Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự phát triển của các thành phần kinh tế đang góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Các công ty TNHH, công ty cổ phần,doanh nghiệp tư nhân mọc lên hoàng loạt và cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp Nhà nước. Bên cạnh đó các chính sách kinh tế mở đã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào nước ta dưới mọi hình thức như liên doanh, liên kết, các khu chế xuất .mang theo cả “bầu không khí” thị trường vào nước ta khiến cho nền kinh tế trong nước sôi động hẳn lên. Trong chu kì phát triển đó vai trò của vốn và sự điều tiết của vốn là vô cùng quan trọng. Chính vì vậy mà các ngân hàng thương mại đóng một vai trò vô cùng to lớn trong nền kinh tế quốc dân.
Cùng với sự vận động của nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng - sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá cũng đã, đang vận động kịp thời để thích nghi với điều kiện mới. Hoạt động Ngân hàng là một mắt xích quan trọng trong sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế, trong sự nghiệp đổi mới hệ thống ngân hàng nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng đã góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới của đất nước, xây dựng hoàn thiện một nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển bền vững.
Đối với Ngân hàng thương mại thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn khoảng 80%, đây là nghiệp vụ tạo ra khoảng 90% trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Xong rủi ro từ nghiệp vụ tín dụng là rất lớn, nó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, làm sai lệch đảo lộn kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có thể đưa ngân hàng đến chỗ phá sản. Sự phá sản của ngân hàng là một cú sốc mạnh không chỉ gây ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng, mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Chính vì vậy đòi hỏi các Ngân hàng phải quan tâm và hiểu rõ rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Việc đánh giá đúng thực trạng rủi ro tín dụng để tìm ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro là một yêu cầu cấp thiết, đảm bảo an toàn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Chính vì vậy để hiểu rõ hơn về hoạt động tín dụng trong các NHTM và vai trò to lớn của nó trong nền kinh tế thị trường nhằm khai thác có hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần phát triển nền kinh tế Việt Nam em xin chọn đề tài: ”Hoạt động tín dụng và một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân Đội chi nhánh Thanh Xuân”
Đề tài bao gồm có 3 chương:
Chương I : Tổng quan về rủi ro tín dụng tại NHTM
Chương II : Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân Đội chi nhánh Thanh Xuân
Chương III: Một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân Đội chi nhánh Thanh Xuân
86 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1052 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Hoạt động tín dụng và một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội chi nhánh Thanh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự phát triển của các thành phần kinh tế đang góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Các công ty TNHH, công ty cổ phần,doanh nghiệp tư nhân… mọc lên hoàng loạt và cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp Nhà nước. Bên cạnh đó các chính sách kinh tế mở đã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào nước ta dưới mọi hình thức như liên doanh, liên kết, các khu chế xuất….mang theo cả “bầu không khí” thị trường vào nước ta khiến cho nền kinh tế trong nước sôi động hẳn lên. Trong chu kì phát triển đó vai trò của vốn và sự điều tiết của vốn là vô cùng quan trọng. Chính vì vậy mà các ngân hàng thương mại đóng một vai trò vô cùng to lớn trong nền kinh tế quốc dân.
Cùng với sự vận động của nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng - sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá cũng đã, đang vận động kịp thời để thích nghi với điều kiện mới. Hoạt động Ngân hàng là một mắt xích quan trọng trong sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế, trong sự nghiệp đổi mới hệ thống ngân hàng nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng đã góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới của đất nước, xây dựng hoàn thiện một nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển bền vững.
Đối với Ngân hàng thương mại thì nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn khoảng 80%, đây là nghiệp vụ tạo ra khoảng 90% trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Xong rủi ro từ nghiệp vụ tín dụng là rất lớn, nó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, làm sai lệch đảo lộn kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có thể đưa ngân hàng đến chỗ phá sản. Sự phá sản của ngân hàng là một cú sốc mạnh không chỉ gây ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng, mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Chính vì vậy đòi hỏi các Ngân hàng phải quan tâm và hiểu rõ rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Việc đánh giá đúng thực trạng rủi ro tín dụng để tìm ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro là một yêu cầu cấp thiết, đảm bảo an toàn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
Chính vì vậy để hiểu rõ hơn về hoạt động tín dụng trong các NHTM và vai trò to lớn của nó trong nền kinh tế thị trường nhằm khai thác có hiệu quả hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần phát triển nền kinh tế Việt Nam em xin chọn đề tài: ”Hoạt động tín dụng và một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân Đội chi nhánh Thanh Xuân”
Đề tài bao gồm có 3 chương:
Chương I : Tổng quan về rủi ro tín dụng tại NHTM
Chương II : Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân Đội chi nhánh Thanh Xuân
Chương III: Một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân Đội chi nhánh Thanh Xuân
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHTM
1.1 Ngân hàng thương mại.
1.1.1 Định nghĩa.
