Đề tài Hoạt động hạch toán kế toán các chế độ bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội quận Hai Bà Trưng

Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời từ rất sớm và đến nay đã được thực hiện ở hầu hết tất cả các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn coi chính sách BHXH là một chính sách lớn, quan trọng nhằm không ngừng nâng cao những điều kiện sống, lao động và luôn tạo sự an toàn trong cuộc sống cho nhân dân. Ngày nay, khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì hoàn thiện và phát triển hệ thống BHXH là yêu cầu tất yếu của quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam cũng như ở các nước trên thế giới.

Cùng với sự phát triển của hệ thống BHXH, đòi hỏi hệ thống kế toán BHXH cũng phải không ngừng hoàn thiện và phát triển. Mặc dù hiện nay, hệ thống kế toán BHXH ở nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, đáp ứng được yêu cầu quản lý ngày càng cao của hệ thống BHXH Việt Nam. Tuy nhiên, qua quá trình hoạt động nó vẵn còn bộc lộ một số hạn chế cần phải có biện pháp khắc phục để hệ thống kế toán BHXH Việt Nam không những phù hợp với sự phát triển của hệ thống BHXH ở nước ta hiện nay, mà còn có thể hoàn nhập với hệ thống kế toán ở các nước phát triển trên thế giới.

Do đó, em nhận thấy việc nghiên cứu và hoàn thiện hoạt động kế toán BHXH ở nước ta hiện nay là hết sức cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống BHXH Việt Nam. Là một sinh viên chuyên ngành Bảo hiểm, sau một thời gian học tập ở trường; tiếp cận thực tế tại BHXH quận Hai Bà Trưng được sự chỉ bảo tận tình của cán bộ BHXH Quận; và sự hướng dẫn tận tình cô giáo Th.s Tô Thiên Hương, em đã mạnh dạn chọn đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp là: "Hoạt động hạch toán kế toán các chế độ BHXH tại BHXH quận Hai Bà Trưng".

Kết cấu của đề tài gồm 3 chương:

Chương I: Khái quát chung về BHXH và kế toán BHXH.

 

Chương II: Thực trạng hoạt động hạch toán kế toán các chế độ BHXH tại BHXH quận Hai Bà Trưng.

Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động hạch toán kế toán các chế độ BHXH tại quận Hai Bà Trưng.

 

