Trong thời đại ngày nay, những bước tiến kỳ diệu và những thành tựu to lớn của khoa học và công nghệ tác động sâu sắc đến sự phát triển của xã hội loài người. Đối với nước ta, khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ quản lý của Nhà nước và tiềm lực lãnh đạo của Đảng.
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội những năm qua của nước ta, khoa học công nghệ tiếp tục phát triển đã hướng vào nghiên cứu ứng dụng bước đầu phát huy vai trò động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Lực lượng khoa học đã góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho các chủ trương phát triển kinh tế, đóng góp tích cực vào việc soạn thảo cương lĩnh, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Rất nhiều thành tựu khoa học được ứng dụng trong thực tế đã tác động tích cực đến phát triển kinh tế sản xuất trong nhiều lĩnh vực trên nhiều vùng kinh tế của đất nước. Cơ chế quản lý khoa học công nghệ đã bước đầu được đổi mới nhằm gắn hoạt động khoa học công nghệ với sản xuất và đời sống, mở rộng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các tập thể và cơ quan khoa học.
Trong thời gian qua, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, nhiều văn bản quan trọng về định hướng chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển khoa học và công nghệ đã được ban hành: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII (1996); Luật Khoa học và Công nghệ (2000); Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 khoá IX (2002); Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010 (2003); và nhiều chính sách cụ thể khác về xây dựng tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ.
Tuy nhiên, trình độ khoa học và công nghệ của nước ta hiện nay nhìn chung còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực, năng lực sáng tạo công nghệ mới còn hạn chế, vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước và đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển kinh tế tri thức trên thế giới. Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ ra những hạn chế cơ bản của hoạt động khoa học và công nghệ hiện nay là: “Chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt động của các ngành kinh tế, xã hội; chậm đưa vào ứng dụng những kết quả đã nghiên cứu được; trình độ khoa học và công nghệ của ta còn thấp nhiều so với các nước xung quanh; năng lực tạo ra công nghệ mới còn rất có hạn. Các cơ quan nghiên cứu khoa học chậm được sắp xếp cho đồng bộ, còn phân tán, thiếu phối hợp, do đó đạt hiệu quả thấp. Các viện nghiên cứu và các doanh nghiệp, các trường đại học chưa gắn kết với nhau. Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật thiếu tập trung và dứt điểm cho từng mục tiêu. Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao tuy còn ít, song chưa được sử dụng tốt.”
Mục tiêu của Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010 là: “Tập trung xây dựng nền khoa học và công nghệ nước ta theo hướng hiện đại và hội nhập, phấn đấu đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực vào năm 2010, đưa khoa học và công nghệ thực sự trở thành nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.”
Để đạt được mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ nước ta đến năm 2010, phải đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, tạo bước chuyển biến căn bản trong quản lý khoa học và công nghệ theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ, với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm nâng cao rõ rệt chất lượng, hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ; tăng cường và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học và công nghệ.
Chính vì vậy việc nghiên cứu chuyển đổi Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng (Viện KHCNXD) từ tổ chức Khoa học Công nghệ sự nghiệp có thu thành tổ chức Khoa học Công nghệ tự trang trải kinh phí là cần thiết để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
109 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1147 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Hoàn thiện giải pháp chuyển đổi Viện KHCNXD từ tổ chức Khoa học Công nghệ sự nghiệp có thu thành tổ chức Khoa học Công nghệ tự trang trải kinh phí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH: Công nghiệp hóa
HĐH: Hiện đại hóa
Viện KHCNXD: Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng
KHCN: Khoa học Công nghệ
KH&CN: Khoa học và công nghệ
TCVN: Tiêu chuẩn Việt Nam
TVGS: Tư vấn giám sát
NCCB: Nghiên cứu cơ bản
CLCS: Chiến lược chính sách
KTKT: Kinh tế kỹ thuật
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Bảng thống kê tài sản đến 30/6/2006
Bảng 2.2. Bảng số liệu tài chính các năm 2004-2006
Bảng 2.3. Kết quả sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong các năm 2001-2005
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ SƠ ĐỒ
H2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức
H3.1. Dự kiến cơ cấu tổ chức Viện KHCNXD sau khi chuyển đổi
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Trong thời đại ngày nay, những bước tiến kỳ diệu và những thành tựu to lớn của khoa học và công nghệ tác động sâu sắc đến sự phát triển của xã hội loài người. Đối với nước ta, khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao trình độ quản lý của Nhà nước và tiềm lực lãnh đạo của Đảng.
