Đề tài Hoàn thiện thẻ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề phức tạp cả về lý thuyết lẫn thực tiễn và chưa có tiền lệ trong lịch sử. Việc nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình nghiên cứu lý luận và đúc kết từ thực tiễn. Bài viết này thông qua việc phân tích một số hoạt động thực tiễn trong quá trình vận hành nền kinh tế thị trường ở nước ta, góp phần làm rõ một trong những vấn đề chủ yếu là hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

doc13 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1146 | Lượt tải: 1download
Nội dung tài liệu Đề tài Hoàn thiện thẻ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THIỆN THẺ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM PERFECTING THE STATUTE OF SOCIALIST- ORIENTED MARKET ECONOMY OF VIETNAM LÊ THẾ GIỚI Đại học Đà Nẵng TÓM TẮT Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề phức tạp cả về lý thuyết lẫn thực tiễn và chưa có tiền lệ trong lịch sử. Việc nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình nghiên cứu lý luận và đúc kết từ thực tiễn. Bài viết này thông qua việc phân tích một số hoạt động thực tiễn trong quá trình vận hành nền kinh tế thị trường ở nước ta, góp phần làm rõ một trong những vấn đề chủ yếu là hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. ABSTRACT Perfecting the statute of the socialist market-oriented economy of Vietnam is a complicated issue both theoretically and practically, which is unprecedented in our history. Understanding the socialist market-oriented economy is a process of studying the theory and real-life experience. Based on some practical activities in operating the market economy in our country, this paper is aimed to clarify one of the major issues, which is the perfection of the socialist market-oriented economy. Đặt vấn đề Đại hội X của Đảng đã khẳng định mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mô hình này thể hiện mục tiêu phát triển là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ngay từ đầu và trong mọi giai đoạn phát triển; các nguồn lực phát triển và chủ thể tham gia là mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; động lực chung của sự phát triển là đại đoàn kết dân tộc và các động lực kinh tế, chế độ phân phối; yêu cầu giữ vững ổn định chính trị xã hội, độc lập tự chủ về kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế, cơ chế kinh tế và hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường, vai trò quản lý nhà nước đối với nền kinh tế, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.[1] Để tiếp tục đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần nhấn mạnh một số vấn đề cơ bản và tiếp tục làm rõ nội hàm của chúng, làm cơ sở cho việc thiết kế chính sách trong quá trình vận hành hệ thống thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trước hết, để đạt được mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong quá trình vận hành nền kinh tế thị trường phải đảm bảo yêu cầu kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội ngay từ đầu và trong mọi giai đoạn phát triển, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội. Thứ hai, xác định đúng và phân bổ hợp lý, hiệu quả các nguồn lực trong nước cho đầu tư phát triển và kết hợp với việc thu hút các nguồn lực bên ngoài thông qua quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào các định chế toàn cầu và khu vực (WTO, BTA, AFTA,...) theo nguyên tắc giữ vững lập trường tự chủ về kinh tế. Thứ ba, làm rõ từ ba hình thức sở hữu cơ bản (toàn dân, tập thể và tư nhân) hình thành nên các thành phần kinh tế đan xen hỗn hợp giữa các hình hình thức sở hữu, đặc biệt phát triển phổ biến hình thức sở hữu cổ phần. Từ đó khẳng định chủ trương nền kinh tế đa sở hữu, các thành phần kinh tế tồn tại và phát triển lâu dài và đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa nền kinh tế, đảm bảo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa các các thành phần kinh tế và tính chất sở hữu của doanh nghiệp. Trong đó, kinh tế nhà nước (doanh nghiệp nhà nước, các nguồn tài nguyên, ngân sách,...) phải giữ vai trò chủ đạo thể hiện ở qui mô và hiệu quả hoạt động cao dựa trên nền tảng vật chất hiện đại, công nghệ và quản lý tiên tiến. Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế nhà nước, các doanh nghiệp cần được sắp xếp, tái cấu trúc theo hướng tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, chủ yếu là các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, một số lĩnh vực sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng và các dịch vụ công ích, còn lại cần được cổ phần hóa với sự tham gia rộng rãi của các thành phần kinh tế; tiến tới xóa bỏ độc quyền kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước; có cơ chế giám sát và điều tiết đối với các doanh nghiệp có vị thế độc quyền trong kinh doanh. Phát triển mạnh kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, phù hợp với ngành nghề, lĩnh vực và trình độ tập trung hóa, chuyên môn hóa. Khuyến khích và định hướng phát triển mạnh kinh tế tư nhân như một trong những lực lượng kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế thị trường; mở rộng quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân trong các lĩnh vực kinh doanh mà luật pháp không hạn chế. Thể chế kinh tế thị trường Thể chế bao gồm các luật lệ, qui tắc xã hội, từ cấp quốc gia, liên quốc gia đến các cộng đồng nhỏ nhất, được lập ra để khuyến khích, ca ngợi, khen thưởng hay lên án, trừng phạt, ngăn cấm, ràng buộc, nhờ vậy mà tác động đến tư duy và hành động (cách nghĩ, cách cảm, cách làm, cách sống) của con người trong xã hội ấy. Như vậy, thể chế bao gồm; (1) thể chế của Nhà nước (hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư, chỉ thị, quyết định của cơ quan nhà nước) và thể chế phi nhà nước (phong tục, tập quán, chuẩn mực xã hội; (2) các tổ chức (trong lĩnh vực kinh tế là các chủ thể kinh tế, như doanh nghiệp, người tiêu dùng,.); (3) cơ chế vận hành (các phương tiện, phương pháp mà tổ chức và con người sử dụng để thực thi thể chế, như cơ chế phân cấp quản lý kinh tế, cơ chế phối hợp, cơ chế tham gia,...) và (4) Hệ thống các thị trường trao đổi (thị trường hàng hóa, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường bất động sản). Thể chế không cố định mà vận động và phát triển cùng với xã hội loài người. Trong khuôn khổ của bài viết này chỉ bàn đến thể chế kinh tế thị trường, không đề cập đến thể chế chính trị, thể chế xã hội dân sự, thể chế văn hóa,. Các thể chế kinh tế thị trường đều được xây dựng và vận hành theo một nguyên tắc cốt lõi là cạnh tranh thị trường. Ở nước ta, cạnh tranh chủ yếu là giữa các chủ thể thuộc năm thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Ngày nay, hầu hết các nền kinh tế thị trường là kinh tế hỗn hợp, trong đó nền kinh tế vận hành theo các qui luật của thị trường (“bàn tay vô hình”) có sự điều tiết của nhà nước nhằm khắc phục những thất bại của thị trường. Đại hội IX (4/2001) và Đại hội X (2006) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định 7 điểm về mục tiêu và đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: (1) Mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; (2) Phát triển lực lượng sản xuất; (3) Xây dựng quan hệ sản xuất có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; (4) Phân phối chủ yếu theo lao động, hiệu quả kinh tế và theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực đầu tư khác và thông qua phú lợi xã hội; (5) Tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; (6) Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục; (7) Nhà nước phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế theo chủ trương phát triển bền vững của Liên hiệp quốc trong Bản Tuyên ngôn của Hội nghị thượng đỉnh Rio (1992) và Chương trình hành động 21 được 192 quốc gia, trong đó có Việt Nam, chấp thuận và thực hiện, về mục tiêu và các đặc trưng khá giống với 7 điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, (chỗ khác cơ bản là vai trò của kinh tế nhà nước). Như vậy, trong các nền kinh tế thị trường đương đại và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những điểm khá tương đồng.