Đề tài Giới trong phát triển nông thôn

Gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hoá - xã hội đặc thù.

Gia đình được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục. giữa các thành viên.

Với tư cách một hình thức cộng đồng tổ chức đời sống xã hội, gia đình được hình thành từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài.

Gia đình được xuất phát từ nhu cầu bảo tồn và duy trì nòi giống, từ sự cần thiết phải nương tựa vào nhau để sinh tồn.

Từ các hình thức quần tụ giữa nam giới và nữ giới, tổ chức đời sống gia đình đã xuất hiện.

Lịch sử nhân loại đã trải qua một số hình thức gia đình: gia đình đối ngẫu, gia đình một vợ một chồng.

 

doc14 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 1download
Nội dung tài liệu Đề tài Giới trong phát triển nông thôn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TỔNG QUAN GIỚI TRONG GIA ĐÌNH I. Cơ sở lý luận 1.1. Những khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm gia đình Gia đình là một trong những hình thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của con người, một thiết chế văn hoá - xã hội đặc thù. Gia đình được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục... giữa các thành viên. Với tư cách một hình thức cộng đồng tổ chức đời sống xã hội, gia đình được hình thành từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Gia đình được xuất phát từ nhu cầu bảo tồn và duy trì nòi giống, từ sự cần thiết phải nương tựa vào nhau để sinh tồn. Từ các hình thức quần tụ giữa nam giới và nữ giới, tổ chức đời sống gia đình đã xuất hiện. Lịch sử nhân loại đã trải qua một số hình thức gia đình: gia đình đối ngẫu, gia đình một vợ một chồng... 1.1.2. Khái niệm về giới tính: Giới tính là sự khác biệt về đặc tính sinh học giữa phụ nữ và nam giới. Sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá trình tái sản xuất nòi giống. Vai trò sinh học đó là đồng nhất, phổ biến và không thay đổi. Sự khác biệt về đặc tính sinh học có ngay từ khi hình thành bào thai, được xác định bởi tự nhiên. Đây chính là sự bẩm sinh. Tính đồng nhất thể hiện ở chỗ nam hay nữ dù ở bất kỳ nơi nào cũng có cấu tạo sinh học giống nhau. Chức năng tái sản xuất giống nòi của nam và nữ không thể chuyển đổi cho nhau. (Giáo trình Giới trong phát triển nông thôn, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2009) 1.1.3 Khái niệm về giới Giới là sự khác biệt giữa nam và nữ về góc độ xã hội, sự khác nhau do xã hội quyết định, các mối quan hệ do xã hội xác lập. Vai trò của giới được xác định bởi các đặc tính xã hội, văn hóa và kinh tế, được nhận thức bởi các thành viên trong xã hội đó. Do vậy vai trò của giới có sự biến động và thay đổi qua không gian và thời gian. (Trần Thị Quế, 1999 và Nancy J. Hafkin, 2002). Sự thay đổi các quan hệ về giới tùy theo các nhân tố xã hội trong từng bối cảnh cụ thể như giai cấp, dân tộc, tuổi… Những đặc trưng cơ bản của giới tính đó là do dạy và học mà có, đa dạng, luôn thay đổi và có thể thay đổi được. 1.2. Vai trò giới 1.2.1. Khái niệm vai trò giới Vai trò giới là những công việc và hoạt động cụ thể mà phụ nữ và nam giới thực tế đang làm. Thường thì đây cũng là những hoạt động mà xã hội mong muốn ở mỗi cá nhân. 1.2.2. Phân loại vai trò giới - Vai trò sản xuất: Hoạt động sản xuất tạo ra thu nhập trong gia đình bao gồm sản xuất hàng hóa có giá trị trao đổi, sản xuất vừa có ý nghĩa