Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN, lại nằm trong vùng kinh tế CHÂU Á THÁI BÌNH DƯƠNG một trong những khu vực phát triển kinh tế cao trên thế giới .
Việt Nam đã và đang cố gắng từng bước để bắt kịp với sự phát triển của khu vực cũng như trên Thế Giới. Tuy nhiên quá trình đó mới toàn diện nền kinh tế đất nước đòi hỏi phải có sự đổi mới về hoạt động tín dụng Ngân Hàng cho phù hợp với đòi hỏi của nền kimh tế thị trường. Mục tiêu của các NHTM là lợi nhuận tuy vậy nó không hoạt động thuần tuý là đen lại lơi nhuận cho Ngân Hàng mà còn hoạt động với vai trò quan trọng là tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển .
Hoạt động tín dụng của Ngân Hàng mà biểu hiện cụ thể của nó là công tác huy động vốn và sử dụng vốn đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế bởi nó có mối quan hệ mật thiết với Viêc huy động vốn không chỉ làm cho mọi hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng mà nó còn đóng vai trò thúc đẩy nền kinh tế phát triển qua việc sử dụng vốn đã huy động được.
Do đó viêc phân tích đánh giá rủi ro trong hoạt động tín dụng Ngân Hàng là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay, qoa đó tìm ra những tồn tại để khắc phục những tồn tại đó . Làm cho hoạt động của Ngân Hàng có hiệu quả hơn, thúc đẩy sự phát triển của tất cả nền kinh tế . Từ nhận thức trên , em chọn đề tài nghiên cứu với tiêu đề : "Hoạt Động Tín Dụng trong các Ngân Hàng Thương Mại - Nhìn từ góc đọ rủi ro Tín Dụng - Thực trạng và giải pháp ở Việt Nam hiện nay".
21 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1124 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Hoạt động tín dụng trong các ngân hàng thương mại - Nhìn từ góc đọ rủi ro tín dụng - thực trạng và giải pháp ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN, lại nằm trong vùng kinh tế châu á thái bình dương một trong những khu vực phát triển kinh tế cao trên thế giới .
Việt Nam đã và đang cố gắng từng bước để bắt kịp với sự phát triển của khu vực cũng như trên Thế Giới. Tuy nhiên quá trình đó mới toàn diện nền kinh tế đất nước đòi hỏi phải có sự đổi mới về hoạt động tín dụng Ngân Hàng cho phù hợp với đòi hỏi của nền kimh tế thị trường. Mục tiêu của các NHTM là lợi nhuận tuy vậy nó không hoạt động thuần tuý là đen lại lơi nhuận cho Ngân Hàng mà còn hoạt động với vai trò quan trọng là tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển .
Hoạt động tín dụng của Ngân Hàng mà biểu hiện cụ thể của nó là công tác huy động vốn và sử dụng vốn đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế bởi nó có mối quan hệ mật thiết với Viêc huy động vốn không chỉ làm cho mọi hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng mà nó còn đóng vai trò thúc đẩy nền kinh tế phát triển qua việc sử dụng vốn đã huy động được.
Do đó viêc phân tích đánh giá rủi ro trong hoạt động tín dụng Ngân Hàng là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay, qoa đó tìm ra những tồn tại để khắc phục những tồn tại đó . Làm cho hoạt động của Ngân Hàng có hiệu quả hơn, thúc đẩy sự phát triển của tất cả nền kinh tế . Từ nhận thức trên , em chọn đề tài nghiên cứu với tiêu đề : "Hoạt Động Tín Dụng trong các Ngân Hàng Thương Mại - Nhìn từ góc đọ rủi ro Tín Dụng - Thực trạng và giải pháp ở Việt Nam hiện nay".