doc112 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1046 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Hoạt động hạch toán kế toán các chế độ bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội quận Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời từ rất sớm và đến nay đã được thực hiện ở hầu hết tất cả các nước trên thế giới. ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn coi chính sách BHXH là một chính sách lớn, quan trọng nhằm không ngừng nâng cao những điều kiện sống, lao động và luôn tạo sự an toàn trong cuộc sống cho nhân dân. Ngày nay, khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì hoàn thiện và phát triển hệ thống BHXH là yêu cầu tất yếu của quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam cũng như ở các nước trên thế giới. Cùng với sự phát triển của hệ thống BHXH, đòi hỏi hệ thống kế toán BHXH cũng phải không ngừng hoàn thiện và phát triển. Mặc dù hiện nay, hệ thống kế toán BHXH ở nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, đáp ứng được yêu cầu quản lý ngày càng cao của hệ thống BHXH Việt Nam. Tuy nhiên, qua quá trình hoạt động nó vẵn còn bộc lộ một số hạn chế cần phải có biện pháp khắc phục để hệ thống kế toán BHXH Việt Nam không những phù hợp với sự phát triển của hệ thống BHXH ở nước ta hiện nay, mà còn có thể hoàn nhập với hệ thống kế toán ở các nước phát triển trên thế giới. Do đó, em nhận thấy việc nghiên cứu và hoàn thiện hoạt động kế toán BHXH ở nước ta hiện nay là hết sức cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống BHXH Việt Nam. Là một sinh viên chuyên ngành Bảo hiểm, sau một thời gian học tập ở trường; tiếp cận thực tế tại BHXH quận Hai Bà Trưng được sự chỉ bảo tận tình của cán bộ BHXH Quận; và sự hướng dẫn tận tình cô giáo Th.s Tô Thiên Hương, em đã mạnh dạn chọn đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp là : "Hoạt động hạch toán kế toán các chế độ BHXH tại BHXH quận Hai Bà Trưng". Kết cấu của đề tài gồm 3 chương : Chương I : Khái quát chung về BHXH và kế toán BHXH. Chương II : Thực trạng hoạt động hạch toán kế toán các chế độ BHXH tại BHXH quận Hai Bà Trưng. Chương III : Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động hạch toán kế toán các chế độ BHXH tại quận Hai Bà Trưng. Lý luận chung về bhxh và kế toán BHXH Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội. Sự cần thiết khách quan và vai trò của BHXH. Sự cần thiết khách quan của BHXH. Con người muốn tồn tại và phát triển thì cần phải đáp ứng được các nhu cầu tối thiểu của mình đó là đủ ăn, mặc và có chỗ ở, đi lại,…. Muốn vậy, người ta phải lao động để tạo ra của cải vật chất. Để lao động được con người phải có sức khoẻ và khả năng lao động nhất định. Trong thực tế không phải lúc nào con người nói chung và người lao động nói riêng cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm… Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, mà trái lại còn tăng lên, thậm trí còn xuất hiện một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau, tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng… Bởi vậy, muốn tồn tại ổn định cuộc sống, con người và xã hội phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; đi vay, hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước… Rõ ràng, những cách đó hoàn toàn thụ động và không chắc chắn. Như ở thời cổ đại, do chưa có tư hữu về tư liệu sản xuất, mọi người phải tự lực, đoàn kết, cùng nhau hái lượm, săn bắn, sản phẩm thu được phân phối bình quân. Khi gặp rủi ro, tai biến thì họ vừa tự mình gánh chịu, vừa được các thành viên trong cộng đồng san sẻ, cưu mang. ở thời kỳ này, sự tương trợ lẫn nhau mang tính tự phát theo bản năng và mới thực hiện trong phạm vi cộng đồng nhỏ như gia đình, thôn xóm. Trong xã hội phong kiến, quan lại thì dựa vào chế độ bổng lộc của nhà vua, dân cư thì dựa vào sự đùm bọc lẫn nhau trong họ hàng, cộng đồng làng xã hoặc sự giúp đỡ của những người hảo tâm và của triều đình. Ngoài ra, họ có thể đi vay hoặc đi xin. Với những cách này, người gặp khó khăn hoàn toàn thụ động trông chờ vào sự hảo tâm, giúp đỡ của người khác. Do vây, sự giúp đỡ mới chỉ là khả năng có thể có, có thể không, có thể nhiều hoặc ít và không hoàn toàn chắc chắn. Từ khi nền kinh tế hàng hoá phát triển và đã xuất hiện việc thuê mướn nhân công. Lúc đầu, giới chủ cam kết trả công lao động. Dần dần về sau, phải cam kết đảm bảo cho người làm thuê có một thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu sinh sống thiết yếu. Nếu người làm thuê bị ốm đau, tai nạn, sinh con… phải nghỉ việc và không có lương, cuộc sống lập tức bị đe doạ. Đến lúc này, những rủi ro uy hiếp người làm công ăn lương không chỉ còn là sinh, lão, bệnh, tử mà còn là tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Người lao động cần có sự đảm bảo, sự bảo vệ tốt hơn cho mình, nhưng tiền lương không thể trang trải được tất cả những khoản đó trong khi người sử dụng lao động chỉ muốn tối thiểu hoá chi phí của mình. Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp rủi ro không xảy ra, nhưng cũng có khi lại xảy ra dồn dập, buộc giới chủ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền mà họ không muốn. Chính vì thế những người lao động phải liên kết nhau để đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện những điều đã cam kết là đáp ứng nhu cầu cần thiết đó. Cuộc tranh chấp giữa giới chủ và thợ diễn ra rất lâu, nhưng chưa bao giờ quyết liệt và đến nay càng trở nên gay gắt hơn và tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Đứng trước hoàn cảnh đó, Nhà nước là người thứ ba đứng ra giải quyết mâu thuẫn và điều hoà lợi ích giữa chủ và thợ. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Sự đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi một quốc gia. Quỹ này còn được bổ xung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo cho người lao động khi gặp những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ được đảm bảo ổn định. Hạn chế những tệ nạn xã hội xảy ra do nguyên nhân của thất nghiệp và nghèo đói; xây dựng một nền an ninh xã hội bền vững. Mặt khác, giúp giới chủ có thể ổn định sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh do năng suất lao động của người lao động tăng lên. Bởi lẽ, khi người lao động được đảm bảo về lợi ích thì họ sẽ trung thành với doanh nghiệp, làm việc có hiệu quả. Như vậy, nền kinh tế sẽ được phát triển nhanh chóng và bền vững bởi được tăng trưởng về chất. Như vậy, toàn bộ những hoạt động đối với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Hay nói cách khác, BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ không may gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhăm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Có thể nói rằng, BHXH là nhu cầu khách quan của người lao động và đã trở thành một trong những quyền con người và được Đại hôi đồng liên hiệp quốc thừa nhận và ghi vào bản tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10/2/1984 như sau: “Tất cả mọi người, với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người…”. Vai trò của BHXH. Hoạt động của BHXH là hoạt động sự nghiệp vì lợi ích chung của toàn xã hội, phục vụ cho mọi thành viên trong xã hội, lợi nhuận không phải mục tiêu của hoạt động BHXH. Do đó, BHXH có vai trò to lớn trong đời sống kinh tế – xã hội của con người, được thể hiện trên các mặt sau: Đối với người lao động: Trong cuộc sống hàng ngày, các loại rủi ro như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, già yếu rồi chết, … có thể xảy ra với bất kỳ người lao động nào, tại bất kỳ thời điểm nào trong cuộc sống con người. Nhất là trong giai đoạn ngày nay, khi mà đất nước đang ngày càng hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì những rủi ro này xảy ra một cách thường xuyên và có tính chất ngày càng phổ biến hơn và sự biến động của thị trường lao động và sản xuất kinh doanh đa dạng hơn, phức tạp hơn. Khi những rủi ro này xảy ra đối với người lao động gây cho họ khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần, gây nên mất hoặc giảm thu nhập, từ đó gây ra những ảnh hưởng không tốt không chỉ cho chính anh ta, gia đình anh ta mà còn cho cả cộng đồng xã hội loài người. Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, BHXH sẽ góp phần trợ giúp cho cá nhân những người lao động gặp phải rủi ro, bất hạnh khắc phục những khó khăn bằng cách tạo ra cho họ thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi, … giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm trong công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai, từ đó góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như chất lượng công việc cho xí nghiệp, cơ quan họ đang làm việc nói riêng và cho toàn xã hội nói chung. Vì vậy, từ khi BHXH ra đời đối tượng tham gia ngày càng tăng. Cho đến nay, khái niệm BHXH khá quen thuộc và gần gũi với người lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Đối với người sử dụng lao động: Muốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh được đảm bảo thì người chủ phải có vốn, có công nghệ nhưng bên cạnh đó cần thiết hơn là phải tạo được mối quan hệ tốt với người lao động, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của mình đối với người lao động thật tốt để họ yên tâm lao động sản xuất và có niềm tin vào cuộc sống từ đó họ lao động sản xuất hăng hái hơn, tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của người chủ sử dụng lao động hoạt động đạt kết quả cao, thu nhiều lợi nhuận. Muốn vậy, người chủ sử dụng lao động phải tham gia đóng BHXH cho những người lao động của mình để có thể đảm bảo những khoản chi cần thiết, kịp thời đến người lao động khi họ gặp phải những rủi ro bất chắc. Việc tham gia đóng BHXH cho người lao động của người chủ sử dụng lao động là góp vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn, nâng cao năng suất, hiệu quả lao động sản xuất của doanh nghiệp cũng như nâng cao thu nhập cho người lao động và đóng góp vào việc phát triển nền kinh tế của đất nước. Nói cách khác, ngoài tiền công thì BHXH là động lực thúc đẩy hoạt động của người lao động. Chính vì vậy, người chủ sử dụng lao động tham gia BHXH không chỉ đem lại lợi ích cho người lao động mà còn cho chính bản thân họ. Đối với xã hội: Thứ nhất, cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động dịch vụ, BHXH là một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ “ bảo hiểm” cho người lao động, một dịch vụ mà bất cứ ai cũng cần đến. Nếu các doanh nghiệp này ngày càng sản xuất ra nhiều loại dịch vụ bảo hiểm thì giá trị của những sản phẩm dịch vụ này cũng được tính trực tiếp vào tổng sản phẩm xã hội. Thứ hai, với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, BHXH sẽ “bảo hiểm” cho người lao động, hoạt động BHXH sẽ giải quyết những “trục trặc”, “rủi ro” xảy ra đối với người lao động, góp phần tích cực của mình vào việc phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động cá nhân và xã hội với sự trợ giúp của người lao động khi họ gặp rủi ro bằng cách tạo ra thu nhập thay thế thì BHXH đã gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng quốc gia làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội. Thứ ba, với tư cách là một quỹ tiền tệ, BHXH tác động mạnh mẽ đến hệ thống tài chính Nhà nước, tới hệ thống tín dụng tiền tệ ngân hàng. Chính vì vậy, đặt ra yêu cầu cho quỹ BHXH phải bảo tồn và phát triển quỹ bằng nhiều hình thức khác nhau trong đó có hình thức phát triển phần “nhàn rỗi” của quỹ. Phần này có tác động không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế của đất nước, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm mới, góp phần quan trọng trong việc tạo ra việc làm cho người lao động. Từ đó, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp của đất nước, góp phần tăng thu nhập cho cá nhân người lao động nói riêng và tăng tổng sản phẩm quốc nội cũng như tổng sản phẩm quốc gia nói chung. Những nội dung cơ bản của BHXH. Bản chất của BHXH. Ngày nay, Bảo hiểm xã hội phát triển mạnh và là một bộ phận quan trọng nhất của hệ thống đảm bảo xã hội (hay còn gọi là an sinh xã hội) và ở nhiều quốc gia có xu hướng hoà nhập giữa Bảo hiểm xã hội và Bảo đảm xã hội. Tuy nhiên sự hoà hợp này không có nghĩa là hai thuật ngữ này là một. Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu: “ Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm vì những rủi ro xã hội, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia Bảo hiểm xã hội, góp phần đảm bảo an toàn cuộc sống của người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội.” Bảo hiểm xã hội là một loại hình bảo hiểm đặc biệt. Nó khác với những loại hình bảo hiểm khác bởi tính xã hội và tính chất phi lợi nhuận. Người tham gia bảo hiểm chỉ đóng một khoản trích từ tiền lương, nhưng lại được hưởng 6 chế độ: hưu trí, tử tuất, thai sản, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, ốm đau và nghỉ dưỡng sức. Tiền bảo hiểm không được tính toán dựa trên sự tương quan giữa phí bảo hiểm, lượng khách hàng thực tế và khách hàng tiềm năng như trong Bảo hiểm thương mại, mà số tiền Bảo hiểm xã hội được căn cứ theo thu nhập của người lao động trước khi gặp rủi ro hoặc theo mức lương tối thiểu theo quy định hiện hành của Nhà nước. Với cách hiểu như trên, bản chất của Bảo hiểm xã hội được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: Về phương diện cá nhân. BHXH là một nhu cầu của con người, mục đích chính của BHXH là ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi không may bị ốm đau, tai nạn, ... Mục đích này đáp ứng được tất cả mọi người lao động trong xã hội. Tuy nhiên, không phải nhu cầu nào con người cũng được thoả mãn mà nó dựa vào giá trị trong cuộc