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội những năm qua của nước ta, khoa học công nghệ tiếp tục phát triển đã hướng vào nghiên cứu ứng dụng bước đầu phát huy vai trò động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Lực lượng khoa học đã góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho các chủ trương phát triển kinh tế, đóng góp tích cực vào việc soạn thảo cương lĩnh, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội... Rất nhiều thành tựu khoa học được ứng dụng trong thực tế đã tác động tích cực đến phát triển kinh tế sản xuất trong nhiều lĩnh vực trên nhiều vùng kinh tế của đất nước. Cơ chế quản lý khoa học công nghệ đã bước đầu được đổi mới nhằm gắn hoạt động khoa học công nghệ với sản xuất và đời sống, mở rộng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các tập thể và cơ quan khoa học.
Trong thời gian qua, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, nhiều văn bản quan trọng về định hướng chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển khoa học và công nghệ đã được ban hành: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII (1996); Luật Khoa học và Công nghệ (2000); Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 khoá IX (2002); Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010 (2003); và nhiều chính sách cụ thể khác về xây dựng tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ.
Tuy nhiên, trình độ khoa học và công nghệ của nước ta hiện nay nhìn chung còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực, năng lực sáng tạo công nghệ mới còn hạn chế, vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước và đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển kinh tế tri thức trên thế giới. Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ ra những hạn chế cơ bản của hoạt động khoa học và công nghệ hiện nay là: “Chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt động của các ngành kinh tế, xã hội; chậm đưa vào ứng dụng những kết quả đã nghiên cứu được; trình độ khoa học và công nghệ của ta còn thấp nhiều so với các nước xung quanh; năng lực tạo ra công nghệ mới còn rất có hạn. Các cơ quan nghiên cứu khoa học chậm được sắp xếp cho đồng bộ, còn phân tán, thiếu phối hợp, do đó đạt hiệu quả thấp. Các viện nghiên cứu và các doanh nghiệp, các trường đại học chưa gắn kết với nhau. Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật thiếu tập trung và dứt điểm cho từng mục tiêu. Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao tuy còn ít, song chưa được sử dụng tốt.”
Mục tiêu của Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010 là: “Tập trung xây dựng nền khoa học và công nghệ nước ta theo hướng hiện đại và hội nhập, phấn đấu đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực vào năm 2010, đưa khoa học và công nghệ thực sự trở thành nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.”
Để đạt được mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ nước ta đến năm 2010, phải đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, tạo bước chuyển biến căn bản trong quản lý khoa học và công nghệ theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ, với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm nâng cao rõ rệt chất lượng, hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ; tăng cường và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học và công nghệ.
Chính vì vậy việc nghiên cứu chuyển đổi Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng (Viện KHCNXD) từ tổ chức Khoa học Công nghệ sự nghiệp có thu thành tổ chức Khoa học Công nghệ tự trang trải kinh phí là cần thiết để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu hoàn thiện giải pháp chuyển đổi Viện KHCNXD từ tổ chức Khoa học Công nghệ sự nghiệp có thu thành tổ chức Khoa học Công nghệ tự trang trải kinh phí.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn của việc chuyển đổi Viện KHCNXD, đánh giá thực trạng khoa học công nghệ (KHCN), thực trạng hoạt động của Viện KHCNXD. Trên cơ sở nghiên cứu đề án chuyển đổi Viện KHCNXD nghiên cứu giải pháp hoàn thiện trong việc chuyển đổi.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát số liệu, phân tích tổng hợp, tham khảo ý kiến chuyên gia, biện chứng, logic lịch sử.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn nghiên cứu có giá trị ứng dụng để hoàn thiện cơ sở lý luận, đề xuất những định hướng, giải pháp hoàn thiện việc chuyển đổi Viện KHCNXD và có thể tham khảo cho việc chuyển đổi những tổ chức KHCN tương tự.
6. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm:
Mở đầu
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc chuyển đổi Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng
Chương 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng
Chương 3. Phân tích, đánh giá đề án chuyển đổi Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC CHUYỂN ĐỔI VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
1.1 Một số khái niệm cơ bản về KHCN [19, 31]
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. KHCN đóng góp vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới phát triển kinh tế ở nước ta. Để thấy rõ vai trò đó của KHCN cần làm rõ một số khái niệm cơ bản về KHCN.