Ngân hàng Thương mại (NHTM) là tổ chức tài chính trung gian có vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế, nó là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng. Theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của Hội đồng Nhà nước xác định:" Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán".
Như vậy NHTM làm nhiệm vụ trung gian tài chính đi vay để cho vay qua đó thu lời từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi, nó thực sự là một loại hình doanh nghiệp dịch vụ tài chính, mặc dù giữa NHTM và các tổ chức tài chính trung gian khác rất khó phân biệt sự khác nhau, nhưng người ta vẫn phải tách NHTM ra thành một nhóm riêng vì những lý do rất đặc biệt của nó như tổng tài sản có của NHTM luôn là khối lượng lớn nhất trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng, hơn nữa khối lượng séc hay tài khoản gửi không kì hạn mà nó có thể tạo ra cũng là bộ phận quan trọng trong tổng cung tiền tệ M1 của cả nền kinh tế. Cho thấy NHTM có vị trí rất quan trọng trong hệ thống ngân hàng cũng như trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.2. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế:
Thứ nhất: Với chức năng chung gian tài chính, ngân hàng là nơi cấp vốn cho nền kinh tế.
Thứ hai: Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như: Quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.
Thứ ba: Ngân hàng thương mại là một chủ thể tạo sự tác động trực tiếp của những công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buôc, thị trường mở ...các Ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng và thu hẹp khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông để ổn định giá trị đồng tiền cả về mặt đối nội và đối ngoại.
Thứ tư: Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế.
1.2. Hoạt động tín dụng của NHTM:
Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng, nó là hoạt động sinh lợi chủ yếu và luôn chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng tài sản có của các NHTM, do đó nó có vị trí rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng.
1.2.1. Tín dụng ngân hàng
1.2.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Là quan hệ chuyển giao quyền sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay trên nguyên tắc có hoàn trả (trong đó người cho vay là ngân hàng). Quan hệ tín dụng dựa trên nền tảng của sự tin tưởng nhau giữa các chủ thể. Trong quá trình đó, bên cho vay sẽ chuyển giao vốn của mình cho bên vay sử dụng trong một thời gian nhất định mà hai bên thỏa thuận gọi là thời hạn tín dụng, khi đến hạn bên đi vay sẽ phải hoàn trả vô điều kiện cả gốc lẫn lãi cho bên cho vay.
Điều 20 trong luật Các Tổ chức tín dụng Việt Nam quy định: “tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng trong đó người cho vay là ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng còn người đi vay là các doanh nghiệp hoặc các cá nhân có nhu cầu về vốn.” Theo đó, việc cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Điểm đặc biệt trong tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay bằng vốn của người khác. Quá trình vận động này đặc biệt ở chỗ ngân hàng chỉ bán quyền sử dụng của mình đối với tiền hay hàng hoá, chứng khoán, dịch vụ chứ không bán quyền sở hữu nên sau một thời gian sẽ thu hồi cả vốn lẫn lãi.
Và giáo trình “Ngân hàng thương mại” của trường Đại học kinh tế quốc dân định nghĩa rằng “Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong lền kinh tế”. Từ định nghĩa đó ta thấy được hoạt động chính của các ngân hàng là huy động vốn trong nền kinh tế và sử dụng số vốn huy động được vào hoạt động kinh doanh của mình. Số vốn của ngân hàng thực tế nhỏ hơn rất nhiều so với nhu cầu vay vốn của cá khách hàng vì vậy ngoài nguồn vốn chủ ngân hàng còn huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, những nguồn vốn này là cơ sở để ngân hàng tiến hành các hoạt động của mình trong đó có hoạt động tín dụng ngân hàng. Vì vậy có thể nói đây là nguồn gốc của hoạt động tín dụng ngân hàng.
1.2.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng
Tín dung ngân hàng là hoạt động quan trong nhất của các ngân hàng thương mại. Nó có vai trò quan trọng đối với chính các ngân hàng này và với toàn bộ nền kinh tế.
