Đất nước ta đã chính thức trở thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại Thế giới WTO.Điều đó cho thấy rõ phương hướng và mục tiêu phát triển của nền kinh tế nước ta là rất đúng đắn và phù hợp với quy luật khách quan.
Tuy nhiên, trước những biến đổi to lớn của nền kinh tế thế giới theo xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá, đã đưa nền kinh tế Việt Nam đứng trước những thách thức lớn lao cũng như mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển. Nếu biết nắm bắt lấy những cơ hội ấy thì có thể coi đây là động lực để thúc đẩy nội lực của đất nước phát triển. Đồng thời nó cũng có thể trở thành tác động ngược lại nếu như nắm bắt các cơ hội ấy không kịp thời hoặc không đúng cách. Vì vậy, trong động trên. Nếu như xuất khẩu góp phần tăng thu ngoại tệ cho đất nước thì nền kinh tế mở hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có thể hội tụ cả hai tác nhập khẩu giúp cho quá trình tái sản xuất được mở rộng và hiệu quả, đồng thời nhập khẩu cho phép bổ xung những sản phẩm hàng hoá trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không có hiệu quả, đem lại lợi ích cho các bên tham gia. Đặc biệt đối với Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, đang tiến trên con đường công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước trong khi sản xuất công nghiệp chưa phát triển thì nhu cầu về hàng nhập khâủ vẫn còn cao. Là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ xây dựng, Tổng công ty đầu tư xây dụng cấp thoát nước và môI trường Việt Nam VIWASEEN đã sớm khẳng định được vai trò của mình trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty không những mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mà còn mang lại lợi ích cho nền kinh tế cả nước.
Để khai thác triệt để lợi thế của việc nhập khẩu hàng hoá trong lĩnh vực xây dựng cấp thoát nước, nhằm từng bước nâng cao cơ sở hạ tầng trong nước, việc đánh giá hoạt động nhập khẩu nguyên vât máy móc thiết bị và đề ra giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động này có tầm quan trọng đặc biệt và có ý nghĩa thiết thực. Do đó em xin chọn đề tài “Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị tại Tổng công ty đầu tư xây dựng cấp thoát nước và môi trường Việt Nam<VIWASEEN>”.
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị của Tổng công ty VIWASEEN trong nền kinh tế mở của Việt Nam. Trên cơ sở phân tích thực trạng, các mặt ưu nhược điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu nguyên vật liệu của Tổng công ty trong những năm vừa qua để đề xuất các quan điểm, những giải pháp mới nhằm hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị tại Tổng công ty theo yêu cầu của nền kinh tế mở hiện nay.
Nội dung của đề tài ngoài phần mở đầu và phần kết luận bao gồm 3 chương:
Chương I : Khái quát chung về nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị tại Tổng công ty VIWASEEN.
Chương III: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị tại Tổng công ty VIWASEEN trong thời gian tới.
64 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1073 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị tại Tổng công ty đầu tư xây dựng cấp thoát nước và môi trường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Đất nước ta đã chính thức trở thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại Thế giới WTO.Điều đó cho thấy rõ phương hướng và mục tiêu phát triển của nền kinh tế nước ta là rất đúng đắn và phù hợp với quy luật khách quan.