[2] Những hạn chế của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Thời gian qua, những hạn chế và bất cập của thể chế kinh tế thị trường ở nước ta tập trung ở những điểm chính sau đây. Về hệ thống pháp luật: Tuy ngày càng được hoàn thiện nhưng hệ thống pháp luật vẫn chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Sự bất cập này thể hiện ở tính chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật; một số vấn đề chậm thể chế hóa, như quản lý nhà nước đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước, đăng ký kinh doanh bất động sản, kiểm soát độc quyền. Chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật, tình trạng văn bản hướng dẫn thi hành mâu thuẫn với văn bản luật chưa được khắc phục triệt để. Tính cụ thể, minh bạch và dự báo trước của nhiều luật còn thấp. Hiệu lực thi hành của một số văn bản pháp luật chưa cao, như Luật cạnh tranh, Luật đất đai,... Chưa qui định rõ quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, thể chế hóa các hoạt động giao dịch, chống độc quyền, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo hiểm và an sinh xã hội. Qui trình xây dựng văn bản pháp luật còn thiếu dân chủ, cứng nhắc, cách phân công cho các bộ, ngành soạn thảo văn bản pháp luật dễ dẫn đến tình trạng bảo vệ lợi ích cục bộ của bộ, ngành. Về chủ thể kinh tế: Quan điểm đối với các chủ thể kinh doanh chưa có sự nhất quán và rõ ràng giữa chính sách và thực thi. Chẳng hạn, luật pháp qui định mọi doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu khác nhau đều bình đẳng, nhưng trong thực tế, các doanh nghiệp tư nhân gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn vốn và thị trường. Có sự khác biệt giữa nhận thức và phân định vai trò của các chủ thể kinh tế với vai trò thực sự của chủ thể kinh tế ấy trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Các doanh nghiệp nhà nước có qui mô lớn, nhưng hoạt động kém hiệu quả. Các doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ 75% giá trị tài sản quốc gia, 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, 60% lượng vốn tín dụng ngân hàng trong nước, hơn 70% tổng vốn vay nước ngoài, nhưng hiệu quả kinh doanh thấp. Chưa đến 40% doanh nghiệp nhà nước có mức lãi bằng hoặc cao hơn lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại; thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ đạt 8000 tỉ đồng trong tổng số 87000 tỉ đồng nộp ngân sách nhà nước năm 2003. Nhiều doanh nghiệp nhà nước có trình độ công nghệ dưới mức trung bình của thế giới và khu vực, tốc độ đổi mới công nghệ khoảng 10%/năm. Theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WMF) trong báo cáo “Năng lực cạnh tranh toàn cầu” năm 2004, chỉ số về công nghệ của Việt Nam rất thấp, xếp thứ 92/104 quốc gia (năm 2003 là 65).[3] Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, năm 2004, theo tiêu chí này các doanh nghiệp chỉ đứng thứ 73 theo xếp hạng của WMF. Các doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện được sự khác biệt về năng lực cạnh tranh so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Về cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường: Vận dụng chưa đồng bộ các công cụ quản lý và điều tiết thị trường. Năng lực của bộ máy quản lý nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu quản lý hiệu quả nền kinh tế thị trường, thiếu tính chuyên nghiệp và sự tận tâm phục vụ doanh nghiệp. Về hệ thống các thị trường: Các thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường bất động sản hoạt động chưa hiệu quả, quản lý nhà nước (định hướng, tạo môi trường kinh doanh, điều tiết hành vi của các chủ thể tham gia thị trường,...) chưa linh hoạt, thiếu chủ động và mức độ kiểm soát thị trường chưa cao. Hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường Hoàn thiện hệ thống pháp luật - công cụ điều hành của nhà nước pháp quyền Có ba loại chủ thể chính cấu thành xã hội là Nhà nước, các doanh nghiệp và các tổ chức của xã hội dân sự. Vấn đề cốt lõi của quản lý nhà nước là việc xác định chức năng của Nhà nước và phân định ranh giới giữa những chức năng Nhà nước, các doanh nghiệp và các tổ chức của xã hội dân sự. Trong quá trình điều hành của nhà nước pháp quyền, pháp luật là công cụ quan trọng bậc nhất, vì vậy đổi mới quy trình làm luật đang là nhu cầu hết sức cấp bách. Hiện nay, đang có sự lẫn lộn giữa quy trình lập chính sách và quy trình soạn thảo văn bản pháp luật. Quy trình hoạch định chính sách có hai cách làm: (1) Quy trình bắt đầu từ đường lối của Nhà nước, muốn thực hiện một chính sách nào đó, Nhà nước đề ra mục tiêu và các giải pháp để đạt được (đây là quy trình mang tính chất định hướng theo tầm nhìn chủ quan, nặng về ý chí); (2) Quy trình chính sách bắt đầu từ việc nhận biết vấn đề, sau đó nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân làm phát sinh vấn đề và đề ra giải pháp để giải quyết trên cơ sở phân tích chi phí-lợi ích của xã hội và của Nhà nước. Chỉ sau khi chính sách được quyết định, việc soạn thảo văn bản pháp luật mới chính thức được bắt đầu.