tiêu dùng tại gia đình, có tính sử dụng nhưng cũng có giá trị trao đổi tiềm tàng. Trong nông nghiệp và nông thôn thì vai trò sản xuất liên quan đến quyết định sản xuất kinh doanh (bao nhiêu? như thế nào?), quá trình tổ chức sản xuất ( chủ thể điều hành, phương thức điều hành), quản lý rủi ro và tận dụng cơ hội trong kinh doanh và quản lý thành quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. - Vai trò tái sản xuất: Thể hiện trong việc tái sinh, duy trì nòi giống, tái sản xuất sức lao động. Đây là một vai trò rất quan trọng của giới trong gia đình, là vai trò xuyên suốt, xuất hiện ngay từ thuở sơ khai con người xuất hiện. Không chỉ bao gồm sự tái sản xuất sinh học mà còn chăm lo và duy trì lực lượng lao động cho tương lai. - Vai trò quản lý cộng đồng và công tác xã hội ở cộng đồng Mục đích của hoạt động này là nhằm bảo vệ và duy trì các nguồn lực khan hiếm của xã hội, thực hiện những nhu cầu chung cho cộng đồng, quản lý sự thay đổi của cộng đồng và làm cho cộng đồng phát triển. Vai trò này được chia ra thành hai nhóm nhỏ là tham gia cộng đồng và lãnh đạo cộng đồng. 1.3. Giới trong gia đình Gia đình là một hình thức tổ chức cơ bản, gắn kết với nhau bởi quan hệ huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng và giáo dục. Trong gia đình chắc chắn luôn tồn tại giới và giới tính, hai phương diện về thể chất và xã hội. Hộ có tư cách là một tế bào kinh tế xã hội, trong đó sự quản lý nguồn lực và ra quyết định là chủ hộ hay chủ gia đình. Chủ gia đình thường là người lớn tuổi và là nam giới. Gia đình đóng vai trò cơ bản trong hình thành các mối quan hệ giới và chủ hộ đưa ra hầu hết các quyết định cơ bản trong phạm vi vủa hộ như có con, nuôi dạy, đi làm, nghỉ ngơi, đầu tư cho tương lai. (Carorine Moser, 1996; WB, 2000). Sự phân công lao động rõ ràng được dựa vào giới. Đàn ông tham gia chủ yếu vào việc ra quyết định và tiến hành các hoạt động sản xuất ở bên ngoài trong khi người phụ nữ chịu trách nhiệm sinh con và công việc nhà. Có thể nhận thấy nam giới có khả năng tập trung cao độ vào một vai trò sản xuất cụ thể cụ thể nào đó trong khi phụ nữ có thể có thể thực hiện tất cả các vai trò một cách đồng thời. ( Giáo trình Giới trong phát triển nông thôn, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2009). 1.4. Quan điểm về tiếp cận giới Những năm đầu của thập niên 70, thế kỷ 20 đánh dấu sự ra đời của quan điểm “Phụ nữ trong phát triển” – “Women in Development” (WID), quan điểm này ra đời để đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ trong quá trình hiện đại hóa và công nghiệp hóa. Nội dung là đặt trọng tâm vào phụ nữ, vị trí của người phụ nữ được xem xét một cánh tách biệt với nam giới. Vận dụng quan điểm này đã mang lại được một số thành tựu và tiến bộ trong trong triển khai các chương trình dự án có đối tượng là phụ nữ. Tuy nhiên, nhược điểm của WID là đặt phụ nữ một cách biệt lập, những sự can thiệp cũng chỉ dành riêng cho phụ nữ; chỉ dựa trên quan điểm các vấn đề phát triển sẽ được giải quyết tốt hơn nếu đảm bảo sự phát triển đầy đủ của phụ nữ; chỉ nhìn nhận vai trò và vị trí của phụ nữ trong quá trình phát triển chưa coi họ là chủ thể của phát triển. Do những hạn chế trên của WID nên cuối những năm 70 thì thuật ngữ “Phụ nữ và phát triển” – “Women and Development”, WAD đã ra đời dựa trên quan điểm Mác-xít cho rằng, phụ nữ là chủ thể của sự phát