Phần I
Ngân hàng thương mại và hoạt động của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường
1. Lịch sử hình thành và phát triển của tín dụng ngân hàng
1.1Tính tất yếu khách quan của tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, quan hệ tín dụng thực sự là công cụ quan hệ để thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để cân đối nhu cầu đầu tư, quan hệ tín dụng là sự vay mượn lẫn nhau giữa người đi va và người cho vay, người đi vay có hoàn trả cả gốc lẫn lãi sau một thời gian nhất định. Xét dưới góc độ kinh tế tín dụng là phạm trù phản ánh quan hệ kinh tế trong mỗi cá nhân hay tổ chức những quyền sử dụng một lượng giá trị hay hiện vật trong một cá nhân hay tổ chức khác. Những điều kiện đặt ra trong quan hệ tín dụng này là ràng buộc về thời gian hoàn trả (cả gốc lẫn lãi) và ràng buộc về lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Quá trình hình thành và phát triển của tín dụng đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Trong thời kỳ công xã nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất với trình độ thấp, với những công cụ sản xuất thô sơ, con người phụ thuộc thiên nhiên, trình độ sản xuất chưa phát triển thì sản phẩm của con người làm ra chưa đủ tích luỹ, quan hệ sản xuất vẫn dựa trên cơ sở cộng đồng dựa vào nhau để cùng tồn tại nên quan hệ tư hữu vẫn chưa có cơ sở để ra đời. Trong điều kiện đó, quan hệ mua bán trao đổi, vay mượn vẫn chưa xuất hiện.
Lực lượng sản xuất phát triển là quá trình phân công lao động xuất hiện. Các sản phẩm do con người làm ra ngày càng nhiều không những đủ sử dụng và còn để tích luỹ và dự trữ. Chế độ tư hữu dần dần xuất hiện, có sự phân biệt giai cấp giữa người giầu - người nghèo trong xã hội tạo cơ sở cho việc hình thành các giai cấp khác. sự phân công lao động xã hội cùng với chế độ sở hữu khác về lực lượng sản xuất ra đời và phát triển quan hệ mua bán vay mượn cùng lúc hình thành. Quan hệ vay mượn chỉ là hình thức sơ khai của quan hệ tín dụng
Sự tồn tại và phát triển của quan hệ tín dụng do các nguyên nhân chủ yếu sau:
Do đặc điểm chu chuyển vốn trong sản xuất, kinh doanh: sự vận động của vốn tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu nảy sinh hiện tượng trong cùng một thơì gian, cùng một lúc có những đơn vị kinh tế thừa vốn trong sản xuất nhưng cũng có những đơn vị xuất hiện vì nhu cầu vốn tiền tệ để đảm bảo quá trình sản xuất được bình thường. Mâu thuẫn đó xảy ra thường xuyên và xen kẽ lẫn nhau, do đó nó phải được giải quyết bằng những phương pháp nhất định: phù hợp với quá trình tuần hoàn đó. Cần phải tiến hành đồng thời việc tập trung và phân phối lại các nguồn vốn tạm thời nhà rỗi trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc + lãi, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được diễn ra liên tục và tiết kiệm được vốn.
Hơn nữa, nếu xét trong phạm vi toàn xã hội, quan hệ thu chi tiền tệ của cơ quan, tổ chức xuất hiện, dân cư thường xuyên tạo ra những lượng tiền tạm thời nhàn rỗi và lượng tiền này chứa đựng khả năng tiềm tàng dẫn đến nảy sinh quan hệ tín dụng.
Do chế độ sở hữu về vốn: trong nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều thành phần kinh tế, do đó tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác về vốn nhưng chúng lại đòi hỏi có sự chuyển hoá lẫn nhau trong nội bộ của hình thức sở hữu. Để chuyển hoá lượng vốn giữa các hình thức khác mà không xâm phạm đến quyền lợi của các chủ sở hữu thì nó phải thông qua quan hệ tín dụng có vay có trả. Chỉ nhờ có quan hệ tín dụng mà quyền lợi của các bên đại diện cho các hình thức sở hữu khác được đảm bảo một cách chặt chẽ.