Hiện nay, một số khái niệm cơ bản về KHCN ở các nước khác nhau được hiểu với các góc độ khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu và cách tiếp cận. Ở đây tác giả chỉ trình bày các khái niệm đó theo quan điểm của UNESCO.
Khoa học (Science): Theo Tổ chức văn hóa – Khoa học – Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO), khoa học là một hệ thống các tri thức của nhân loại về các phạm trù, quy luật vận động và phát triển khách quan của thế giới tự nhiên, xã hội và bản thân con người; là một loại hình hoạt động xã hội đặc biệt nhằm đạt tới những hiểu biết mới và vận dụng những hiểu biết đó vào sản xuất và đời sống trong những điều kiện kinh tế, văn hóa và xã hội nhất định. Tri thức khoa học biểu hiện chủ yếu dưới hình thức các phạm trù, định luật và quy luật. Đối tượng nhận thức của khoa học rất rộng lớn, bao gồm mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Công nghệ (Technology): là tổng thể các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất, chế tạo hoặc dịch vụ công nghiệp, dịch vụ quản lý.
Trong những ngày đầu CNH, người ta sử dụng phổ biến thuật ngữ kỹ thuật (Technique) với ý nghĩa là các giải pháp thực hiện một loại công việc hay công cụ được sử dụng trong sản xuất làm tăng hiệu quả sản xuất. Tiếp đó xuất hiện thuật ngữ công nghệ sản xuất, lúc đầu nó được hiểu là quy trình kỹ thuật dùng trong dây chuyền sản xuất về sau khái niệm này được hiểu theo nghĩa rộng hơn và ổn định như ngày nay. Công nghệ là kết quả của quá trình áp dụng các thành tựu của khoa học vào sản xuất. Công nghệ là sản phẩm của lao động trí tuệ sáng tạo của con người trong lĩnh vực sản xuất. Công nghệ được coi là phương tiện, công cụ để biến đổi thế giới tự nhiên phù hợp với lợi ích của con người; là tác nhân chủ chốt trong quá trình khai thác và chế biến tài nguyên thiên nhiên thành hàng hoá và dịch vụ. Nói cách khác, công nghệ gồm hai phần: “phần cứng” và “phần mềm”. Phần cứng bao gồm: máy móc, thiết bị, nhà xưởng... Phần mềm bao gồm: đội ngũ nhân lực có sức khoẻ, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm sản xuất,...; thông tin về quy trình sản xuất, bản vẽ, thuyết minh, chỉ dẫn kỹ thuật; trình độ tổ chức quản lý, điều hành sản xuất của ban quản lý,...
Khái niệm công nghệ được sử dụng rộng rãi vào tất cả các lĩnh vực của cuộc sống con người. Công nghệ được dùng không chỉ trong sản xuất vật chất mà còn trong các hoạt động xã hội: Công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ quản lý, công nghệ giáo dục,...
Hoạt động khoa học là tất cả các hoạt động có hệ thống, liên quan chặt chẽ đến việc nâng cao, truyền bá và ứng dụng các kiến thức khoa học vào đời sống và sản xuất. Nội dung chủ yếu của hoạt động khoa học bao gồm: Hoạt động nghiên cứu KHCN và dịch vụ KHCN.
Trong các hoạt động nghiên cứu KHCN được chia ra thành các hoạt động chủ yếu sau đây: hoạt động nghiên cứu cơ bản, hoạt động nghiên cứu ứng dụng, hoạt động nghiên cứu triển khai, hoạt động nghiên cứu công nghệ.
Hoạt động nghiên cứu cơ bản là nhằm nghiên cứu những kiến thức mới về các hiện tượng tự nhiên và xã hội, không phụ thuộc vào bất cứ sự quan tâm nào tới việc ứng dụng trong thực tế kinh tế - xã hội.
Hoạt động nghiên cứu ứng dụng là nhằm đạt được những kiến thức mang tính thực tiễn, trong những điều kiện cụ thể có tính đặc thù. Như vậy, khác với nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng là nghiên cứu mà mang tính ứng dụng đã được đặt ra trước.