[4] Như vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo điều kiện để quản lý nhà nước bằng luật đối với nền kinh tế xã hội là một yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Hệ thống luật pháp và qui định cần được xây dựng theo hướng đơn giản, dễ hiểu, tập trung vào các khâu then chốt để điều chỉnh nhằm nâng cao tính hiệu lực. Chẳng hạn, qua một năm thực hiện Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư đã nhanh chóng phát huy hiệu lực. Thứ nhất, sự ra đời của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư là một bước tiến lớn về tư duy. Tư duy truyền thống về doanh nghiệp theo thành phần kinh tế đang dần được thay thế bằng tư duy theo loại hình pháp lý của doanh nghiệp. Xét về mặt hoàn thiện thể chế kinh tế, việc ban hành và thực thi hai luật này đã hoàn thành quá trình thống nhất khuôn khổ pháp lý về doanh nghiệp, không còn phân biệt tính chất sở hữu và thành phần kinh tế. Từ đó, khuôn khổ pháp lý về kinh doanh ở nước ta cơ bản đã được áp dụng thống nhất, bình đẳng đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, không phân biệt tính chất sở hữu và thành phần kinh tế; phù hợp với thông lệ quốc tế. Thứ hai, việc ban hành và thực thi hai luật trên đã xóa bỏ các quy định trước đây của các địa phương liên quan đến đầu tư; thống nhất được các thủ tục về đầu tư theo hướng đơn giản, rõ ràng và thống nhất giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đây là một bước tiến lớn có tính đột phá trong cải cách hành chính về thủ tục đầu tư. Nhờ đó, các nhà đầu tư về cơ bản được quyền đầu tư vào tất cả các lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Thứ ba, phân cấp một cách toàn diện cho UBND cấp tỉnh trong việc trực tiếp quản lý nhà nước về đầu tư đã thực sự tạo động lực khuyến khích và phát huy tính năng động, sáng tạo của các địa phương trong việc giải quyết các thủ tục hành chính về đầu tư cũng như xúc tiến đầu tư để phát triển kinh tế địa phương; đồng thời tạo điều kiện để các bộ tập trung nhiều hơn vào xây dựng và hoàn thiện chính sách, quy hoạch định hướng thu hút đầu tư phát triển. Trong hơn một năm qua, số doanh nghiệp mới đăng ký và số vốn đăng ký tăng mạnh. Năm 2006, đã có thêm hơn doanh nghiệp mới đăng ký thành lập với số vốn đăng ký tỉ đồng; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 10,2 tỉ đô- la Mỹ, tăng gần 4 tỉ đô-la so với kế hoạch dự kiến. Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi luật pháp, Chính phủ cần sớm ban hành nghị định hướng dẫn thi hành luật và xóa bỏ các qui định về giấy phép không còn phù hợp. Trong năm 2006, Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư đã kiến nghị bãi bỏ 42 giấy phép, nhưng vẫn còn 247 loại giấy phép con. Trong Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư cũng còn có một số quy định không tương thích với các quy định trong một số luật khác như Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường... đòi hỏi sớm có những sửa đổi cho phù hợp. Đoi mới chức năng quản lý nhà nước đối với nền kinh tế Sự tăng trưởng phụ thuộc nhiều vào năng lực điều hành nền kinh tế của Chính phủ. Thời gian qua, tăng trưởng GDP của Việt Nam khá cao và ổn định (7,5-8,0%/năm). Điều này rất quan trọng vì tính ổn định sẽ là yếu tố quyết định khi Việt Nam bước vào giai đoạn trở thành một nước có thu nhập trung bình. Trong những năm tới, tốc độ tăng trưởng GDP cần ổn định ở mức 8-8,5%/năm. Để xây dựng được một Chính phủ mạnh, cần hoàn thiện thể chế và cơ chế quản lý nền kinh tế. Muốn đạt được mục tiêu này, trước hết, Chính phủ cần tập trung xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, vai trò, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, để từ đó đưa ra các chính sách phù hợp. Như vậy, yêu cầu hàng đầu đặt ra là Chính phủ phải cải tổ mạnh mẽ bộ máy, phải tự đổi mới mình. Trong thời gian vừa qua, Chính phủ đã tinh giản số lượng các bộ, xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản thông qua cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, chuyển sang quản lý đa ngành. Tuy nhiên, quá trình cải tổ phải được tiến hành theo chiều sâu, phải thực sự chuyển từ nền hành chính cai trị sang phục vụ nhân dân. Khi thể chế của nền kinh tế thị trường ngày càng hoàn chỉnh thì vai trò của Chính phủ cũng phải thay đổi theo. Chính phủ sẽ không phải là người trực tiếp cung cấp các dịch vụ công như năng lượng, điện, các dịch vụ cho đô thị, nông thôn... mà thay vào đó, sẽ khuyến khích các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đứng ra cung cấp. Lúc đó, Chính phủ chỉ giữ vai trò điều phối, quản lý vĩ mô. Vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở việc định hướng, hỗ trợ, tạo dựng môi trường kinh doanh thông thoáng và cơ chế khuyến khích các nguồn lực đầu tư vào phát triển kinh tế, quản lý nền kinh tế thông qua các công cụ thị trường (tài chính, thu nhập, thuế, giá, tỷ giá,...). Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có tác động mạnh mẽ đến việc cải cách bộ máy Chính phủ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng cường khả năng cạnh tranh quốc gia. Kinh nghiệm thế giới cho thấy một nền kinh tế thị trường phát triển mạnh đòi hỏi ở Chính phủ tính minh bạch, công khai và những quyết định công bằng cho tất cả các thành phần kinh tế. Trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cần tuân thủ các qui luật khách quan của thị trường (các qui luật giá trị, lưu thông tiền tệ, qui luật cạnh tranh,.). Có các chính sách thúc đẩy phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường (lao động, vốn, bất động sản, khoa học và công nghệ,.). Nâng cao tính minh bạch của thể chế, tách biệt rõ ràng hoạt động sản xuất kinh doanh vằ quản lý nhằ nước. Ổn định các chính sách tài chính, thuế, xuất nhập khẩu, hải quan; từng bước xây dựng chính phủ điện tử, nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý kinh doanh và hành chính công quyền trong các hoạt động thực thi luật pháp, cấp phép đầu tư, quản lý đất đai, thuế, xuất nhập khẩu và hải quan. Thể chế hoá vai trò của chính quyền địa phương, tập trung vào những yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến kết quả đầu tư và phát triển kinh tế: tính năng động, tính thân thiện, tính minh bạch và sự cam kết ủng hộ phát triển kinh doanh. Về thực chất, tính năng động của địa phương chính là thái độ của chính quyền đối với việc phát triển của các thành phần kinh tế, thể hiện qua hai khía cạnh: (1) sự phối hợp giữa các cơ quan ở địa phương để tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh; (2) hợp tác với doanh nghiệp tìm cách pháp giải quyết các vướng mắc không rõ ràng về văn bản luật pháp, cho phép thực thi thí điểm và nếu thành công sẽ được thể chế hóa bằng văn bản luật pháp. Thực hiện quyền tự do kinh doanh và xã hội hóa việc trợ giúp phát triển kinh doanh thông qua việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi. Hỗ trợ các chủ thể kinh tế là hết sức cần thiết, song mọi chính sách ưu tiên, ưu đãi có tính hành chính đều làm suy yếu sức cạnh tranh của nó. Vì vậy cần tìm ra cơ chế thích hợp để thúc đẩy các chủ thể kinh tế nâng cao khả năng cạnh tranh. Một cách hỗ trợ thiết thực là phát triển mạnh các tổ chức cung cấp các dịch vụ phát triển kinh doanh (tư vấn pháp lý, kế toán, tài chính, đào tạo, quản lý và thông tin thị trường). Cải thiện môi trường tài chính thuận lợi. Tăng cường tính cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng. Phát triển mạnh hệ thống ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh, các tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính cho thuê, cầm cố và các dịch vụ tài chính khác. Nâng cao khả năng huy động vốn từ toàn bộ nền kinh tế, cải thiện quan hệ giữa các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính với các doanh nghiệp. Xây dựng hệ thống thuế minh bạch đảm bảo tính ổn định, đơn giản, dễ hiểu, dễ vận dụng, có cơ chế kiểm soát thích hợp, giảm thời gian cho các cuộc thanh tra, làm lãng phí nguồn lực của cơ quan thuế lẫn doanh nghiệp. Tiếp tục đoi mới chính sách tiền tệ, sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất, tỉ giá hối đoái để bảo đảm giá trị đồng tiền, kiểm soát được lạm phát, bảo đảm an ninh tài chính cho hệ thống tài chính, ngân hàng và các tổ chức tín dụng trước các cú sốc tỷ giá và lãi suất đến từ bên ngoài. Xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, đẩy mạnh co phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, đóng góp 38% GDP, chiếm 33% tín dụng và tạo ra 10% tổng số việc làm của cả nước. Theo đánh giá của Bộ Tài chính, có 44,4% doanh nghiệp nhà nước được phân loại theo nhóm A, tức doanh nghiệp