Do yêu cầu của chế độ hạch toán kinh tế: các đơn vị kinh doanh phải chủ động về vốn cố định và vốn lưu động, chủ động xác định nhu cầu vốn của mình để đảm bảo nguyên tắc lấy thu bù chi và có lãi. Bằng cách đi vay và cho vay thông qua quan hệ tín dụng, các đơn vị kinh doanh cần giải quyết tối đa của việc sử dụng vốn.
1.2.Vai trò và sự vận động của tín dụng trong nền kinh tế thị trường
Sự vận động của tín dụng trong nền kinh tế thị trường
Tín dụng là một mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối quan hệ với nhau thông qua vận động của vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hay hàng hoá. Quá trình vận động đó được thể hiện thông qua các giai đoạn sau:
Thứ I: ***với tín dụng dưới hình thức cho vay. ở giai đoạn này vốn tiền tệ được đi từ người cho vay sang người đi vay. như vậy, khi cho vay giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay. Đây là đặc điểm khác với việc mua bán hàng hoá thông thường.
Thứ II: Sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất. Sau khi người được gía trị vốn tín dụng, người đi vay được quyền sử dụng giá trị đs để làm một mục đích nhất định, ở giai đoạn này, vốn vay được sử dụng trực tiếp để mua hàng hoá (nếu vay bằng tiền) hoặc được sử dụng trực tiếp (nếu vay bằng hàng hoá) để thoả mãn nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của người đi vay, tuy nhiên người đi vay không có quyền sở hữu về giá trị đó mà chỉ sử dụng tạm thời trong một thơì gian nhất định.
Thứ III: sự hoàn trả tín dụng. Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Sau khi vốn tín dụng đã hoàn từ một chu kỳ sản xuất để trở về hình thái tiền tệ thì vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả cho người vay. Điều đó được Mác khẳng định “ Tiền chẳng qua chì rời khỏi tay người sở hữu trong một thời gian và chẳng qua chỉ tạm thời chuyển từ tay người sử hữu sang tay nhà tư bản hoạt động cho nên tiền không phải là bỏ ra để thanh toán hay không phải ta tự đem bán đi để cho vay. Tiền chỉ đem nhượng lại với một điều kiện là nó sẽ quay về điểm xuất phát sau một kỳ hạn nhất định” (Các Mác, Tư bản, quyển III tập II. NXB Sự thật Hà Nội năm 1978).
Như vậy sự hoàn trả của tín dụng là quá trình quay trở về của giá trị. Hình thái vật chất của sự hoàn trả là sự vận động dưới hình thái hàng hoá về giá trị. Tuy nhiên sự vận động đó không phải với tư cáh là phương tiện lưu thông mà với tư cách là một lượng giá trị được vận động. Chính vì vậy, sự hoàn trả luôn được bảo toàn về mặt giá trị và có phần tăng lên dưới hình thức lợi tức. Ngay trong điều kiện về lượng, sự hoàn trả về mặt giá trị cũng được tôn trọng thông qua cơ chế điều tiết bằng ls.
Điều đó cũng được Mác nêu: “Đem tiền cho vay với tư cách là một vật có đặc điểm là sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó mà vẫn giữ nguyên vẹn giá trị của nó đồng thời lớn thêm trong quá trình vận động ( Các Mác, TB, quyển III, tập II, NXB Sự Thật Hà Nội 1978).
Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế hàng hoá
Tín dụng là công cụ khai thác quan trọng và động viên có hiệu qả những lượng tiền tạm thời nhàn rỗi phù hợp với quá trình vận động vốn tiền tệ trong xã hội. Tín dụng có nhiều hình thức khác, trong đó chỉ nghiên cứu vai trò của tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng góp phần quan trọng điều tiết và ổn định sức mua của đồng tiền. Muốn vậy, nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của ngân hàng là tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ.