triển, phát triển phụ nữ cũng đồng nghĩa với phát triển nói chung. Tuy đã khắc phục được những nhược điểm của WID nhưng WAD vẫn có xu hướng tập trung nhiều vào phụ nữ, chưa phân tích đầy đủ các yếu tố tác động đến người phụ nữ như phân chia giai cấp hay chủng tộc (Evam, 2003). Và đến những năm 1980 đến nay, thuật ngữ “Giới và phát triển” – “Gender and Development”, GAD. Cơ sở lý luận của quan điểm này nằm trong khuôn khổ nữ quyền xã hội chủ nghĩa. GAD quan tâm tới phụ nữ và nam giới trong mối tác động qua lại, không biệt lập vai trò của phụ nữ giống như hai quan điểm ở trên. Các vấn đề phát triển được xem xét tổng hòa và là sự lồng ghép đảm bảo sự tham gia của cả nam và nữ. II. Cơ sở thực tiễn 2.1. Giới trong tiếp cận một số vấn đề ở gia đình nông thôn Những chính sách cải cách nhằm củng cố kinh tế hộ gia đình như phân bổ quyền sử dụng đất, xác định vị thế và quy định pháp lý của các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của hộ gia đinh, cấp tín dụng, cung cấp dịch vụ khuyến nông cho hộ gia đình nhưng đói tượng chính tiếp nhận thông tin lại là nam giới, thường là với tư cách chủ hộ. Trong gia đình thì phụ nữ ít có kiến thức và kỹ năng sản xuất tốt. Nam giới thì thường hưởng thụ nhiều thành quả từ sự cải cách kinh tế hơn là phụ nữ. Phụ nữ luôn phải tỏ ra kính trọng với nam giới. Thái độ xã hội về vai trò của người phụ nữ trong gia đình đã làm cho việc xử lý những vấn đề như ngược đãi, ly hôn và phụ nữ nuôi con trở nên khó khăn. Phụ nữ thiếu những kỹ năng lao động và thiếu tự tin ngay cả trong gia đình của mình. Điều này lại càng củng cố thêm định kiến về phụ nữ. Tuy những định kiến giới tác động với cả hai giới nhưng nhìn chung phụ nữ vẫn chịu ảnh hưởng nhiều hơn. 2.2. Vai trò giới trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của gia đình Trong các gia đình Việt Nam thì phụ nữ tham gia trồng trọt, chăn nuôi, chế biến và bán sản phẩm nhiều hơn so với nam giới. Phụ nữ chỉ có thể tham gia nhiều hơn vào việc ra quyết định trong các công việc đồng áng (Fyles và cộng sự, 2001). Trong công việc sản xuất lúa thì nam giới là người làm đất còn phụ nữ đóng vai trò gieo cấy, thu hoạch, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình, nhất là gia đình nông thôn được thể hiện rất rõ trong một câu nói tiếng Anh: Women grow the rice, harvest the rice, cook the rice and wash the bowl. Ở khu vực nông thôn, 84% số gia đình làm chăn nuôi thì phụ nữ dành đến 30% trong tổng sức lao động cho sản xuất nông nghiệp để sử dụng cho chăn nuôi, trong khi đó nam giới chỉ dành 10% (FAO&UNDP, 2002). 2.3. Chủ trương, chính sách của Nhà nước với sự phát triển của bình đẳng giới và nhận thức giới Quan điểm “Nam nữ bình quyền” của Đảng và Bác Hồ đã được xác định ngay từ trong cương lĩnh Đảng năm 1930. Ngày 10/01/1967, ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành nghị quyết số 152 – NQ/TW về một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ nữ: “Tư tưởng phong kiến đối với phụ với phụ nữ còn tồn tại khá sâu sắc trong một số cán bộ, Đảng viên kể cả cán bộ lãnh đạo. Thể hiện rõ nhất tư tưởng hẹp hòi, trọng nam khinh nữ, chưa tin vào khả năng lãnh đạo và khả năng quản lý kinh tế của phụ nữ, chưa thấy hết khó khăn trở ngại của phụ nữ”. Chỉ thị số 44 – CT/TW ngày 07/06/1984 của Ban bí thư chỉ ra rằng “Nhiều cấp ủy Đảng và lãnh đạo các ngành buông lỏng việc chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ…vẫn còn tư tưởng phong kiến, coi thường phụ nữ, đối xử thiếu công bằng với chị em”. Ngày 12/07/1993, Ban chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 04 – NQ/TW đổi mới tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới. Ngày 25/12/2001, quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến 2010, với mục tiêu nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần cho phụ nữ. Tạo mọi điều kiện để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ “ Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng đào tạo nghề, nâng cao học vấn, có cơ chế chính sách để phụ nữ tham gia nhiều vào các cơ quan lãnh đạo quản lý ở các cấp, các ngành; bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ, xây dựng gia đình no ấm , bình đẳng, độc lập, hạnh phúc”. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định thêm chủ trương trên. Báo cáo của chính phủ khóa XI kỳ họp lần 9 (2006) chỉ ra nhiều tồn tại trong tiếp cận các dịch vụ cơ bản, tảo hôn, phân biệt đối xử, ngược đãi…Mục tiêu về tiến bộ phụ nữ và bình đẳng giới chưa được quan tâm thực hiện thường xuyên. Luật bình đẳng giới được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua tại kỳ họp ngày 29/11/2006. Ngày 2/12/2006, lệnh công bố được Chủ tịch Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký và có hiệu lực thi hành từ 01/07/2007. Ngày 15/07/2010, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức Hội thảo Dự thảo chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020 và Chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Tại hội thảo Bộ LĐ – TB – XH đã tổng kết Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng về bình đẳng giới nhưng các đại biểu cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề bạo lực trong gia đình, buôn bán phụ nữ trẻ em…Và Chính phủ đã giao cho Bộ L Đ – TB – XH chủ trì xây dựng Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020. Việt Nam tham gia một số công ước như công ước về quyền trẻ em (CRC), công ước Liên hợp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), hay các mục tiêu thiên niên kỷ… 2.4. Giới trong gia đình ở một số quốc gia trên thế giới Na Uy là đất nước dân số ít (4,5 triệu người) nhưng chỉ số phát triển con người (HDI) và chỉ số phát triển giới (GDI) xếp thứ nhất thế giới. Na Uy có một hệ thống luật pháp đồng bộ hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền và lợi cho người phụ nữ. Chính phủ Na Uy rất quan tâm đến vấn đề bình đẳng giới và coi đó là một trong bốn vấn đề trọng tâm phát triển. Là quốc gia đầu tiên trên thế giới cho phép phụ nữ được tham gia bầu cử vào năm 1913 và có quyền ứng cử Quốc hội từ năm 1930. Na Uy cũng có Luật bình đẳng giới ban hành từ năm 1979 với các điều khoản bảo đảm cho cả phụ nữ và nam giới được bình đẳng trong phát triển. Trong luật Bình đẳng giới, Na Uy quy định: Việc phân biệt đối xử trực tiếp hoặc gián tiếp với phụ nữ và nam giới đều không được phép. Với lĩnh vực lao động và việc làm, luật quy định: tuyển dụng không được hạn chế tuyển một giới. Khi đề bạt, cách chức hoặc sa thải người lao động cũng không được phân biệt nam nữ. Lao động nam và nữ trong cùng một doanh nghiệp phải được trả lương như nhau cho cùng một công việc như nhau hoặc công việc có giá trị như nhau. Trong giáo dục, Luật bình đẳng giới đề ra phụ nữ và nam giới có quyền