Đối với nhà nước:
Trước hết tín dụng ngân hàng có vai trò điều chỉnh cung tiền thông qua dự trữ bắt buộc và hạn mức tín dụng. Thông qua hoạt động cấp tín dụng cho nền kinh tế, ngân hàng đã tạo ra số nhân tiền tệ. Đó chính là khả năng tạo tiền của ngân hàng. Chúng ta đã biết công thức tính cung tiền của nền kinh tế M=m*MB trong đó m = (1+c)/(r+c) với r = R/D và c = C/D. (M: cung tiền; MB: lượng tiền cơ sở; m: số nhân tiền; c: tỷ lệ tiền tệ trong lưu thông; r: tỷ lệ dự trữ tiền gửi; R: lượng tiền dự trữ trong ngân hàng; C: số lượng tiền mặt đang lưu thông; D: số lượng tiền gửi tại các ngân hàng thương mại). Qua công thức ta nhận thấy cung tiền trong nền kinh tế tỷ lệ nghịch với tỷ lệ dự trữ tiền gửi tại các ngân hàng. Tỷ lệ dự trữ này của các NHTM lại phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà ngân hàng nhà nước quy định, các ngân hàng thương mại luôn dự trữ một khoảng tiền lớn hơn mức dự trữ bắt buộc để vừa đảm bảo được mức dự trữ của mình luôn phải đạt được mức dự trữ bắt buộc mà vẫn không ảnh hưởng tới việc kinh doanh của ngân hàng. Còn về hạn mức tín dụng, nó sẽ tác động đến lượng tiền cho vay của các NHTM với khách hàng và qua đó ảnh hưởng tới số tiền cung tiền của nền kinh tế. Vì yếu tố đó mà ngân hàng nhà nước sẽ dễ dàng thay đổi lượng tiền cung ứng bằng cách điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc hạn mức tín dụng đối với các NHTM.
Tín dụng ngân hàng còn góp phần vào tài trợ nguồn vốn sản xuất kinh doanh, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Và khi các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh sẽ kéo theo nền sản xuất xã hội phát triển. Bên cạnh đó khi các doanh nghiệp mở rộng sản xuất sẽ tạo điều kiện cho một bộ phận lao động trong xã hội có được công ăn việc làm, tăng thu nhập cải thiện đời sống góp phần hạn chế các tệ nạn trong xã hội.
Với chức năng trung gian tài chính của mình, ngân hàng với nghiệp vụ tín dụng của nó có vai trò quan trọng trong thúc đẩy lưu thông tiền tệ. Nếu không có các tín dụng ngân hàng đứng ra làm cầu nối giữa người cho vay đầu tiên và người đi vay cuối cùng thì những người này sẽ phải tự tìm đến nhau. Điều này vốn không phải dễ vì rất khó để những người cho vay và đi vay ở cùng một mức lãi suất, cùng một lượng tiền gặp nhau trong nền kinh tế. Điều đó dẫn tới hiện tượng ứ đọng vốn trong nền kinh tế gây ra tồn đọng trong quá trình lưu thông tiền tệ. Với sự xuất hiện của tín dụng ngân hàng vấn đề này đã được giải quyết. Và chúng ta cũng nhận thấy nếu lượng vốn ứ đọng này không được giải quyết hợp lý sẽ ảnh hưởng đến lưu thông tiền tệ dẫn đến mất cân đối trong mối quan hệ tiền – hàng, kéo theo sự biến động của hệ thống giá cả. Do vậy, tín dụng ngân hàng đã góp phần vào ổn định tiền tệ, giá cả.
Ngoài ra tín dụng ngân hàng còn trở thành công cụ quan trọng của nhà nước trong quá trình phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng. Khi khủng hoảng kinh tế diễn ra, nhu cầu của nền kinh tế giảm, các doanh nghiệp cũng cắt giảm thu hẹp sản xuất. Đề hồi phục nền kinh tế nhà nước có thể thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy tín dụng ngân hàng phát triển thông qua đó thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong cuộc khủng hoảng hiện nay nhà nước ta cũng đang thực hiện biện pháp này thông qua chính sách hỗ trợ lãi suất trong thời gian vừa qua.
Đối với ngân hàng:
Tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM, phần lớn nguồn vốn mà các NHTM huy động được đều được sử dụng cho hoạt động tín dụng. Hình thức tín dụng truyền thống của các NHTM là hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản. Nhưng hiện nay các NHTM đã thực hiện đa dạng hóa các hình thức tín dụng với nhiều loại hình tín dụng mới.