Hoạt động nghiên cứu triển khai là hoạt động có hệ thống nhằm vận dụng và ứng dụng các kiến thức khoa học hoặc kinh nghiệm thực tiễn để sản xuất ra những sản phẩm mới (thiết bị, kỹ thuật, vật liệu, các chất tổng hợp,...) để đưa ra các phương pháp tiến hành mới hoặc hoàn thiện những gì đã đưa vào sản xuất bằng các ứng dụng KHCN. Hoạt động nghiên cứu triển khai là một trong những bộ phận quan trọng của hoạt động KHCN.
Hoạt động nghiên cứu công nghệ là hoạt động nghiên cứu nhằm đạt được những hiểu biết và thực hành để thiết lập nên những quy trình sản xuất dựa trên các nguyên lý khoa học trong mọi lĩnh vực kỹ thuật.
1.2 Cơ sở lý luận của việc chuyển đổi
1.2.1 Khái quát những đặc điểm kinh tế xã hội [1, 20]
Cho tới đầu những năm 80, nền kinh tế nước ta đã vận động theo cơ chế chỉ huy với mô hình chủ yếu là kế hoạch hoá và tập trung hoá cao độ. Nền kinh tế phát triển mang nặng tính tự cung tự cấp, các yếu tố sản xuất hàng hoá còn yếu, chưa phát triển, các yếu tố thị trường mới sơ khai, thiếu đồng bộ lại quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung cứng nhắc nên đã phát sinh sự mất cân đối, lạm phát cao dẫn đến khủng hoảng và sự tăng trưởng kinh tế chậm. Những mâu thuẫn nội tại từ nền kinh tế nước ta đòi hỏi phải đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng và thúc đẩy các yếu tố sản xuất hàng hoá phát triển.
Nền kinh tế chỉ huy tồn tại ở nước ta đã huy động một bộ phận nguồn lực cho sự phát triển ban đầu, nhưng mô hình này bị khép kín, kém hiệu quả, không phù hợp với xu hướng quốc tế hoá các quan hệ kinh tế của thế giới.
Trong giai đoạn phát triển mới, cơ chế chỉ huy ngày càng bộc lộ những mâu thuẫn và bế tắc. Đại hội VI đã bắt đầu và đại hội VII đã phát triển những chủ trương đổi mới với việc chuyển nền kinh tế vận động theo cơ chế chỉ huy trước đây sang nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường.
Sự hoà nhập trong phân công lao động quốc tế cùng với thành quả của tiến bộ KHCN của thế giới về công nghệ, về quản lý, về chất lượng và phát triển môi trường cũng yêu cầu phải chuyển nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường là tất yếu.
Những cải cách chủ yếu trong giai đoạn đầu là:
Đổi mới một bước quan trọng cơ chế kế hoạch hoá theo hướng thu hẹp tập trung, mở rộng tự chủ kế hoạch và tự chủ về chiến lược sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở.
Cải cách hệ thống giá cả theo hướng tự chủ về giá của các đơn vị sản xuất kinh doanh, hoà nhập từng bước giá đầu vào và giá đầu ra vào cơ chế thị trường.
Cải cách hệ thống tài chính theo hướng tự chủ tài chính của các đơn vị sản xuất kinh doanh, tách dần tài chính Nhà nước với tài chính doanh nghiệp; chế độ thuế thay các khoản thu từ kinh tế quốc doanh; tín dụng hoá vốn đầu tư; những cải cách trong lĩnh vực kế toán thống kê, thu chi ngân sách, ...
Cải cách hoạt động ngân hàng, đưa ngân hàng vào hoạt động kinh doanh, bước đầu áp dụng cơ chế thị trường trong điều tiết lưu thông tiền tệ.
Đổi mới chính sách lao động và tiền lương.
Ban hành và thực hiện luật và các văn bản dưới luật về khu vực kinh tế tư nhân, về hợp tác và đầu tư với nước ngoài.