sống tối thiểu trước khi thoả mãn nhu cầu rộng lớn hơn trong đời sống của con người. Còn đối với người chủ sử dụng lao động, họ mạnh dạn mở rộng sản xuất kinh doanh thuê mướn lao động kể cả lao động phổ thông, từ đó góp phần mở rộng quy mô sản xuất. Về phương diện kinh tế – xã hội. Có thể nói BHXH vừa mang tính chất kinh tế vừa mang tính chất xã hội: Về bản chất kinh tế: BHXH là phạm trù kinh tế tổng hợp. Trong đó đối với những người lao động hưởng các chế độ xã hội thì là sự đảm bảo thu nhập khi họ gặp phải rủi ro. Trong phạm vi của nền kinh tế quốc dân, BHXH mang nội dung của quá trình phân phối và phân phối lại một phần thu nhập trong dân cư thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH. Nền kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế, có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước. Về mặt xã hội: Nhờ thực hiện nguyên tắc “số đông bù số ít” mà quỹ BHXH luôn có một lượng đủ lớn, đủ trang trải mọi chi phí cho những rủi ro do xã hôi gây ra. BHXH được xem như một loạt các hoạt động mang tính xã hội, nhằm đảm bảo đời sống cho người dân và làm lành mạnh xã hội. Thông qua đó, BHXH bảo vệ và phát triển nguồn lao động xã hội, mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội nói chung. BHXH mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, vì lợi ích của con người trong những lúc khó khăn, vì an sinh xã hội và có ý nghĩa xã hội lâu dài. Bản chất kinh tế và bản chất xã hội của BHXH luôn có sự đan xen, hoà quyện. Khi nói đến tính kinh tế thì bao hàm cả tính xã hội và ngược lại. Về phương diện chính trị. BHXH là sự liên kết giữa các nhóm người lao động khác nhau trong xã hội cùng vì lợi ích chung của cộng đồng. Trong đó, các cá nhân tham gia BHXH cũng phản ánh bản chất của một chế độ xã hội nhất định. Đối với một quốc gia, đây còn là một hoạt động thể hiện thái độ trách nhiệm của Chính phủ đối với người dân trong xã hội. Trong rất nhiều nước, sự ổn định hay rối loạn của hệ thống BHXH là một bộ phận trong hệ thống chính sách xã hội quản lý đất nước của quốc gia đó. Đây là mối quan hệ ba bên (Nhà nước, người lao động và người sử dụng lao động) rất chặt chẽ. Đối tượng tham gia và đối tượng hưởng Bảo hiểm xã hội. BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Âu. Từ năm 1883, ở nước Phổ (CHLB Đức ngày nay) đã ban hành luật bảo hiểm y tế. Một số nước châu Âu và Bắc Mỹ mãi đến cuối năm 1920 mới có đạo luật về BHXH. Tuy ra đời lâu như vậy, nhưng đối tượng của BHXH vẫn có nhiều quan điểm chưa thống nhất. Đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH với đối tượng tham gia BHXH. Chúng ta đều biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do lao động bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu, … Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia BHXH. Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó. Trong từng điều kiện phát triển khác nhau, trước hết là trình độ phát triển kinh tế, hay trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội nhất định của mỗi nước mà nội dung và phạm vi thực hiện khác nhau. Sự khác nhau này thể hiện trong ba cấp độ hoạt động của BHXH như sau: Cấp độ thứ nhất: BHXH áp dụng cho mọi thành viên trong xã hội, dưới hình thức như là bảo trợ xã hội. Đối tượng được hưởng ở đây là những người nghèo không có khả năng đóng phí BHXH. Đó là những người nghèo có thu nhập thấp, người già cô đơn, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa,… Những người này vẫn có những bảo trợ nhất định khi cần thiết. Việc chi trả cho các đối tượng này được nhà nước đứng ra bảo đảm, đó là trách nhiệm của Nhà nước. Nguồn chi trả cho các khoản trợ cấp được bao cấp từ ngân sách Nhà nước là chủ yếu, và một phần từ sự quyên góp của các tổ chức, các cá nhân trong xã hội. Cấp độ thứ hai: BHXH thực hiện đối với những người có công ăn việc làm tại các doanh nghiệp trong các cơ quan, các tổ chức của Nhà nước, Chính phủ,… họ là những người có thu nhập. Những người này thuộc đối tượng bắt buộc tham gia đóng phí BHXH để hoàn thành quỹ BHXH. Quỹ BHXH là cơ sở về tài chính cho các chế độ BHXH mà người đóng góp sẽ được hưởng. Những người này là đối tượng chính, chiếm phần chủ yếu trong tổng số những người tham gia và được hưởng quyền lợi, lợi ích của BHXH. Cấp độ thứ ba: BHXH mang tính tự nguyện, ở cấp độ này sẽ có những hình thức áp dụng cho những người tự nguyện lựa chon một hay một số chế độ bảo hiểm mà họ có nhu cầu, hoặc những người có thu nhập cao tự nguyện lựa chọn mức đóng để sau đó có mức hưởng tương ứng. Ngành BHXH sẽ có chế độ và quy định riêng cho các đối tượng này kể cả về quản lý và tổ chức thực hiện cũng như trên phương diện hạch toán. Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt Nam cũng không vượt ra khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là chưa bình đẳng giữa tất cả những người lao động. Ngày nay, đối tượng tham gia BHXH không ngừng được mở rộng, từ đó góp phần đảm bảo sự công bằng giữa tất cả những người lao động thuộc mọi thành phần, lĩnh vực kinh tế khác nhau. Hệ thống các chế độ BHXH. Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của mỗi quốc gia. Nó là những quy định chung, rất khái quát về cả đối tượng, phạm vi, các mối quan hệ và những giải pháp lớn nhằm đạt được mục tiêu chung đã đề ra đối với BHXH. Việc ban hành các chính sách BHXH phải dựa vào điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ và xu hướng vận động khách quan của toàn bộ nền kinh tế – xã hội. Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với người lao động. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hoá về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Chế độ BHXH thường được biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật và dưới luật, các thông tư, điều lệ, … Tuy nhiên, dù có cụ thể đến đâu thì các chế độ BHXH cũng khó có thể bao hàm đầy đủ mọi chi tiết trong quá trình thực hiện chính sách BHXH. Vì vậy, khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm vững những vấn đề mang tính cốt lõi của chính sách BHXH, để đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH. Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã nêu trong Công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm: Chăm sóc y tế. Trợ cấp ốm đau. Trợ cấp thất nghiệp. Trợ cấp tuổi già. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Trợ cấp gia đình. Trợ cấp sinh đẻ. Trợ cấp khi tàn phế. Trợ cấp cho người còn sống. Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều kiện kinh tế – xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ : (3), (4), (5), (8), (9). Toàn bộ hệ thống cũng như mỗi chế độ BHXH trong hệ thống trên khi xây dựng đều phải dựa vào những cơ sở kinh tế – xã hôi như : Cơ cấu ngành kinh tế quốc dân, tiền lương và thu nhập của người lao động, hệ thống tài chính của quốc gia,… Đồng thời tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học, yếu tố môi trường như: tuổi thọ bình quân của người lao động, nhu cầu dinh dưỡng, xác suất tai nạn lao động và tử vong, độ tuổi sinh đẻ của lao động nữ, môi trường lao động,… Để áp dụng các chế độ BHXH phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng đổi mới các chính sách BHXH và ngày càng hoàn thiện. Hiện nay, theo điều 2 của điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nước ta bao gồm 5 chế độ : chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí, chế độ tử tuất. So với trước đây, chế độ trợ cấp mất sức lao động đã bị loại bỏ. Quỹ Bảo Hiểm Xã Hội. Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Mục đích của tạo lập quỹ BHXH là dùng để bù đắp hoặc thay thế thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khoẻ, mất khả năng lao động, mất việc làm, chết ; nhằm đảm bảo cuộc sống cho bản thân người lao động và những người ruột thịt của người lao động trực tiếp phải nuôi dưỡng, góp phần đảm bảo an toàn xã hội và phát triển kinh tế đất nước. Quỹ được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau : Người sử dụng lao động đóng góp. Người lao động đóng góp. Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm. Các nguồn khác (như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi). Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ tránh thiệt hại khi có rủi ro xảy ra với lao động của họ, đồng thời nhằm cải thiện mối quan hệ chủ thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp vừa thể hiện sự tự gánh chịu trực tiếp với rủi ro của minh vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ. Mối quan hệ chủ – thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết là luật lệ về BHXH, ngoài ra bằng nhiều hình thức, biện pháp và mức độ can thiệp khác nhau, Nhà nước không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH mà còn trở thành chỗ đứng để đảm bảo cho BHXH chắc chắn và ổn định. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên có khác nhau. Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn 2 quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế đội tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bê

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1255.doc
Tài liệu liên quan