Tuy nhiên, trước những biến đổi to lớn của nền kinh tế thế giới theo xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá, đã đưa nền kinh tế Việt Nam đứng trước những thách thức lớn lao cũng như mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển. Nếu biết nắm bắt lấy những cơ hội ấy thì có thể coi đây là động lực để thúc đẩy nội lực của đất nước phát triển. Đồng thời nó cũng có thể trở thành tác động ngược lại nếu như nắm bắt các cơ hội ấy không kịp thời hoặc không đúng cách. Vì vậy, trong động trên. Nếu như xuất khẩu góp phần tăng thu ngoại tệ cho đất nước thì nền kinh tế mở hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có thể hội tụ cả hai tác nhập khẩu giúp cho quá trình tái sản xuất được mở rộng và hiệu quả, đồng thời nhập khẩu cho phép bổ xung những sản phẩm hàng hoá trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không có hiệu quả, đem lại lợi ích cho các bên tham gia. Đặc biệt đối với Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, đang tiến trên con đường công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước trong khi sản xuất công nghiệp chưa phát triển thì nhu cầu về hàng nhập khâủ vẫn còn cao. Là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ xây dựng, Tổng công ty đầu tư xây dụng cấp thoát nước và môI trường Việt Nam VIWASEEN đã sớm khẳng định được vai trò của mình trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoạt động nhập khẩu của Tổng công ty không những mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mà còn mang lại lợi ích cho nền kinh tế cả nước.
Để khai thác triệt để lợi thế của việc nhập khẩu hàng hoá trong lĩnh vực xây dựng cấp thoát nước, nhằm từng bước nâng cao cơ sở hạ tầng trong nước, việc đánh giá hoạt động nhập khẩu nguyên vât máy móc thiết bị và đề ra giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động này có tầm quan trọng đặc biệt và có ý nghĩa thiết thực. Do đó em xin chọn đề tài “Hoàn thiện hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị tại Tổng công ty đầu tư xây dựng cấp thoát nước và môi trường Việt Nam”.
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị của Tổng công ty VIWASEEN trong nền kinh tế mở của Việt Nam. Trên cơ sở phân tích thực trạng, các mặt ưu nhược điểm của hoạt động kinh doanh nhập khẩu nguyên vật liệu của Tổng công ty trong những năm vừa qua để đề xuất các quan điểm, những giải pháp mới nhằm hoàn thiện hoạt động kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị tại Tổng công ty theo yêu cầu của nền kinh tế mở hiện nay.
Nội dung của đề tài ngoài phần mở đầu và phần kết luận bao gồm 3 chương:
Chương I : Khái quát chung về nhập khẩu.
Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị tại Tổng công ty VIWASEEN.
Chương III: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị tại Tổng công ty VIWASEEN trong thời gian tới.
Chương I
KHáI QUáT CHUNG Về NHậP KHẩU
I. NHậP KHẩU Và VAI TRò CủA NHậP KHẩU
1. Khái niệm nhập khẩu:
Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế.Nó không phải là hành vi mua bán đơn lẻ mà là một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền kinh tế có tổ chức cả bên trong lẫn bên ngoài một quốc gia.
Vậy thực chất ở đây, nhập khẩu hàng hoá là việc mua bán hàng hoá từ các tổ chức kinh tế, các công ty nước ngoài và tiến hành tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu tại thị trường nội địa hoặc tái xuất khẩu với mục đích thu lợi nhuận và nối liền sản xuất và tiêu dùng cùng với nhau.
Mục tiêu của hoạt động nhập khẩu là việc sử dụng có hiệu quả ngoại tệ tiết kiệm để nhập khẩu vật tư hàng hoá phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng và đời sống nhân dân trong nước, đồng thời bảo đảm cho việc phát triển nhịp nhàng và nâng cao năng suất lao động, bảo vệ các ngành sản xuất trong nước,giải quyết sự khan hiếm của thị trường nội địa.
Hoạt động nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều khâu nghiệp vụ khác nhau, từ khâu nghiên cứu điều tra, tiếp cận thị trường nước ngoài, lựa chọn bạn hàng, hàng hoá nhập khẩu, tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho tới khi hoàn thành thủ tục thanh toán. Mỗi khâu nghiệp vụ phải được nghiên cứu thực hiện đầy đủ, kỹ càng và đặt trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt được lợi thế...