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nội dung cơ bản về đổi mới của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tuy thời gian chưa dài nhưng các yếu tố cho sự tăng trưởng kinh tế thực tế đang phát triển. Thực tiễn đó cũng là cơ sở khoa học chứng minh tất yếu của sự chuyển đổi nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường là phù hợp với quy luật của xã hội và đạt được mục tiêu của nước ta là chủ nghĩa xã hội, ổn định và tăng trưởng kinh tế là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2.2. Vai trò của KHCN trong việc đổi mới nền kinh tế ở nước ta [1, 12, 16, 17, 18, 22, 25]
1.2.2.1. Mối tương tác giữa KHCN với kinh tế
KHCN không sinh ra như một vật tự nó mà bắt nguồn từ nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới của xã hội loài người. Trong thế giới hiện đại từ nhà kinh doanh muốn giành ưu thế trong cạnh tranh đến các nhà lãnh đạo quốc gia muốn đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu đều phải tìm câu trả lời trong những chính sách cụ thể và phát triển các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu KHCN.
Đồng thời KHCN thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế tạo điều kiện thay đổi chiến lược tái sản xuất từ giản đơn sang phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Hiện nay ta đang trên đà cải cách toàn diện về mặt kinh tế và xã hội, mà điểm cốt lõi về cải cách kinh tế là chuyển từ một nền kinh tế chỉ huy tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Đi đôi với cải cách kinh tế là cải cách trong hệ thống chính trị mà đặc biệt điểm quan trọng nhất như trong đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã đề ra mục tiêu “Huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho CNH-HĐH đất nước, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”
Bối cảnh chính trị xã hội đã quy định nội dung của những bước phát triển trong chính sách KHCN, và có thể nói chính sách KHCN cũng đã và đang trải qua những cuộc cải cách với đầy đủ những nét đặc trưng cơ bản công cuộc cải cách kinh tế và xã hội.
Trong nền kinh tế chỉ huy tập trung, do vai trò lãnh đạo của nhà nước chi phối mọi hoạt động kinh tế và xã hội nên mọi hoạt động KHCN cũng được quan niệm là một hoạt động do nhà nước độc quyền chủ trì. Nhà nước lập kế hoạch nghiên cứu và áp dụng kết quả nghiên cứu cho toàn xã hội và do vậy ngân sách nhà nước được cấp cho mọi hoạt động KHCN trong xã hội. Mặc dù trên hình thức nhà nước lập kế hoạch nghiên cứu, nhưng trong thực tế thì đó cũng là những sáng kiến nghiên cứu của các nhà khoa học công nghệ được đưa lên từ cấp cơ sở, sau đó được “Nhà nước hoá” thông qua một hệ thống xem xét và phê duyệt theo thang bậc quản lý hành chính.
Cùng với những biến động và khủng hoảng kinh tế xã hội trong các nước có nền kinh tế chỉ huy, hệ thống KHCN cũng ngày càng bộc lộ tính kém hiệu quả và cuối cùng nó đã phải bước vào những công cuộc cải cách cùng với hệ thống kinh tế xã hội.
Ở nước ta mạng lưới các tổ chức KHCN có những biến động và cải cách khá tương đồng cả trên nội dung và các bước phát triển.
a. Sự tác động của KHCN đối với kinh tế thị trường
Nước ta là một nước nông nghiệp với điểm xuất phát thấp về lực lượng sản xuất, về trình độ xã hội hoá lao động và xã hội hoá sản xuất. Sự thấp kém này đã kìm hãm quá trình chuyển biến nền kinh tế nặng tính tự cấp tự túc sang kinh tế thị trường. Việc phát triển KHCN chính là để thay đổi về chất lực lượng sản xuất và nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất của đất nước nhằm thúc đẩy quá trình chuyển biến nền kinh tế từ chậm phát triển sang phát triển, chuyển nền kinh tế bao cấp kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Dưới tác động của KHCN làm biến đổi về chất lực lượng sản xuất theo hướng thực hiện từng bước chiến lược đồng bộ hoá giữa tư liệu sản xuất hiện đại với con người hiện đại, nhằm nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. Đến lượt nó lại tác động làm biến đổi sở hữu và cơ chế kinh tế ở nước ta từ độc quyền độc tôn sang sở hữu hỗn hợp đa dạng, từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Mặt khác, dưới tác động của KHCN theo hướng đã xác định đã làm cho nền kinh tế thị trường ở nước ta từng bước thích nghi với tốc độ nhanh của xu hướng quốc tế hoá các quan hệ kinh tế trên thế giới.
Phát triển KHCN đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế qua sự phân công lao động làm thay đổi từng bước cơ cấu ngành, vùng; thay đổi chiến lược kinh doanh, thay đổi sự hình thành cơ cấu giá trị hàng hóa, nhất là trong các ngành công nghiệp mới.