Ngân hàng là cơ quan quản lý tiền tệ của nền kinh tế. Nó có thể thông qua các nghiệp vụ tín dụng đó điều hoà lưu thông tiền tệ trong cả nước. Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng khi cho vay vốn tức là đẩy tiền vào lưu thông cho phù hợp với nhu cầu sản xuất lao động và **, khi thu nợ và huy động vốn nhàn rỗi, ngân hàng đã rút bớt một lượng tiền tệ khỏi lưu thông
Tín dụng ngân hàng kiểm soát bằng đồng tiền các hoạt động của nền kinh tế trong bình diện toàn xã hội cũng như đối với từng đơn vị kinh doanh. Tín dụng ngân hàng kiểm soát bằng đồng tiền qua tín dụng để xác định hướng đầu tư của mình và có biện pháp xử lý kịp thời những biến động trong nền kinh tế, kiểm soát được quá trình sản xuất và phương pháp sử dụng.
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy các đơn vị hạch toán kinh tế theo đúng các nguyên tắc chế độ. Bất cứ đơn vị sản xuất kinh doanh nào, để đảm bảo cho sự tồn tại của mình đều phải tiến hành hạch toán kinh tế để tìm ra giải pháp cho sản phẩm cuả mình được thị trường chấp nhận và kinh doanh có lãi.
2. Hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Theo luật định trong luật ngân hàng “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ và hoạt động chủ yếu và thường xuyên là người trung gian của khách hàng với khả năng hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”
Hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại nước ta bao gồm ngân hàng tưhơng mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phẩn, ngân hàng liên doanh với nước ngoài và ngân hàng nước ngoài.
*Chức năng và đặc thù cơ bản của ngân hàng thương mại
Chức năng của ngân hàng thương mại
Chức năng trung gian tài chính:
Huy động vốn tạm thời nhàn rỗi phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế xã hội. Với chức năng này, nó có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, phát triển thêm việc làm, cải thiện mức sống dân cư, ổn định chỉ tiêu của Chính phủ và góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá và vòng quay của đồng tiền thúc đẩy quá trình phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá, gián tiếp điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đối nội, kìm chế lạm phát. mặt khác, nhờ chức năng này, lưu thông tài chính huy động và cho vay mà ngân hàng có được nguồn thu để bù đắp chi phí trả lãi tiền gửi, chi phí kinh doanh và có lãi. Điều này quyết định đến sự phát triển và sự lớn mạnh không ngừng của chính bản thân các ngân hàng thương mại.
Chức năng trung gian thanh toán.
Hàng ngày nền kinh tế xuất hiện hàng loạt các quan hệ giao dịch với khối lượng thanh toán rất lớn. Nếu tài khoản thanh toán đều dùng tiền mặt trực tiếp sẽ dẫn đến các chi phí thanh toán rất tốn kém như in ấn, vận chuyển, đếm, người bảo quản tiền...
Nhưng với sự ra đời của ngân hàng thương mại với chức năng thanh toán, thì các khoản giao dịch trên được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng với hình tứhc thanh toán thích hợp, thủ tục đơn giản và kinh tế ngày càng hiện đại như uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, séc, thư tín dụng.. từ đó làm cho nhu cầu chi trả tiền mặt ngày càng nhanh, tiết kiệm được nhiều thời gian, chi phí cho xã hội. Với chức năng này, ngân hàng đã góp phần thực hiện nhanh chóng các khoản thanh toán, làm nhanh tốc độ luân chuyển vốn, giảm số lượng tiền mặt in lưu thông, tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt. Đồng thời chức năng này huy động tối đa nguồn vốn của cá nhân, doanh nghiệp để dành cho đầu tư và phát triển. Qua đó, các ngân hàng thương mại giám sát lưu thông luật tài chính, kiểm soát được luồng lưu thông tiền tệ
Ngân hàng thương mại là cỗ máy tạo tiền của nền kinh tế: quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại dựa trên cơ số tiền gửi xã hội. Ngân hàng cho vay thông qua cơ chế thanh toán chuyển khoản giữa các ngân hàng. Sức tạo tiền của ngân hàng thương mại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dư thừa, tỷ lệ giữa lượng tiền lưu thông ở hệ thống ngân hàng và thế giới của xã hội phát triển trong hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh, do đó nó có các hoạt động đầu tư và kinh doanh để kiếm lời, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Thông qua hệ thống ngân hàng thương mại có thể có các biện pháp can thiệp để kiểm soát sự phát triển bền vững của thị trường tài chính là nơi để Chính phủ vận hành các chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng.