2. Một số hình thức nhập khẩu chủ yếu:
Trong hoạt động nhập khẩu,có nhiều hình thức nhập khẩu khác nhau để doanh nghiệp có thể lựa chọn. Mỗi hình thức nhập khẩu có những ưu điểm và nhược điểm riêng, bởi vậy doanh nghiệp cần phải tuỳ từng trường hợp mà áp dụng hình thức nào cho có hiệu quả nhất. Sau đây là một số hình thức nhập khẩu cơ bản và phổ biến nhất:
2.1. Nhập khẩu tự doanh:
Nhập khẩu tự doanh là hình thức nhập khẩu mà trong đó doanh nghiệp thực hiện toàn bộ quá trình nhập khẩu từ nghiên cứu thị trường để mua hàng hoá đến bán được hàng hoá và có doanh thu từ vốn của mình.
Hình thức nhập khẩu này có ưu điểm là nó đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp chủ động trong việc nhập hàng và tiêu thụ hàng hoá, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó, hình thức này cũng còn bộc lộ một số nhược điểm như: Dễ xảy ra rủi ro, sai lầm trong kinh doanh do một số công việc trong quá trình nhập khẩu không được chuẩn bị tốt như: Nghiên cứu thị trường hàng hoá trong nước, về thị trường nước ngoài, về bạn hàng, về mặt hàng kinh doanh....
2.2. Nhập khẩu uỷ thác:
Nhập khẩu uỷ thác là hình thức nhập khẩu mà trong đó công ty đóng vai trò là người trung gian và tiến hành các nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của người trong nước uỷ thác. Trong hoạt động nhập khẩu này công ty không phải sử dụng vốn của mình và sau khi hoàn thành công việc theo thoả thuận thì được hưởng phí uỷ thác.
Hình thức nhập khẩu này trước đây đóng vai trò quan trọng trong hoạt động nhập khẩu của đa số công ty xuất nhập khẩu do nhu cầu nhập khẩu của các đơn vị trong nước rất lớn, trong khi đó không phải đơn vị nào cũng có thể thực hiện nhập khẩu do họ không có chức năng hay do sự hạn chế về trình độ cán bộ, tổ chức...Bởi vậy một số công ty xuất nhập khẩu đã thực hiện nhập khẩu uỷ thác cho các đơn vị khác, góp phần vào việc giải quyết những vướng mắc đó cho các doanh nghiệp gặp khó khăn trong quá trình nhập khẩu.
Tuy nhiên hiện nay tình trạng chung ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là kim ngạch nhập khẩu uỷ thác đang giảm xuống do một số nguyên nhân sau đây: sau khi nghị định 57/CP ra đời năm 1998 và có hiệu lực thì nhiều doanh nghiệp đã có quyền nhập khẩu trực tiếp đa số các loại mặt hàng, trong khi đó nghiệp vụ trong hoạt động nhập khẩu trực tiếp ở các công ty ngày càng được hoàn thiện. Mặt khác, do phí uỷ thác cao cũng như một số nguyên nhân khác cũng làm cho hình thức nhập khẩu này khônh còn là hình thức nhập khẩu quan trọng trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
2.3. Nhập khẩu đổi hàng:
Nhập khẩu đổi hàng là hình thức nhập khẩu mà trong đó nhập khẩu kết hợp chặt chẽ với xuất khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi có giá trị tương đương, ở đây mục đích không chỉ là nhập khẩu được hàng hoá cần thiết mà còn là để tiêu thụ hàng xuất khẩu và đỡ phải vay vốn ngoại tệ.
Khi dùng hình thức nhập khẩu này, doanh nghiệp được tính cả kim ngạch nhập khẩu và kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, để đảm bảo hợp đồng được thực hiện, người ta đề ra một số biện pháp sau để đảm bảo thực hiện hợp đồng như sau:
+ Dùng thư tín dụng thương mại đối ứng.
+ Dùng người thứ ba để khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá.
+ Dùng một tài khoản đặc biệt ở ngân hàng để theo dõi việc giao hàng của hai bên và được kiểm tra, đánh giá lại ở cuối một kỳ nhất định.