có lãi, 39,5% thuộc nhóm B và số còn lại thuộc nhóm C. Các doanh nghiệp nhà nước được cho là làm ăn thua lỗ chiếm khoảng 19,5% tổng số các doanh nghiệp nhà nước với tổng nợ trị giá hàng nghìn tỷ đồng. Từ những năm đầu 1990, thực hiện chủ trương chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp quốc doanh và giảm bớt gánh nặng cho nhà nước từ những khoản nợ kéo dài, hơn 12.000 doanh nghiệp nhà nước đã được sắp xếp và CPH, nay còn khoảng hơn 2.000 doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước vẫn tiếp tục là cổ đông lớn trong các doanh nghiệp CPH. Cải cách doanh nghiệp nhà nước đã góp phần củng cố khu vực tư nhân và làm giảm nợ công. Theo Bộ Tài chính, có gần 20% vốn nhà nước đã được CPH, trung bình trong các công ty đã CPH, nhà nước nắm giữ khoảng 46% cổ phần, người lao động nắm giữ gần 30% và số còn lại thuộc sở hữu của các cổ đông khác. Nhà nước nắm giữ hơn 50% cổ phần trong 33% các công ty đã được CPH. Để xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, cần đẩy mạnh cổ phần hóa (CPH) các doanh nghiệp nhà nước. Đối với các công ty còn thuộc các cơ quan chủ quản mà Nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối, Nhà nước cần chấp nhận CPH toàn bộ. Từ đó giải quyết căn bản các vấn đề liên quan “chủ quản” mà việc bổ nhiệm nhân sự và can thiệp vào kinh doanh không theo nguyên tắc thị trường. Ngoài ra, Nhà nước cần chủ động giải quyết mối quan hệ về chủ sở hữu vốn và người quản lý (giám đốc thuê) ở các doanh nghiệp thành viên mà Nhà nước (thông qua SCIC - Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước) có cổ phần chi phối, theo các nguyên tắc thị trường nhằm hạn chế đến mức thấp nhất chi phí người đại diện. Cụ thể hóa trách nhiệm và đặc biệt là quyền lợi của người đại diện vốn nhà nước (SCIC) tại công ty thành viên. Trong nền kinh tế chuyển đổi, việc CPH các doanh nghiệp nhà nước cần chú trọng: (1) Đảm bảo lợi ích của người lao động sau CPH tìm được việc làm ổn định; (2) CPH cũng phải đi kèm với cải cách các thị trường liên quan, cho phép người chủ sở hữu mới vận hành có lãi, đồng thời, đảm bảo lợi ích công chúng được bảo vệ; (3) Tính minh bạch, rõ ràng và dự đoán được rất quan trọng để thu hút những nhà đầu tư nghiêm túc và tối đa hóa giá trị doanh nghiệp; (4) Cơ quan Chính phủ duy nhất với quyền hạn và quyền lực dẫn dắt chương trình để đem lại tính nhất quán và hiệu quả trong quá trình thực thi chính sách; (5) Để thành công, một chính sách CPH phải là một bộ phận của chương trình cải cách theo định hướng thị trường. Để có thể hấp dẫn các nhà đầu tư và tối đa hóa nguồn thu, nhà nước phải bảo đảm môi trường kinh doanh hấp dẫn bằng các cải cách liên quan và chính sách kinh tế lành mạnh. Thực hiện các cam kết gia nhập WTO Cần sớm ban hành Nghị định của Chính phủ về hướng dẫn thi hành một số cam kết về đầu tư của Việt Nam với WTO. Nghị định cần qui định chi tiết cam kết về cung cấp dịch vụ dưới hình thức hiện diện thương mại qui định tại Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ và các nội dung trong Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO; cam kết về quyền kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được nêu trong Báo cáo gia nhập WTO; cam kết về trợ cấp công nghiệp dưới hình thức ưu đãi, về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, hoạt động của các khu tự do, khu kinh tế đặc biệt và về doanh nghiệp nhà nước. Nguyên tắc chung của Nghị định này là thực hiện cam kết WTO, bảo đảm môi trường đầu tư, tạo điều kiện cạnh tranh và phát triển kinh tế. Để thực hiện cam kết WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, cần xây dựng các chính sách kinh tế vĩ mô hậu WTO nhằm tiến tới xoá bỏ mọi hình thức bao cấp, tạo môi trường cho các loại thị trường vận hành đồng bộ, có hiệu quả và bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Để làm được điều đó, trước tiên cần xoá bỏ mọi hình thức bao cấp, trong đó có bao cấp qua giá, thực hiện giá thị trường cho mọi hàng hoá và dịch vụ. Đối với những mặt hàng còn áp dụng cơ chế Nhà nước định giá, phải xác định lộ trình thực hiện giá thị trường để các doanh nghiệp tính toán lại phương án sản xuất kinh doanh. Sửa đổi, bổ sung và xây dựng những chính sách hỗ trợ các ngành sản xuất trong nước k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dochoan_thien_the_che_kinh_te_thi_truong.doc
Tài liệu liên quan