bình đẳng trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ. Đặc biệt Luật bình đẳng giới có 1 mục quy định: “Khi thành lập và bổ nhiệm, bầu cử các thành viên của một cơ quan nhà nước, uỷ ban, hội đồng, ban… có từ 4 thành viên trở lên thì mỗi giới phải có đại diện với tỷ lệ ít nhất là 40%”. Nếu cơ quan, đơn vị nào không đạt tỷ lệ đã quy định thì Chính phủ không cho phép thành lập. Do vậy, đến nay cơ quan các cấp ở Na Uy đã đạt được tỷ lệ trung bình 43% nữ. Bên cạnh đó, một Cơ quan thanh tra về bình đẳng giới và chống phân biệt đối xử trực thuộc Bộ Gia đình và Bình đẳng giới cũng ra đời giúp Chính phủ nhận đơn khiếu nại hoặc phát hiện những vấn đề bất bình đẳng giới trình lên trên để cùng giải quyết. Chế độ nghỉ thai sản và chăm sóc con cái cũng được Luật đề ra rất tốt. Khi mang thai, nếu người phụ nữ đã đi làm ít nhất là 6 tháng trong vòng 10 tháng thai nghén sẽ được nghỉ chế độ và hưởng lương với số tiền không quá 6 lần số tiền bảo hiểm quốc gia cơ bản. Khi sinh nở, người mẹ được nghỉ 52 tuần hưởng 80% hoặc nghỉ 42 tuần hưởng 100% lương. Trong thời gian này, mẹ phải nghỉ 3 tuần trước khi sinh, bố phải nghỉ bốn tuần theo chế độ người cha. Ngoài ra, bố và mẹ được nghỉ từ 10 đến 20 ngày/năm chăm con ốm (kể cả với con nuôi). Quỹ thời gian này người bố và mẹ tuỳ ý sử dụng trong thời gian 2 năm. Nếu người phụ nữ không đi làm và không được hưởng chế độ nghỉ đẻ thì được hưởng 32.138 NOK khi sinh con (tương đương 80.500.000 đồng Việt Nam). Từ năm 1992, bố mẹ không đi làm mà phải nuôi con dưới 7 tuổi đều được hưởng ba khoản trợ cấp một năm của Chính phủ. Tuy nhiên, Luật bình đẳng giới tiến bộ nhưng chỉ nhằm tăng cường quyền lực của phụ nữ ngoài xã hội chứ không bênh vực họ trong gia đình vì không áp dụng trong gia đình. Trong lĩnh vực công việc nhà không được trả lương phụ nữ vẫn làm việc nhiều hơn nam giới; trong lĩnh vực quản lý nhà nước, nam giới vẫn chiếm 86% và trong chính quyền địa phương lãnh đạo nam vẫn trên 70% ; nạn bạo lực vẫn xảy ra; mại dâm được phép hoạt động nhưng vẫn nhiều tình trạng xâm hại tình dục … Tại Kenya, Zambia và Nigieria, gia đình nào có chủ hộ là nam giới thì khuyến nông thường xuyên ghé thăm hơn. Khoảng 40% phụ nữ Trinidad và Tobago chỉ biết đến các thông tin hay những lời khuyên trong sản xuất cũng như các thông tin khác thông qua người chồng của mình. Còn ở một số nước như Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia thì những thông tin đó được lấy tự họ hàng, bạn bè và hàng xóm. Rất ít thông tin được trực tiếp chuyển đến người phụ nữ. 2.5. Một số nghiên cứu về giới trong gia đình ở một số địa phương của nước ta “ Nghiên cứu vấn đề bình đẳng giới trong tổ chức cuộc sống gia đình ở Bình Định – Thực trạng và giải pháp”, Thạc sĩ Nguyễn Thanh Thụy, Hội Liên hiệp Phụ nữ Bình Định thực hiện 2002 – 2003. Bằng phương pháp điều tra thống kê xã hội học, thông qua hệ thống câu hỏi phỏng vấn trên 15 xã, 06 huyện, 15 cơ quan, 500 hộ nông nghiệp, 350 hộ gia đình CNVC-LĐ và 150 hộ tiểu thương ở tỉnh Bình Định, đề tài đã đưa ra 16 nhận xét phản ánh thực trạng chung (cho cả ba đối tượng gia đình) về bình đẳng giới. Trong đó, tập trung các nhận xét sau: người đứng tên giấy sử dụng đất canh tác, nhà ở chủ yếu là nam giới; Cả phụ nữ và nam giới đều đóng góp công sức vào các hoạt động tạo thu nhập của hộ gia đình nhưng nữ đóng góp nhiều hơn nam; Phụ nữ đóng