2.2 Đặc thù cơ bản của Ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính và là một tổ chức kinh doanh tiền tệ đIển hình do đó nó có những đặc thù sau:
Hoạt động của Ngân hàng thương mại gắn liền với quá trình vận động của thị trường thông qua quá trình huy động, tập trung và phương pháp vồn dựa trên nguyên tắc cơ bản của tín dụng là hoàn trả cả vốn lẫn lãI sau sử dụng được thoả thuận trước. Chu kỳ kinh doanh của Ngân hàng thương mạI bắt đầu từ việc huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế bằng nhiều hình thức khác nhau như người trung gian đI vay và phát hành chừng khoán. Ngân hàng thương mại sau đó dùng số này để tiến hành cho vay và đầu tư. cuối chu kỳ, ngân hàng thu hồi các khoản cho vay và thực hiện nghĩa vụ chi trả của mình đối với nguwofi gửi tiền và người đI vay.
+ Ngân hàng thương mại kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn huy động từ các khách hàng của mình. Nguồn vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn. Thông thường vốn tự có chiếm 5-10% tổng nguồn vốn tự có của Ngân hàng thương mại* chỉ đủ cho sự tự lập của ngân hàng theo luật định và tạo cơ sở vật chất ban đầu cho hoạt động của nó. Tuy nhiên uy tín và chất lượng ban đầu thì hoạt động của nó luôn đặt trên cơ sở niềm tin và môI quan hệ lâu dài của ngân hàng và khách hàng. đIũu này giảI thích tạI sao những hoạt động thường ngày, bên cạnh việc phảI nổ lực tìm nguồn để đáp ứng yêu cầu về tín dụng, ngân hàng luôn phảI cảI tiến nghiệp vụ chi trả cho các nhu cầu rút vốn thu nợ của khách hàng nghĩa đông thành khoản
+ Hoạt động của Ngân hàng chứa đựng rta nhiều rủi ro vì Ngân hàng là tổ chức trung gian trong quá trình sử dụng vốn.
+ Hoạt động của Ngân hàng có liên quan đến nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế và liên quan tới lợi ích của đông đảo cá nhân cũng như tổ chức trong xã hội. Vì hầu hết mọi chủ thể trong nền kinh tế đều có các nhu cầu về quản lý tài sản, thanh toán, cho vay và đI vay. Rõ ràng các nhu cầu này chỉ có thể được đáp ứng tốt nhất thông qua dịch vụ của các trung gian tàI chính đồng thời là Ngân hàng thương mạI, chất lượng các dịch vụ mà ngân hàng vay cấp ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hiệu quả hoạt ddộng của các chủ thể trong nền kinh tế. Do đó nó có thể thúc đẩieepshueinh tế phát triển hay trì truệ.
+ Ngân hàng thương mạI là loạI doanh nghiệp chịu sự quản lý chặt chẽ nhất của chính phủ do nó đối mật với nhiều rủi ro và liên qan đến các lợi ích của dân cư và vó là cổ má tạo tiền của nền kinh tế….
Qua việc phân tích tín dụng ngân hàng và các Ngân hàng thương mại như trên, ta nhận thấy trong quá trình hoạt động của mình các Ngân hàng thương mại thường gặp phảI rất nhiều rủi ro.
