Giáo dục đạo đức sinh thái vì sự phát triển bền vững cho con người
và giới tự nhiên, trước hết phải xuất phát từ sự nhận thức đúng đắn
mối quanhệ giữa con người và tự nhiên, xây dựng một cách có ý
thức hoạt động thực tiễn của con người phù hợp với quy luật của tự
nhiên. Giáo dục đạo đức sinh thái phải được coi là một quá trình
giáo dục về nhận thức khoa học, đạo đức, thẩm mỹ, chính trị trong
lĩnh vực sinh thái nhằm trang bị cho con người khả năng chủ động,
tích cực tham gia vào hoạt động cải tạo, bảo vệ môi trường tự nhiên
trên cơ sở nắm vững ý thức đạo đức sinh thái, quan hệ đạo đức sinh
thái, hành vi đạo đức sinh thái
8 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1140 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đề tài Giáo dục đạo đức sinh thái vì sự phát triển bền vững cho con người và giới tự nhiên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC SINH THÁI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CHO
CON NGƯỜI VÀ GIỚI TỰ NHIÊN
PHAN THỊ HỒNG DUYÊN(*)
Giáo dục đạo đức sinh thái vì sự phát triển bền vững cho con người
và giới tự nhiên, trước hết phải xuất phát từ sự nhận thức đúng đắn
mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, xây dựng một cách có ý
thức hoạt động thực tiễn của con người phù hợp với quy luật của tự
nhiên. Giáo dục đạo đức sinh thái phải được coi là một quá trình
giáo dục về nhận thức khoa học, đạo đức, thẩm mỹ, chính trị trong
lĩnh vực sinh thái nhằm trang bị cho con người khả năng chủ động,
tích cực tham gia vào hoạt động cải tạo, bảo vệ môi trường tự nhiên
trên cơ sở nắm vững ý thức đạo đức sinh thái, quan hệ đạo đức sinh
thái, hành vi đạo đức sinh thái.
Nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa con người và thế
giới, xác định một cách có ý thức các hoạt động thực tiễn của con
người phù hợp với quy luật của tự nhiên, đó chính là cơ sở để giải
quyết vấn đề môi trường sinh thái. Cuộc sống luôn chứng tỏ rằng,
bất cứ kế hoạch, hành động nào trong cuộc sống của con người cũng
phải dựa trên sự hiểu biết đúng đắn và vận dụng đúng những quy
luật của tự nhiên, Hơn 100 năm trước, Ph.Ăngghen đã từng cảnh
báo: “Chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như
một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống
bên ngoài giới tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả xương
thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta
nằm trong lòng giới tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối
với giới tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác,
là chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử
dụng được những quy luật ấy một cách chính xác”(1). Theo đó, để
có thể điều chỉnh được mối quan hệ giữa con người và và tự nhiên,
trước hết chúng ta phải nhận thức được những quy luật tồn tại và
phát triển của giới tự nhiên và sau đó, phải biết vận dụng đúng đắn,
chính xác những quy luật đó vào quá trình hoạt động thực tiễn của
xã hội, mà quan trọng nhất là vào lĩnh vực sản xuất ra của cải vật
chất(2).
Trong thời đại hiện nay, môi trường và bảo vệ môi trường là một
trong những vấn đề bức xúc, một vấn đề mang tính toàn cầu. Mục
tiêu hành động của cả cộng đồng nhân loại là tự giác điều chỉnh tác
động của mình vào tự nhiên, bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền
vững cho cả con người lẫn giới tự nhiên.Vậy, làm thế nào để con
người khai thác giới tự nhiên, phát triển kinh tế mà vẫn đảm bảo
được sự phát triển bền vững cho cả con người lẫn giới tự nhiên? Đó
là một câu hỏi lớn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, cũng như
đối với nước ta. Phát triển là một quá trình tăng trưởng bao gồm
nhiều yếu tố cấu thành khác nhau, như kinh tế, chính trị, văn hoá,
khoa học, kỹ thuật,… Mục tiêu của phát triển là nâng cao chất lượng
cuộc sống con người, cải tạo điều kiện sống, làm cho con người ít
phụ thuộc hơn vào tự nhiên, tạo lập nên cuộc sống công bằng, dân
chủ, bình đẳng giữa các thành viên trong xã hội.