góp công sức vào hoạt động tạo thu nhập nhiều hơn nam giới, nhưng đóng góp bằng tiền mặt thấp hơn; Phụ nữ là người đảm nhiệm chính công việc nội trợ; Sự chia sẻ của nam giới nổi bật trong việc giáo dục con; Phụ nữ trong các gia đình là người thực hiện chính các biện pháp kế hoạch hóa gia đình; Phụ nữ tham gia các hoạt động cộng đồng, các lớp tập huấn không nhiều; Phụ nữ là người quản lý tiền mặt của gia đình nhưng quyền quyết định những khoản chi tiêu lớn lại thuộc về nam giới; Quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong gia đình vẫn thuộc về nam giới;  Trong các hộ gia đình, phụ nữ có thời gian nghỉ ngơi ít hơn nam giới. Nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng giới trong tổ chức cuộc sống gia đình theo nghiên cứu là do vẫn còn ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến gia trưởng cùng sự biến đổi chậm chạp của ý thức xã hội, các thiên kiến về giới bám rễ lâu đời trong một số tầng lớp nhân dân, do việc xem trọng gia đình của người phụ nữ và hầu như nam giới chưa thay đổi quan niệm trụ cột của mình với gia đình. Chính họ đã tự đặt cho mình trọng trách lớn, phụ nữ còn tự ti luôn nghĩ mình là người hỗ trợ cho vai trò trụ cột của chồng. Đối với những gia đình nông thôn, sự chuyển dịch nhân công lao động từ nông thôn ra thành thị (thường diễn ra với nam) đã làm cho những người phụ nữ ở lại địa phương thêm gánh nặng: đảm nhận cả lao động sản xuất lẫn việc nội trợ. Trình độ học vấn cũng góp phần quan trọng trong việc tạo quyền quyết định cho nam hay nữ. Nếu trong gia đình cả hai vợ chồng có học vấn cao thì sự bàn bạc, thỏa thuận chiếm tỷ lệ lớn, ngược lại người vợ có trình độ thấp thì quyền quyết định mọi mặt chủ yếu vẫn là chồng.  Đề tài cũng đã đưa ra 07 giải pháp nhằm thực hiện bình đẳng giới trong tổ chức cuộc sống gia đình. Trong đó nhấn mạnh đến vai trò công tác tuyên truyền làm chuyển biến nhận thức và nâng cao ý thức thực hiện bình đẳng giới và vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền và các đoàn thể trong việc thúc đẩy quá trình bình đẳng giới. Thực hiện bình đẳng giới là một công việc lâu dài và cần sự phối hợp đồng bộ của toàn xã hội. So với trước kia, mối quan hệ nam nữ, vợ chồng hiện nay đã phần nào được cải thiện. Những dấu hiệu ban đầu như chia sẻ công việc nhà, chia sẻ việc buôn bán (gia đình tiểu thương), tạo điều kiện cho vợ học tập, thăng tiến trong công tác, công việc đã được nhiều ông chồng, đặc biệt là những đôi vợ chồng trẻ thực hiện. Trong hoàn cảnh hiện tại, bản thân chị em phụ nữ trước hết ý thức được sự tự phấn đấu vươn lên, tự giải phóng mình trước tiên. Không ngừng cố gắng để khẳng định vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội. Phụ nữ cũng nên tận dụng sự ngọt ngào, dịu dàng vốn có của mình để thuyết phục, kêu gọi sự cảm thông, trách nhiệm của người chồng trong công việc gia đình, thay vì “đấu tranh trực diện”. Vấn đề giáo dục kiến thức gia đình cho nam và nữ trước khi lập gia đình cần được chú trọng hơn... ( Qua kết quả điều tra, nghiên cứu về quyền lực vợ chồng trong gia đình ở Yên Bái, Tiền Giang và Thừa Thiên Huế cho thấy yếu tố kinh tế, tuổi tác, trình độ học vấn, tộc người đã ảnh hưởng đến quyền quyết định trong gia đình. Và những quyền như quyền trong sản xuất, mua sắm đồ đạc đắt tiền, quan hệ gia đình họ hàng, hoạt động xã hội cộng đồng, chủ yếu thuộc về người đàn ông