Phần II
Thực trạng và các nguyên nhân về rủi ro tín dụng trong các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
I. Thực trạng: Rủi ro tín dụng ở các Ngân hàng thương mại hiện nay
Vô số các rủi ro khác nhau khi cho vay, xuất phát từ nhiều yếu tố và có thể dẫn đến việc chi trả nợ khi đến hạn. các thiệt hại đôi khi nảy sinh từ nguyên nhân thiên tai bão lụt, hạn hán, hoả hoạn và động đất. Nhà nước thay đổi về nhu cầu người tiêu dùng hoặc về kỷ thuật của một ngành công nghiệp có thể làm sụp đỗ cả cơ đồ của một hãng kinh doanh đặt một ngườii đi vay nào đó từng làm ăn có lãi vào thée thua lỗ. Một cuộc đình công kéo dài, việc giảm giá để cạnh tranh, hoặc việc mất một người quản lý tài giỏi có thể làm thiệt hại nghiêm trọng đến khả ăng chi tiền vay của người đi vay. Sự hưng thịnh hay suy thoái của chu kỳ kinh doanh ảnh hưởng đến lợi nhuận của nhiều người đi vay ngân hàng và gây nên niềm vui hay nổi buồn của người kinh doanh cũng như ngừời tiêu dùng. Một số tủi ro nảy sinh từ các yếu tố riêng rẽ khó giải thích. Để chấp nhận có cho vay hay không, giám đốc ngân hàng phải cố gắng ước lượng rủi ro không hoàn trả.
Trên thực tế, mức độ rủi ro ở mỗi Ngân hàng thương mại khác nhau, tuy nhiên thuộc vào rất nhiều yếu tố. Nếu nhìn về hoạt động tín dụng ngân hàng trong 10 năm đổi mới vừa qua có thể chia thành hai giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Từ năm 1987 đến tháng 10/1990 trước khi pháp lệnh 2 ngân hàng có hiệu lực, giai đoạn naỳ tín dụng được mở ra ào ạt, cơ chế cho vay lục bây giờ cũng dễ dãi nhất không cần tài sản thế chấp chỉ cần đơn xin vay và nôị dung kinh tế khoản vay là có thể nhânj vốn vay. Cuối cùng thì hậu quản của nó cũng đến và năm 1989 đầu năm 1990, hàng loạt các hợp tác tín dụng, ngân hàng cổ phần đổ vỡ, hoạt động tín dụng lại phải được chấn chỉnh bằng nhiều đợt tổng thanh tra, kiểm tra, xử lý nhiều của gia đình này để tiếp tục phát triển.
+ Giai đoạn2: Từ tháng 10/1990 đến nay, giai đoạn thiện hai pháp lệnh ngân hàng, các cơ chế chính sách cho hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng đã được hình thành khá đồng bộ ở khung pháp lý cao hơn hoạt động tín dụng Ngân hàng có bước phát triển nhảu vọt đóng góp từ 55-65% trong tổng đầu tư xã hội, góp phần đáng kể vào nhịp độ tăng trưởng cao của nền kinh tế trong giai đoạn này (bình quân 8,2%/năm). xét về cơ chế tín dụng cũng là thời kỳ thường xuyên được cập nhật, bổ sung, chỉnh sửa nhằm đáp ứng ngày một tốt hơn cho sự phát triển của thị trường tiền tệ, cũng chính là đáp ứng yêu cầu về vốn cao cho tăng trưởng kinh tế. Liên tục trong các năm 1990 -1991 và 1994-1996, hàng loạt các quy chế nghị định quy định, thể lệ tín dụng ra đời và liên tục thay đổi.
Tuy nhiên, cho đến năm 1997 thì vấn đề hoạt động tín dụng lai này dinh nhiều vụ đỗ bể dư nợ đưa đến nhiều khoản nợ quá hạn, một số Ngân hàng thương mại lâm vào tình trạng khó khăn và một đợt tổng chấn chỉnh cứng cổ sắp xếp lại các Ngân hàng thương mại lại được đặt ra khẩn trương hơn. và đến một vài năm trở lại đây, hoạt động tín dụng Ngân hàng đã có bước phát triển mạnh mẽ hơn. nhất là kể từ khi có sự xuất hiện của trung tâm giao dịch chứng khoán Việt Nam, thì hoạt động tín dụng lịa đã có một đỗi thủ cạnh tranh. Do đó, để tồn tại và phát triển hơn nữa các Ngân hàng thương mại
đã đề ta những bước đi kã chắc chắn cho mình.