Hoạt động tín dụng cũng đem lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Bởi vậy, hoạt động tín dụng có vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của các NHTM.
Hoạt động tín dụng cũng là cơ sở quan trọng để NHTM phát triển các hoạt động khác. Trong lịch sử phát triển của ngành ngân hàng hoạt động tín dụng chính là hoạt động đầu tiên và cơ bản nhất của mỗi NHTM. Và từ hoạt động cơ bản đó NHTM mới phát triển các hoạt động khác như thanh toán, quản lý quỹ hay dịch vụ đại lý, tư vấn...
Đối với doanh nghiệp
Tín dụng ngân hàng còn góp phần vào tài trợ nguồn vốn sản xuất kinh doanh, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động của mình, ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, các doanh nghiệp đều cần đến một lựơng vốn vay để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường như ngày nay việc sử dụng vốn vay lại càng trở thành tất yếu. Để thực hiện mục tiêu mở rộng sản xuất ở từng doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh, yêu cầu về nguồn vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Bởi lẽ, đẩy mạnh tiến độ phát triển sản xuất không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có mà doanh nghiệp còn phải biết tận dụng các nguồn vốn khác trong xã hội. Từ đó, tín dụng ngân hàng với tư cách là nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển. Như vậy, tín dụng ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích lũy vốn cho nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng cũng góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp, tăng hiệu quả của dự án phương án. Để đảm bảo nguồn vốn vay được sử dụng có hiệu quả các NHTM thường tìm hiểu kĩ về các doanh nghiệp và đưa ra những nguyên tắc tín dụng. Vì vậy để vay vốn được từ các NHTM thì các doanh nghiệp buộc phải nâng cao uy tín và hiệu quả hoạt động của mình. Tương tự đối với các dự án, muốn vay vốn thực hiện dự án các doanh nghiệp cũng phải tìm hiểu thị trường, khai thác thông tin, định lượng hoạt động kinh doanh để đảm bảo hiệu quả của dự án.
Hiện nay trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn hoạt động trong mối quan hệ qua lại với nhau. Đặc biệt trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế thì các doanh nghiệp đó còn có quan hệ xuất nhập khẩu với các công ty nước ngoài. Với các dịch vụ như bảo lãnh, cho vay doanh nghiệp, tín dụng ngân hàng có thể giúp tăng cường các mối quan hệ này.
1.2.1.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Chiết khấu thương phiếu.
Trong nền kinh tế thị trường, các loại giấy tờ có giá được phát hành và lưu thông rộng rãi. Người nắm giữ những giấy tờ có giá này nếu cần tiền mặt mà những giấy tờ có giá này chưa đến hạn thì có thể mang giấy tờ đó đến ngân hàng chiết khấu. Đây được coi là một nghiệp vụ đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người kí tên trên thương phiếu. Điều 57 mục 2 Luật các tổ chức tín dụng quy định: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Người chủ sở hữu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác phải chuyển giao ngay mọi quyền, lợi ích hợp pháp phát sinh từ các giấy tờ đó cho tổ chức tín dụng.”
Như vậy về bản chất đây là hoạt động tín dụng ngắn hạn. Có thể nói chiết khấu là một hình thức cấp tín dụng theo đó các tổ chức tín dụng nhận các chứng từ có giá và trao cho khách hàng một số tiền bằng mệnh giá của chứng từ nhận chiết khấu trừ đi phần lợi nhuận và chi phí mà ngân hàng được hưởng. HÌnh thức này khác với cho vay ở chỗ: không cần tài sản thế chấp mà sử dụng ngay chứng từ nhận chiết khấu làm đảm bảo tín dụng, ngân hàng thu lãi trước khi phát tiền vay bằng cách khấu trừ vào mệnh giá, qui trình xem xét cấp tín dụng đơn giản và nhanh chóng hơn so với cho vay. Hiện nay các NHTM thường nhận chiết khấu hai loại chứng từ cơ bản: thương phiếu và chứng từ có giá khác như trái phiếu, kỳ phiếu…
Cho vay.
Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng quy định: cho vay là một hình thức của cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cho khách hàng vay một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Cho vay là một hình thức tín dụng lâu đời, nó đã phát triển với nhiều hình thức khác nhau.