+ Phạt về việc giao hàng thiếu hoặc giao hàng chậm.
2.4. Nhập khẩu tái xuất:
Nhập khẩu tái xuất là hình thức xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng hoá trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất.
Hình thức nhập khẩu này bao gồm cả hai hoạt động nhập khẩu và xuất khẩu, với mục đích thu về một số ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Hình thức nhập khẩu này có ưu điểm là nước nhập khẩu sẽ được phần lời do chênh lệch giữa giá bán với nước nhập khẩu và nước xuất khẩu, đồng thời nhận được lãi suất tiền gửi trong thời gian hàng hoá lưu chuyển giữa hai nước xuất khâủ và nhập khẩu.
Nhưng hình thức này cũng có hạn chế, đây là hình thức nhập khẩu rất khó khăn và phức tạp, đòi hỏi sự nhạy bén tình hình thị trường và giá cả, sự chính xác và chặt chẽ trong hợp đồng mua bán, ngoài ra có những quy định rất chặt chẽ của Nhà nước về hoạt động này.
Ngoài các hình thức nhập khẩu trên đây, hoạt động nhập khẩu còn có một số hình thức khác như gia công quốc tế, nhập khẩu liên doanh....
3. Vai trò của nhập khẩu:
3.1. Đối với doanh nghiệp:
Vai trò của nhập khẩu được khẳng định cùng với sự phát triển của nền kinh tế cũng như đối với các doanh nghiệp đó là:
+ Một là: Nhập khẩu giúp doanh nghiệp có được công nghệ sản xuất hiện đại để tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
+ Hai là: Thông qua nhập khẩu, doanh nghiệp có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài, dẫn đến việc hình thành các liên doanh, liên kết giữa các chủ thể trong và ngoài nước, từ đó giúp doanh nghiệp có kinh nghiệm trong công tác quản lý cũng như trong việc hoạch định các chiến lược kinh doanh.
+Ba là: Nhập khẩu giúp doanh nghiệp tăng doanh thu và lợi nhuận thông qua việc đáp ứng các nhu cầu của xã hội từ đó tăng vốn kinh doanh cho doanh nghiệp cũng như tăng thu nhập và nâng cao mức sống cho cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp.
3.2. Đối với nền kinh tế quốc gia:
Nhập khẩu là một trong hai hoạt động quan trọng của hoạt động ngoại thương nên nó tác động trực tiếp tới sản xuất và đời sống của mỗi quốc gia. Mỗi quốc gia muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế cần phải có 4 điều kiện là:
+ Nguồn nhân lực,
+ Tài nguyên,
+ Vốn,
+Kỹ thuật công nghệ.
Nhưng không phải quốc gia nào cũng có đủ 4 điều kiện trên. Bởi vậy, nhập khẩu là con đường ngắn nhất giúp các nước có được các điều kiện còn thiếu của nền kinh tế và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế. Nhập khẩu cho phép khai thác tiềm năng thế mạnh của các nước trên thế giới, bổ xung những hàng hoá mà trong nước không sản xuất được, sản xuất không đáp ứng được nhu cầu hoặc thay thế những hàng hoá mà trong nước có thể sản xuất được nhưng không hiệu quả, làm cho thị trường hàng hoá trong nước phong phú về chủng loại, quy cách và đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Nhập khẩu cũng tạo điều kiện cho phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy lợi thế so sánh của mỗi quốc gia trên cơ sở chuyên môn hoá sản xuất.
Đối với Việt Nam, một nước mà trình độ phát triển còn thấp thì vai trò của nhập khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau:
+Thứ nhất: Nhập khẩu vốn, thiết bị kỹ thuật công nghệ tiên tiến thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Nguồn vốn được nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn: đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vay nợ, các nguồn viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ trong nước.