Nếu xét về mặt thời gian, việc phân chia thành hai giai đoạn như trên đã phần nào mô tả một cánh khái quát diễn biến hoạt động tín dụng trong suốt thời gian qua. Còn nếu chi tiết hơn, đi vào từng khía cạnh nhỏ một thì ta có thể khái quát thực trạng rủi ro tín dụng theo một vài tiêu điểm sau:
Nhìn từ góc độ của nhà doanh nghiệp:
Có thể nói có nhiêù doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quảm tình thình tài chính khả quan, có định hướng hoạt động chắc chắn, toạ sự tin tưởng cho các nhà đầu tư và cũng là mảnh đất tốt để phát triển kinh doanh tín dụng của Ngân hàng. Nhà nước dư nợ này là các tổng công ty được thành lập theo quyết định 90,91/TTG của thủ tướng chính phủ và thuộc các ngành kinh tế mủi nhọn. Tuy nhiên, quan hệ tín dụng củat các doanh nghiệp trên với các Ngân hàng thương mại còn quá nhỏ. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tính đến hết năm 1997, tổng dư nợ của các doanh nghiệp Nhà nước thuộc tổng công ty mới chỉ chiếm 25% tổng dư nợ của các Ngân hàng thương mại quốc doanh đối với nền kinh tế. Trong khi các doanh nghiệp này lại chủ yếu huy động vốn từ nước ngoài (liên doanh, liên kết, vay vốn Ngân hàng nước ngoài, vay dưới hình thức mua hàng trả chậm ...) Bên cạnh đó, có không ít các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong tình trạng vốn do Nhà nước cấp quá nhỏ, trong khi nhiệm vụ được giao quá lớn. Do vậy, các doanh nghiệp này hoạt động chủ yếu dựa vào vốn vay Ngân hàng, vốn tín dụng Ngân hàng chiếm tới 85-90% vốn lưu động của doanh nghiệp. Vi vậy, giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp này khá cao, năng lực tài chính yếu kém, sức cạnh tranh trên thị trường thấp. Cũng có nhiều doanh nghiệp không xác định đuợc hướng phát triển không lường hết được sự biến động của thị trường nên đã xảy ra hiện tượng ế thừa, ứ đọng sản phẩm (như sản xuất bia, xi măng lò đứng), vốn luân chuyển chậm, lỗ trong kinh doanh (tỷ lệ doanh nghiệp làm ăn thua lỗ ngày càng tăng: năm 1996 đã tăng 35%), tác động xấu đến khả năng trả nợ vốn vay của Ngân hàng nói riêng và làm cho sức hấp thụ vốn chung của nền kinh tế trở nên hạn chế.
Còn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh một trong những nhân tố hết sức quan trọng trong việc tạo và tỷ lệ GDP đáng kể và tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xh. Theo các kết quả điều tra mới đây, khu vực này đã tạo ra khoảng 35% GDP hàng năm và 33/34% lực lượng lao động trong cả nước. Do đó Nhà nước đã bbcó những chính sách ưu đãi, hỗ trợ vào ngành nj trong những năm vừa qua đã tích cực thực hiện những chính sách đó. Các con số dư nợ cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng hàng nưm là 20% và tới tháng 6/1998, tổng dư nợ cho vay các doanh nghiệp chiếm 35% (45000tỷ đồng) tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đã nói lên điều đó. Song sự phát triển đó chưa tương xứng với tiền năng, vị trí và vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế nước ta. Việc chính sách của Nhà nước chưa hướng các nhà đầu tư bỏ tiền dầu tư mang lại lợi ích cho họ và cho nền kinh tế, trình độ quản lý và trang thiết bị còn lạc hậu, vốn nhỏ; các chính sách chưa thoả đáng của Nhà nước trong mối quan hệ tín dụng của các Ngân hàng và các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tạo ra những hạn chế nhất định cho hoạt động tín dụng. Bên cạnh đó, sự ra đời ồ ạt của hàng loạt các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn nhưng chưa hội đủ điều kiện (đặc biệt là vốn tự có) nên đã dẫn đến hoạt động kém hiệu quả, mất khả năng trả nợ Ngân hàng. Theo điều tra của bộ tài chính, có tới 40% doanh nghiệp ngoái quốc doanh làm ăn thua lỗ và đang có khoảng 3% số doanh nghiệp không có khả năng trả nợ. đặc biệt có một số doanh nghiệp có biểu hiện lừa dảo, chụp giật trong quan hệ vay mượn.
