển như khai thác để chế biến nông lâm thuỷ sản. Điều này cho thấy trong những năm tới khu vực này cần tập trung thu hút nguồn FDI nhiều hơn nữa để có thể tận dụng tốt hơn các nguồn lực cho phát triển. Cơ cấu vốn đầu tư cho vùng lãnh thổ cũng đã từng bước phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế. Những năm đầu, c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc62370.doc
Tài liệu liên quan