Sự tác động của kinh tế thị trường đối với sự phát triển KHCN
Nền kinh tế thị trường được xây dựng sẽ có sự tác động tích cực đến sự phát triển KHCN. Chính nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải xác định vai trò then chốt thực sự của KHCN và KHCN là động lực quan trọng nhất đối với lực lượng sản xuất ở nước ta.
Kinh tế thị trường đã thúc đẩy trình độ phát triển lực lượng sản xuất và xã hội hoá sản xuất được thể hiện ở chỗ:
Cơ cấu lao động nhiều trình độ, hình thành lực lượng mũi nhọn gắn với công nghệ mới hiện đại được lựa chọn để đi thẳng vào nguyên tắc của công nghệ.
Đối tượng lao động ở trong nước được khai thác ngày càng nhiều và sử dụng nguyên liệu nhân tạo.
Từng bước mở rộng phân công lao động và hợp tác sản xuất, lao động trong nước và trên thế giới.
Kinh tế thị trường tác động đã làm thay đổi hẳn cơ cấu kinh tế với việc đa dạng sở hữu, thúc đẩy hình thành cơ cấu công - nông - dịch vụ hiện đại gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng, ngành kết cấu hạ tầng sản xuất được ưu tiên đầu tư theo hướng hiện đại và đã từng bước xuất hiện những ngành công nghệ mới, các khu chế xuất, vùng kinh tế đặc biệt và đô thị hoá tập trung.
Đặc biệt, dưới sự tác động của kinh tế thị trường đã làm thay đổi trình độ văn minh, góp phần vượt qua văn minh nông nghiệp đi lên trong sự gắn bó với hai nền văn minh công nghệ và văn minh trí tuệ.
c. Sự phát triển KHCN gắn bó với công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Lịch sử đã khẳng định rằng trong quá trình từ sản xuất nhỏ thủ công lạc hậu lên sản xuất lớn hiện đại, CNH là bước đi tất yếu mà mỗi dân tộc đều phải trải qua. Trong thời đại hiện nay, CNH bao hàm trong đó cả HĐH trong tất cả các lĩnh vực, các ngành kinh tế quốc dân.
HĐH chính là cách thức dùng sự phát triển hiện đại mà thế giới đã đạt được qua cải tạo và chuyển giao công nghệ cho đất nước. Đó là cách thực hiện cách mạng khoa học công nghệ gắn với quá trình phân công lao động quốc tế một cách có hiệu quả.
Kinh nghiệm CNH ở nhiều nước trên thế giới cho thấy cái cốt lõi của CNH là sự đổi mới kỹ thuật (phần cứng) và công nghệ (phần mềm), chuyển từ kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, năng suất và hiệu quả kinh tế xã hội thấp lên trình độ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến hiện đại có năng suất và hiệu quả kinh tế - xã hội cao trong các ngành kinh tế quốc dân.
CNH là bước phát triển tất yếu mà mỗi nước phải trải qua. Nó là quá trình thực hiện phương pháp công nghiệp trong các ngành và các lĩnh vực kinh tế quốc dân, là quá trình phát triển kỹ thuật và công nghệ hiện đại trong sản xuất kinh doanh.
Như vậy, thực chất CNH là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghệ trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh chóng, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế.
Trên thế giới cách mạng KHCN diễn ra mạnh mẽ, tác động tích cực, sâu sắc toàn diện đến đời sống kinh tế. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy quá trình công nghiệp hoá ở từng nước và từng nhóm nước có những đặc điểm rất khác nhau. Việc nghiên cứu sự đa dạng, tìm ra những nét chung nhất mang tính quy luật và những nét đặc thù riêng biệt của mỗi nhóm nước, có một ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn một chiến lược CNH tích cực, thích hợp với điều kiện phát triển về trình độ KHCN cụ thể ở từng nước.