Thấu chi: thấu chi là một nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Đây là hình thức tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán, tuy nhiên chúng chỉ được áp dụng với những khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và có kì thu nhập ngắn.
Cho vay trực tiếp từng lần: đây là hình thức cho vay của các NHTM đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên và không có đủ điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Theo hình thức này mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay, sau đó ngân hàng sẽ tiến hành phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu bảo đảm nếu cần. Và mỗi món vay loại này được quản lý tách biệt theo các hồ sơ khác nhau.
Cho vay theo hạn mức: đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng, hạn mức này có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì, đó chính là dư nợ tối đa tại mỗi thời điểm tính. Trong nghiệp vụ này các NHTM sẽ không xác định trước kì hạn nợ và thời hạn tín dụng. Khi khách hàng có thu nhập NHTM sẽ tiến hành thu nợ. Hình thức này tạo sự chủ động cho khách hàng trong việc quản lý ngân quỹ. Tuy nhiên việc không tách thành các khoản nợ cụ thể lên các NHTM cũng gặp khó khăn trong việc quản lý và kiểm soát hiệu quả sử dụng vốn trong từng lần vay.
Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên quá trình luân chuyển của hàng hóa. Trong quá trình hoạt động của mình các doanh nghiệp có thể gặp phải hiện tượng thiếu vốn khi mua hàng, khi đó, ngân hàng có thể cho doanh nghiệp vay để mua hàng và doanh nghiệp sẽ phải trả nợ khi bán được hàng. Theo phương thức này thì đầu năm hoặc quý doanh nghiệp sẽ phải làm đơn xin vay luân chuyển. Cũng theo phương thức này, mọi khoản thu từ bán hàng của doanh nghiệp đều được dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích sang tài khoản tiền gởi thanh toán của khách hàng. Có thể nhận thấy theo hình thức này, giá trị hàng hóa mua vào đều là đối tượng được ngân hàng cho vay và thu nhập từ bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng, đồng thời các khoản phải thu và hàng hóa trong kho trở thành vật bảo đảm cho khoản vay. Phương thức này thường được áp dụng với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì ngắn ngày.
Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng mà theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Các khoản cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn tài trợ cho các tài sản cố định và hàng lâu bền. Đây là hình thức cho vay rủi ro cao nhất trong các hình thức cho vay vì các khoản vay này thường được thế chấp bằng chính các loại hàng hóa mua trả góp, khả năng trả nợ lại phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay, nếu người này mất việc ốm đau, giảm thu nhập thì khả năng trả nợ cho ngân hàng cũng giảm. Chính vì lý do đó nên lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
Cho vay gián tiếp: đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Trong phương thức này ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian. Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên tham gia vay vốn ngân hàng. Và để bù đắp một phần chi phí của trung gian, ngân hàng trích một phần thu nhập để lại cho trung gian. Hình thức này thường được áp dụng với thị trường có nhiều khoản vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng.
Cho thuê tài sản.
Cho thuê là hình thức tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Hoạt động này được phân thành hai hình thức là cho thuê hoạt động (còn gọi là cho thuê vận hành) và cho thuê tài chính.
Theo điều 1 khoản 1 của nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 5 năm 2001 quy định: “Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận.” Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
Cho thuê vận hành là hình thức cho thuê tài sản theo đó Bên thuê sử dụng tài sản cho thuê của bên cho thuê trong một thời gian nhất định và sẽ trả lại tài sản đó cho bên cho thuê khi kết thúc thời hạn thuê tài sản. Bên cho thuê giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê và nhận tiền cho thuê theo hợp đồng cho thuê.
Bảo lãnh, tái bảo lãnh.
Theo quy chế bảo lãnh ngân hàng: bảo lãnh là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. Bảo lãnh thường có 3 bên: bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bảo lãnh. Bảo lãnh được chia thành nhiều hình thức khác nhau theo mục tiêu của bảo lãnh đó là bảo lãnh tham gia dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng , bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh hoàn trả vốn vay, bảo lãnh đảm bảo thanh toán.