+Thứ hai: Nhập khẩu vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, vừa đáp ứng cho các nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của nhân dân, giúp giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện và nâng cao khả năng tiêu dùng, mức sống của nhân dân.
+Thứ ba: Nhập khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy phát triển các mối quan hệ đối ngoại. Nhập khẩu thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài, cũng như góp phần hoàn thiện các cơ chế quản lý, chính sách xuất nhập khẩu của Nhà nước và của mỗi địa phương thông qua các đòi hỏi hợp lý của các chủ thể tham gia nhập khẩu trong quá trình thực hiện.
* Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, việc xuất nhập khẩu mang lại nhiều lợi ích cũng như những bất lợi cho mỗi quốc gia do nó phải đôí đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia không dễ dàng khống chế được. Vì vậy, để phát huy được vai trò của mình, hoạt động nhập khẩu phải đảm bảo một số yêu cầu nhất định, tức là các doanh nghiệp phải thực hiện đúng các nguyên tắc trong hoạt động nhập khẩu sao cho phù hợp với lợi ích của doanh nghiệp cũng như lợi ích cuả toàn xã hội:
+ Thứ nhất: nhập khẩu phải đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả trong sử dụng vốn. Là một nước đang phát triển, vốn là một trong những nhân tố mà Việt Nam đang còn thiếu, bởi vậy yêu cầu tiết kiệm là một vấn đề cơ bản của quốc gia cũng như của doanh nghiệp.
+ Thứ hai: chỉ nhập khẩu những thiết bị kỹ thuật tiên tiến hiện đại, tránh nhập khẩu những công nghệ lạc hậu mà các nước đang tìm cách thải ra hay không phù hợi với điều kiện nước ta.
+ Thứ ba: nhập khẩu nhằm bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tăng xuất khẩu. Nhập khẩu cần đi đôi với tranh thủ lợi thế của đất nước trong từng thời kỳ để thoả mãn nhu cầu trong nước, vừa bảo hộ và mở rộng sản xuất trong nước đồng thời tạo ra nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường ngoài nước và thúc đẩy xuất khẩu phát triển.
II. NHữNG NộI DUNG CHíNH CủA HOạT động nhập khẩu
Xuất nhập khẩu là việc mua bán hàng hoá, dịch vụ với nước ngoài nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu, yêu cầu doanh nghiệp phải thực hiện đúng và đầy đủ các khâu nghiệp vụ trong quá trình kinh doanh.
1. Nghiên cứu thị trường:
1.1. Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường là hoạt động đầu tiên cần thiết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thị trường. Đối với doanh nghiệp thương mại nhập khẩu để bán lại kiếm lời thì thị trường nghiên cứu bao gồm cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
* Nghiên cứu thị trường trong nước xác định mặt hàng nhập khẩu:
Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin số liệu về thị trường, so sánh và phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Từ đó giúp doanh nghiệp xác định được nhu cầu cụ thể về:
+ Mặt hàng mà thị trường trong nước cần.
+ Quy cách, chủng loại.
+ Số lượng.
+ Thời hạn tiêu dùng.
+ Giá cả.
+ Đường biểu diễn chu kỳ sống của mặt hàng.
Việc thu thập đầy đủ thông tin về thị trường trong nước có ý nghĩa rất quan trọng cho việc ra quyết định trong kinh doanh vì đây là thị trường đầu ra của doanh nghiệp.
* Nghiên cứu thị trường quốc tế;
Nghiên cứu thị trường hàng hoá quốc tế có rất nhiều ý nghĩa trong việc phát triển và nâng cao hiệu quả các quan hệ kinh tế, đặc biệt là trong công tác nhập khẩu hàng hoá của mỗi doanh nghiệp. Mục đích của công việc này là lựa chọn được nguồn hàng nhập khẩu và đối tác giao dịch một cách tốt nhất. Vì đây là thị trường nước ngoài nên việc nghiên cứu gặp phải một số khó khăn và không được kỹ lưỡng như thị trường trong nước. Doanh nghiệp cần phải biết các thông tin về:
- Môi trường kinh doanh của nước mà doanh nghiệp định nhập khẩu bao gồm :
+ Điều kiện về chính trị và pháp luật.