Có các nguồn hổ trợ bắc cầu vay ngắn hạn đẻ đầu tư trung dài hạn, không có các nguồn hỗ trợ bắc cầu nên khi đén hạn không trả được nợ làm cho nợ quá hạn gia tăng. Hoăc một số doanh nghiệp dùng vốn sai mục đích (đầu tư vào kinh doanh bất động sản) nên khi giá bất động sản giảm sút đã không thể trả nợ được Ngân hàng, phát sinh vấn đề rủi ro tín dụng.
Một thực tế đáng tồn tại lâu nay là tình trạng các doanh nghiệp vày vốn luôn đối phó với Ngân hàng thông qua việc cung cấp số liệu không trung thực, mặc dù những số liệunày đều đã được các cơ quan có chức năng kiểm tra chế độ kế toán, thống kê đã được ban hành nhưng phần lớn các doanh nghiệp đều thực hiện không nghiêm túc. điều này gây rất nhiều khó khăn cho Ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình hoạt động kinh doanh, cũng như việc quản lý vốn vay của đơn vị, để qua đó có thể đưa ra được những quyết định đầu tư đúng đắn có tác dụng hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển sx kinh doanh, nhằm thu hồi vốn cho Ngân hàng. Nhiều khi các Ngân hàng thương mại có những quyết định đầu tư không căn cứ vào số liệu báo cáo củat đơn vị mà thường dựa trên nhiều nguồn thông tin phong phú khác, có khi là dựa vào những càm nhận trực quan của mình, điều này nếu kéo dài sẽ rất nguy hiểm, có thể gây ra nhứng tổn thất tín dụng không lướng hêt các doanh nghiệp hiện nay chưa có đủ năng lực và kinh nghiệm để cạnh tranh trên thương trường, thường thua thiệt trong kinh doanh. Hơn nữa, đất nước đang trên đà chuyển đổi nền kinh tế, do đó chưa có được những quy hoạch cụ thể, ổn định lâu dài ở tầm vĩ mô, nên đã gây không ít khó khăn cho dnd trong việc đầu tư sản xuất. Nhiều dây truyền sản xuất lắp đặt xong thiết bị, khi bước ra thì ấn phẩn không tiêu thụ được do Nhà nước có chủ trương cấn hoặc hạn chế. Một số mặt hàng do không có quy hoạch tổng thể và sự chỉ đạo thống nhất nên có quá nhiều doanh nghiệp đầu tư vốn nhưng sản phẩm lại không tiêu thụ được do đã bảo hoà hoặc lợ nhuận thu về không được như khi xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật, hoặc không có đủ nguyên liệu đầu vào cho sản xuất điều này gây ra nhiều khó khăn cho Ngân hàng trong việc thu hồi nợ vì phần lớn vốn đầu tư cho doanh nghiệp là vốn vay của Ngân hàng.
Nhìn từ phía Ngân hàng:
Hoạt động kinh doanh thị trường của Ngân hàng nói chung và của tín dụng Ngân hàng nói riêng ảnh hưởng khồng nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Rủi ro tín dụng xảy ra nhìn từ phía Ngân hàng trước hết phải nói đến đó là chất lượng tín dụng. Trong hai năm trở lại đây, vấn đề chất lượng tín dụng có nhiều điểm đáng quan tâm, nợ quá hạn ngày một tăng. Tình hình đó do nhiều nhân tố tác động; về mặt chủ quan: đó là một số cán bộ Ngân hàng yếu kém về phẩm chất, thiếu trách nhiệm và bất cập trình độ nên đã vi phạm quy trình cho vay (thẩm định món vay không đầy đủ, cho vay không đúng đối tượng, cho vay
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72531.doc