Ta có thể thấy bản chất của bảo lãnh ngân hàng là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, qua đó khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới từ đó thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh của họ nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải bỏ tiền ngay khi kí kết hợp đồng bảo lãnh, chính vì thế, bảo lãnh không được quản lý trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng mà được quản lý trong phần tài sản ngoại bảng. Và khi khách hàng không thực hiện được cam kết, ngân hàng sẽ phải đứng ra chi trả cho bên thứ ba. Khi đó khoản tiền chi trả này sẽ được xếp vào loại tài sản xấu trong bảng cân đối kế toán và khoản chi trả này cúng là một phần cấu thành lên nợ quá hạn của ngân hàng. Qua đó ta có thể thấy bảo lãnh cũng chưa đựng các loại rủi ro như một khoản cho vay lên nó cúng đòi hỏi phải phân tích khách hàng như khi cho vay. Tuy nhiên khác với các khoản cho vay ngân hàng thu lãi từ lãi suất thì bảo lãnh ngân hàng thu phí của khách hàng. Phí bảo lãnh này được tính theo phần trăm của số tiền bảo lãnh. Ngoài ra ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng kí quỹ.
1.2.2. Rủi ro tín dụng ngân hàng
1.2.2.1. Khái niệm rủi ro và quản lý rủi ro:
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta vẫn thường gặp “sự rủi ro”. Đó là những gì không tốt, ngoài sự mong đợi, có thể xảy ra đối với chúng ta trong mọi mặt của đời sống xã hội: vật chất, sức khoẻ, tinh thần và bao gồm cả tư duy, như bị mất cắp tiền, tai nạn giao thông, thất vọng, buồn chán do không đạt được mục đích nào đó…
Như vậy, “rủi ro” là một phần của cuộc sống hàng ngày, nó diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực cuộc sống; là những nguy cơ tiềm ẩn có khả năng xảy ra và có thể sẽ mang đến những tổn hại về vật chất, tinh thần hoặc các yếu tố khác trong các lĩnh vực của đời sống xã hội...
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù có tính song hành. Khi tiến hành mọi hoạt động kinh doanh chúng ta luôn phải đứng trước sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận, lợi nhuận càng cao rủi ro càng lớn, bất cứ một hoạt động đem lại lợi nhuận nào đều hàm chứa rủi ro đi kèm.
Khái niệm rủi ro thường bao gồm 02 nhân tố: Khả năng xảy ra rủi ro (tần số khả năng xẩy ra rủi ro nhiều hay ít) và hậu quả nếu rủi ro xảy ra (sự thiệt hại do rủi ro gây ra nhiều hay ít)
Trong cuộc sống cũng như trong công việc, chúng ta luôn tìm cách dự đoán trước những rủi ro có thể xảy ra và lựa chọn cách xử lý đối với những rủi ro này bằng cách: ngăn chặn không cho rủi ro xảy ra, giảm thiểu hậu quả của rủi ro, né tránh rủi ro hoặc chấp nhận để cho rủi ro xảy ra. Đây là phản ứng mang tính tự nhiên được đưa ra nhằm bảo vệ chúng ta - đôi khi bảo vệ sự sống còn - trước những thiệt hại có thể xảy ra, hay còn gọi là quản lý rủi ro. Tất cả chúng ta đều có kỹ năng quản lý rủi ro, mặc dù có thể đôi khi chúng ta không nhận ra điều này. Ví dụ: vào mùa mưa, đi làm phải đem áo mưa; để không bị kẹt xe phải tránh giờ cao điểm hoặc chọn đường đi khác, v.v…..
Như vậy, Quản lý rủi ro là việc dự đoán về những khả năng và mức độ hậu quả của sự việc có thể xảy ra, qua đó áp dụng những biện pháp để làm giảm độ không an toàn và thay đổi cách xem xét và hành động đối với sự việc đó.
Dưới góc độ quản lý, quản lý rủi ro là một phương pháp để phát hiện ra những yếu tố gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của công tác quản lý từ đó thay đổi cách xem xét và hành động nhằm loại trừ hoặc làm giảm sự ảnh hưởng của những yếu tố trên.
Như nội dung đã đề cập phần trên, khi xác định được rủi ro, chúng ta thường lựa chọn các biện pháp xử lý nhằm ngăn chặn, làm triệt tiêu các rủi ro, né tránh hoặc làm giảm các thiệt hại do rủi ro gây ra. Thông thường có các hình thức xử lý rủi ro chủ yếu như sau:
- Ngăn chặn, làm triệt tiêu nguyên nhân, điều kiện nảy sinh rủi ro;
- Làm giảm tác hại của rủi ro;
- Né tránh đối với những rủi ro mà nếu ta áp dụng biện pháp để ngăn chặn hiệu quả sẽ thấp vì chi phí cho việc ngăn chặn này sẽ lớ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 110872.doc