+ Điều kiện về kinh tế: sự phát triển của nền kinh tế, sự phát triển của ngoại thương.
+ Điều kiện về vị trí địa lý: yếu tố này cho phép doanh nghiệp giảm các chi phí vận tải, bảo hiểm.
+ Điều kiện về con người và tâm lý, tập quán thương mại.
+ Điều kiện về kỹ thuật và công nghệ.
Các điều kiện trên là những nhân tố “không thể kiểm soát được” đối với doanh nghiệp nhưng nó có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Bởi vậy, doanh nghiệp cần phải điều khiển và đáp ứng các nhân tố đó.
- Đối tác kinh doanh: trong thương mại quốc tế, bạn hàng hay khách hàng nói chung là những người có quan hệ giao dịch với doanh nghiệp nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật liên quan đến cung cấp hàng hoá. Việc lựa chọn đối tác để giao dịch dựa trên cơ sở nghiên cứu:
+ Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh để thấy được khả năng cung cấp lâu dài, thường xuyên, khả năng đặt hàng và liên doanh liên kết.
+ Sức mạnh về tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật của đối tác cho phép thấy được những ưu thế trong thoả thuận giá cả, điều kiện thanh toán.
+ Thái độ và quan điểm kinh doanh, uy tín trong quan hệ kinh doanh của đối tác.
Ngoài ra việc lựa chọn đối tác còn dựa vào kinh nghiệm của người nghiên cứu và truyền thống mua bán của doanh nghiệp.
- Xác định và dự báo các biến động của quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường thế giới:
Đây thực chất là việc nghiên cứu dung lượng thị trường hàng hoá. Nghiên cứu dung lượng thị trường hàng hoá cần xác định nhu cầu và nguồn hàng một cách thực tế, xác định toàn bộ lượng hàng hoá bán ra trên thị trường đôi với sản phẩm kể cả dự trữ, xu hướng biến động trong từng thời điểm, từng vùng và từng lĩnh vực sản xuất tiêu dùng. Cùng với việc nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường (bao gồm việc xem xét đặc điểm, tính chất, khả năng của sản xuất hàng thay thế, khả năng lựa chọn mua bán) và tính chất thời vụ của sản xuất, tiêu dùng hàng hoá đó trên thị trường thế giới để có biện pháp thích hợp cho từng giai đoạn, đảm bảo cho việc nhập khẩu có hiệu quả.
Dung lượng thị trường không ổn định, nó chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau trong những giai đoạn nhất định đó là: các nhân tố làm dung lượng thị trường biến động có tính chất chu kỳ như sự vận động của nền kinh tế, tính thời vụ của sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá. Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài như tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biện pháp, chính sách của Nhà nước, thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng, khả năng sản xuất hàng thay thế.Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường như hiện tượng đầu cơ, các yếu tố tự nhiên: thiên tai, lũ lụt, hạn hán,..., các yếu tố về chính trị-xã hội.
- Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu: xu hướng biến động giá cả của hàng hoá trên thị trường thế giới rất phức tạp. Trong cùng một thời gian, giá cả hàng hoá có thể biến động theo những hướng trái ngược nhau với những mức độ nhiều ít khác nhau. Thêm vào đó là việc nắm bắt tình hình và xu hướng biến động của giá cả thị trường thế giới là hết sức khó khăn, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Giá cả tác động trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vậy, các doanh nghiệp cần phải luôn luôn theo dõi sự biến động của giá cả, đồng thời phải có biện pháp để tính toán, xác định một cách chính xác, khoa học mức giá để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Để có thể dự đoán được xu hướng biến động giá cả của mỗi loại hàng hoá trên thị trường thế giới cần phải dựa vào kết quả nghiên cứu và dự đoán tình hình thị trường hàng hoá cũng như các nhân tố tác động đến giá.