Ở nước ta CNH, HĐH nền kinh tế là mục tiêu chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội phấn đấu vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của Đảng và nhà nước ta là: thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Đây là nhiệm vụ trọng tâm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới. Bởi vì CNH, HĐH là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội bảo vệ độc lập chủ quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn cho thấy sự nghiệp CNH được thực hiện nhanh hay chậm, có hay không có hiệu quả kinh tế xã hội cao là tuỳ thuộc rất nhiều vào phạm vi nhịp độ, hiệu quả của việc ứng dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất và đời sống. Việc phát triển sự nghiệp nghiên cứu và ứng dụng KHCN đáp ứng yêu cầu phát triển trước mắt cũng như lâu dài trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân ở nước ta là một đòi hỏi khách quan và là một yếu tố rất cơ bản đảm bảo sự tiến bộ về kinh tế và xã hội vì: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2.2.2. Sự thích ứng của việc đổi mới quản lý hoạt động KHCN với đổi mới phát triển kinh tế
Quản lý và cơ chế quản lý
Quản lý là một yếu tố không thể thiếu được trong đời sống và sự phát triển của xã hội loài người, là hoạt động có ý nghĩa quan trọng nhất trong các hoạt động của con người. Quản lý có nghĩa là hiệu quả, bởi vì con người không chỉ cần và biết sản xuất ra sản phẩm gì, mà điều quan trọng hơn là phải biết sản xuất ra sản phẩm đó với giá nào và ai sẽ là người tiêu thụ.
Hoạt động KHCN là lao động xã hội đặc biệt, được tiến hành trên quy mô khá lớn, có mối quan hệ hữu cơ với lao động sản xuất và đời sống xã hội. Cơ chế quản lý KHCN phải phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế trong từng giai đoạn phát triển kinh tế quốc dân. Cơ chế quản lý kinh tế phải mở đường cho hoạt động KHCN, phát huy được tác dụng tích cực của mình đối với phát triển kinh tế và tạo được môi trường, điều kiện để KHCN phát huy được vai trò động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Cơ chế quản lý kinh tế bao gồm các nội dung chủ yếu sau: Xác định đường lối, chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và xác định phương hướng phát triển nền kinh tế quốc dân; Tổ chức nền kinh tế - xã hội (cơ cấu tổ chức, bộ máy, cán bộ thông tin); Xác định phương thức trao đổi giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu; Sử dụng các đòn bẩy kinh tế và giải quyết đúng vấn đề phân chia lợi ích kinh tế; Hạch toán, đánh giá hiệu quả; Chính sách, biện pháp quản lý cụ thể.
Cũng như cơ chế quản lý chung, cơ chế quản lý KHCN của Nhà nước là phương thức điều hành hệ thống KHCN quốc gia phù hợp với quy luật khách quan của tiến trình phát triển KHCN của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại, phù hợp với đặc điểm của hoạt động KHCN, với chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, được thể hiện thành thể chế, luật lệ quy định, ... ràng buộc đối với các đơn vị, cá nhân tiến hành các hoạt động KHCN nhằm đạt được mục tiêu, chiến lược phát triển KHCN đặt ra một cách tốt nhất trong môi trường trong và ngoài nước đầy các biến động.
Tương tự như cơ chế quản lý kinh tế, cơ chế quản lý KHCN bao hàm các nội dung sau: Đường lối, chiến lược, mục tiêu phát triển KHCN; Bố trí cơ cấu tổ chức hệ thống KHCN (hệ thống tổ chức hoạt động và quản lý KHCN) bao gồm việc bố trí mạng lưới các cơ quan, các đơn vị KHCN trong cả nước theo hướng tiếp cận thị trường, theo các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, lợi ích của mỗi đơn vị, cơ quan, nhằm thực hiện đường lối, chiến lược, mục tiêu phát triển KHCN; Xác định phương thức trao đổi giữa đầu vào và đầu ra của các cơ quan, đơn vị hoạt động KHCN trong môi trường kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo hướng gắn KHCN với sản xuất với môi trường kinh tế - xã hội; Chính sách KHCN (hạch toán đối với KHCN, sở hữu công nghiệp, thương mại hóa KHCN, các biện pháp về khen thưởng, kỷ luật, các công cụ quản lý khác,...); Khai thác và sử dụng thời cơ KHCN; Lựa chọn phương pháp và nghệ thuật quản lý KHCN.
Tính tất yếu phải sắp xếp lại tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý KHCN
Trong thời đại hiện nay không một lĩnh vực nào không chịu sự tác động mạnh mẽ của KHCN. Cuộc cách mạng KHCN hiện đại đang làm chuyển biến sâu sắc nền k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2607.doc