trong gia đình. (Phạm Thị Huệ, Viện gia đình và giới, “Quyền lực của vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam”). Theo PGS.TS Trần Thị Kim Xuyến, biến đổi xã hội tác động đến vai trò của giới trong gia đình cư dân ven đô. Đó là trong sản xuất, đóng góp kinh tế, công việc gia đình, quyền lực trong gia đình và ảnh hưởng cơ chế thị trường đến vai trò kép của phụ nữ. (PGS.TS Trần Thị Kim Xuyến, “Gia đình và những vấn đề của gia đình hiện đại”, 2001, nhà xuất bản thống kê). Người phụ nữ gắn liền với vai trò người vợ, người mẹ, người nội trợ trong gia đình. Người phự nữ phải chịu gánh nặng kép. Đây là một lĩnh vực của đời sống gia đình thể hiện sự bất bình đẳng giới. Nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu yếu tố tác động đến vai trò nội trợ của người phụ nữ trong gia đình và những hậu quả của sự tác động đó. (Vũ Tuấn Huy và Deborah S.Carr, “Phân công lao động nội trợ trong gia đình”. Xã hội học số 4(72), 2000). Theo tác giả Lê Thị Quý thì người phụ nữ là người phải lo toan quán xuyến gia đình, phải vâng lời đàn ông và không được tham gia gia vào các công việc xã hội. Nho giáo buộc người phụ nữ phải tuân theo các quy tắc về “tam tòng” và “tứ đức”. Người phụ nữ phải tham gia vào lĩnh vực sản xuất và tái sản xuất là những việc không được trả công hoặc trả công thấp. Sự phân công lao động bất hợp lý như vậy nên vai trò của nam và nữ trong tiếp cận và kiểm soát nguồn lực cũng như lợi ích có một khoảng cách rất xa. Phụ nữ là người tiếp cận nguồn lực nhiều hơn nam giới nhưng lại ít quyền kiểm soát nguồn lực đó. Việc hưởng thu nhập từ công việc cũng không công bằng vì phụ nữ thường hy sinh những lợi ích vì chồng con. (Lê Thị Quý với bài “Vấn đề giới trong các dân tộc ít người ở Sơn La – Lai Châu hiện nay”, xã hội học số 1(85), 2004). Qua cuộc khảo sát ở thành phố Mỹ tho – tỉnh Tiền Giang cho thấy trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa thì bình đẳng giới đã có sự biến đổi ở gia đình nông thôn ven đô thông qua sự phân công lao động theo giới, cách tiếp cận các nguồn lực giữa nam và nữ, vấn đề quyền lực trong gia đình, mức đóng góp và thụ hưởng giữa vợ và chồng. Ngày nay vai trò, vị thế của người phụ nữ ngày càng được nâng lên và đánh giá cao hơn trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại khá nhiều sự bất bình đẳng, điều đó gây ra sự thiếu công bằng cho người phụ nữ. Bình đẳng giới là sự bình đẳng về luật pháp, về cơ hội bao gồm sự bình đẳng trong thù lao cho công việc và tiếp cận đến nguồn vốn con người và các nguồn lực sản xuất khác cho phép mở ra cơ hội này, và bình đẳng về “tiếng nói” là khả năng tác động và đóp góp cho quá trình phát triển. Để đạt được sự bình đẳng giới thì trước hết người phụ nữ phải xác định mình phải có không gian tự do sáng tạo của mình. Và hiểu chỉ khi mình phát triển về mặt trình độ ngang bằng với chồng thì mình mới hy vọng có bình đẳng thực sự. Và mình cũng phải làm thế nào thuyết phục được người thân của mình chia sẻ các công việc, hỗ trợ mình trong cuộc sống hàng ngày. Chỉ khi đó người phụ nữ mới có bình đẳng thực sự. (“Vấn đề bình đẳng giới của gia đình nông thôn ven đô thành phố Mỹ Tho – tỉnh Tiền Giang trong bối cảnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa ”, Nguyễn Thị Uyên, báo cáo tốt nghiệp, Đại học Bình Dương)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctong_quan.doc