Ngoài việc xác định tính toán giá nhập khẩu hợp lý, doanh nghiệp cần phải quan tâm đến tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu. Nếu tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu lớn hơn tỷ giá hối đoái thì việc lựa chọn mặt hàng nhập khẩu là có hiệu quả.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới trong thương mại quốc tế nói chung và nhập khẩu nói riêng là hết sức cần thiết và quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Đó là bước chuẩn bị, bước tiền đề để xuất nhập khẩu hàng hoá được thực hiện có hiệu quả do nó giúp doanh nghiệp lựa chọn được thị trường, mặt hàng kinh doanh, đối tác, giá cả, phương phức thanh toán và tín dụng, luật áp dụng.
1.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu thị trường , doanh nghiệp có thể thu thập thông tin trong và ngoài nước và có thể áp dụng một trong hai phương pháp sau để nghiên cứu:
a-Phương pháp nghiên cứu tại văn phòng:
Thực chất đây là việc thu thập thông tin từ các nguồn tư liệu, cả xuất bản và không xuất bản. Đây là phương pháp nghiên cứu phổ thông, bất kỳ doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường đều phải sử dụng phương pháp này vì nó ít tốn kém về thời gian, chi phí và cho phép doanh nghiệp có thể nhìn được khái quát thị trường mặt hàng cần nghiên cứu. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm đó là thông tin không cập nhật, mức độ tin cậy có hạn và phương pháp mang tính lý thuyết.
b-Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường:
Đây là phương pháp thu thập thông tin thông qua việc quan sát tiếp xúc với mọi người trên thương trường. Phương pháp này khắc phục được các nhược điểm của phương pháp trên nhưng đây là phương pháp nghiên cứu phức tạp và rất tốn kém, không phải doanh nghiệp nào cũng có thể thực hiện được do nó phụ thuộc vào khả năng tài chính cũng như trình độ cán bộ nghiên cứu của doanh nghiệp.
Trong quá trình nghiên cứu thị trường, cần phải kết hợp cả hai phương pháp trên để hạn chế thiếu sót và phát huy được điểm mạnh của mỗi phương pháp, từ đó nâng cao hiệu quả của công tác nghiên cứu thị trường.
2. Lập phương án kinh doanh:
Căn cứ vào những thông tin thu được trong việc nghiên cứu thị trường, lựa chọn đối tác và các quyết định, mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra để lập phương án kinh doanh.
Nội dung của nó bao gồm nhiều công việc bao gồm:
+ Xác định mặt hàng nhập khẩu
+ Xác định số lượng hàng nhập khẩu.
+ Lựa chọn thị trường, bạn hàng, phương thức giao dịch,...
+ Đề ra các phương pháp để đạt được mục tiêu kinh doanh.
+ Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập khẩu.
3. Giao dịch và ký kết hợp đồng.
Để có thể soạn thảo và đi đến ký kết hợp đồng, trước hết hai bên phải đạt được những thoả thuận chung trong buôn bán. Trong quá trình đàm phán, hai bên sẽ đưa ra những yêu cầu, ý muốn của mình để cùng xem xét, thảo luận để cùng thống nhất làm căn cứ để soạn thảo một hợp đồng.
Thông thường có ba hình thức đàm phán là:
- Đàm phán qua thư tín: hai bên tiến hành giao dịch trao đổi thông qua thư từ, điện tín.
- Đàm phán qua điện thoại.
- Đàm phán bằng gặp gỡ trực tiếp: hai bên tiến hành trực tiếp gặp gỡ, trao đổi, bàn bạc, thống nhất và ký kết hợp đồng.
Hình thức đàm phán qua thư tín, điện thoại chỉ được sử dụng trong trường hợp đối tác là bạn hàng lâu năm, quan hệ tốt. Gặp gỡ trực tiếp để đàm phán thường áp dụng đối với những hợp đồng có giá trị lớn, nội dung phức tạp, có nhiều khoản phải giải thích cặn kẽ.
Mỗi hình thức giao dịch đều có những ưu điểm và hạn chế khác nhau, tuỳ theo từng trường hợp mà doanh nghiệp sử dụng các hình thức trên sao cho có được hiệu quả cao nhất.
* Trong buôn bán quốc tế, những bước giao dịch chủ yếu thường diễn ra như sau:
1- Hỏi giá: đây là việc người mua đề nghị người bán báo cho mình giá cả và các điều kiện để mua hàng.
Nội dung của hỏi giá có thể gồm: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng mong muốn. Giá cả mà người mua có thể trả cho mặt hàng đó thường được giữ kín, nhưng để tránh mất thời gian hỏi đi hỏi lại, người mua nên nêu rõ điều kiện mà mình mong muốn để làm cơ sở cho việc định giá như: loại tiền thanh toán, phương thức thanh toán, điều kiện cơ sở giao hàng....
Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm của người hỏi giá song không nên hỏi quá nhiều nơi vì như vậy sẽ tạo ra cơn sốt ảo về mặt hàng đó mà diều này không có lợi cho người mua.
2- Phát giá hay còn gọi là chào hàng: là việc người bán thể hiện rõ ý định bán hàng của mình. Trong chào hàng người bán nêu rõ: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, giá cả, điều kiện cơ sở giao hàng, thời hạn giao hàng, thể thức giao nhận hàng, điều kiện thanh toán...
Có hai loại chào hàng là:
+ Chào hàng cố định: là việc chào bán một loại hàng nhất định cho một người mua nhất định. Nếu người mua chấp nhận chào hàng đó thì hợp đồng coi như được giao kết. Người chào hàng bị ràng buộc trách nhiệm vào lời đề nghị của mình.
+ Chào hàng tự do: là việc chào bán một lô hàng cho nhiều khách hàng. Việc khách hàng chấp nhận hoàn toàn điều kiện của chào hàng tự do không có nghĩa là hợp đồng được ký kết. Người mua cũng không thể trách người bán nếu sau đó người bán không ký kết hợp đồng với mình vì chào hàng tự do không ràng buộc trách nhiệm của người phát ra nó.
3 - Đặt hàng: lời đề nghị ký kết hợp đồng từ phía người mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng. Trong đặt hàng người mua nêu cụ thể về hàng hoá định mua và tất cả những nội dung cần thiết liên quan đến việc ký kết hợp đồng.
Trên thực tế, người ta chỉ đặt hàng với những khách hàng có quan hệ thường xuyên.
4- Hoàn giá: là mặc cả về giá cả hoặc các điều kiện giao hàng. Khi người nhận được chào hàng không chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó sẽ đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị mới này gọi là trả giá. Trong buôn bán quốc tế, mỗi lần giao dịch thường trải qua nhiều lần trả giá mới đi đến kết thúc. Như vậy hoàn giá bao gồm nhiều sự trả giá.
5 - Chấp nhận: là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng (hoặc đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra. Khi đó hợp đồng được xác lập.
6- Xác nhận: sau khi hai bên đã thống nhất thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch, có ghi lại mọi điều đã thoả thuận rồi gửi cho bên kia thì đó là văn bản xác nhận. Xác nhận thường được lập thành hai bản, bên lập xác nhận ký trước rồi gửi cho bên kia. Bên kia ký xong giữ lại một bản và gửi trả lại một bản.
Sau khi giao dịch đàm phán, nếu hai bên có thiện chí và có được tiếng nói chung thì sẽ đi đến ký kết hợp đồng mua bán.
4. Hợp đồng nhập khẩu
Hợp đồng mua bán quố
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 103010.doc