Sự phát triển kéo theo nhiều vấn đề khác và do vậy, nó buộc chúng
ta phải quan tâm đến việc xem xét, đánh giá mối quan hệ giữa con
người và giới tự nhiên, đến phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Hơn lúc nào hết, con người cần phải nhận thức được rằng, tài
nguyên trên trái đất không phải là vô cùng, vô tận mà có thể khai
thác theo ý muốn của mình mãi được. Trong khi khai thác tự nhiên,
con người đã thải ra môi trường một lượng chất thải lớn của sản xuất
và sinh hoạt, đã vượt quá giới hạn điều chỉnh của động vật, thực vật
thuộc chu trình sinh học. Nên con người cần phải sống hài hoà với
thiên nhiên; phải tính toán đến lợi ích chung của cả cộng đồng, của
các thế hệ tương lai; phải đầu tư thích đáng cho việc bảo vệ môi
trường trong quá trình phát triển. Tất cả những yêu cầu này đã dẫn
đến sự ra đời quan điểm sống mới của con người – “phát triển bền
vững”.
Quan điểm “phát triển bền vững” được Hội đồng Môi trường và Phát
triển thế giới do cựu thủ tướng Nauy – G.H.Brunđơlan làm Chủ tịch
đưa ra vào năm 1987 là: “Những thế hệ hiện tại cần đáp ứng nhu
cầu của mình sao cho không phương hại đến khả năng của thế hệ
tương lai đáp ứng nhu cầu của họ”(3). Hội Nghị Liên hợp quốc về
Môi trường và Con người tại Stốckholm, năm 1972 đã tuyên bố:
“Bảo vệ và cải thiện môi trường con người là một vấn đề lớn có ảnh
hưởng đến phúc lợi của mọi dân tộc và phát triển kinh tế trên toàn
thế giới”(4). Năm 1992, Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường và
Phát triển Rio – 92 tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của việc bảo
vệ môi trường vì sự phát triển của con người. Ở nước ta, Luật bảo vệ
môi trường (Điều 3) đã nêu rõ: “Phát triển bền vững là phát triển
nhằm đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn
hại đến khả năng đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ tương lai trên
cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm
tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”(5).
Có thể nói, “phát triển bền vững” dưới quan điểm sinh thái học đó
là sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Vì mục
tiêu phát triển kinh tế – xã hội, cần phải hướng vào việc khai thác có
hiệu quả đối với môi trường tự nhiên, trong khi vẫn tránh được sự
huỷ hoại và khả năng tái tạo lâu dài của giới tự nhiên. Để phát triển
bền vững, cần phải quan tâm đến sự bền vững cả về mặt sinh thái lẫn
về mặt xã hội. Bền vững về mặt sinh thái là cần phải tận dụng và tái
tạo các nguồn tài nguyên có thể tái sinh; cần phải khai thác, sử dụng
các nguồn tài nguyên sao cho có hiệu quả cao mà vẫn đảm bảo được
sự cân bằng sinh thái, tránh được sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên
thiên nhiên và sự suy thoái về môi trường. đồng thời giảm đến mức
tối thiểu về ô nhiễm môi trường. Bền vững về mặt xã hội là phải làm
thế nào để vừa đạt được tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo được
những vấn đề xã hội, xây dựng được một cuộc sống lành mạnh và
giữ vững được ổn định xã hội. Chúng ta chỉ có thể thực hiện được
điều đó khi ý thức đạo đức sinh thái được đề cao, hành vi đạo đức
sinh thái được thực hiện, trở thành nếp sống thường nhật trong mỗi
chúng ta.
Trong giai đoạn hiện nay, do nhu cầu ngày càng tăng của đời sống
vật chất, môi trường sống được mở rộng về mọi phía, thì ngược lại,
môi trường tự nhiên ngày càng bị thu hẹp. Những tình trạng, như cạn
kiệt tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, không khí, rừng, biển, khoáng
sản,…), ô nhiễm môi trường sống đã và đang trở thành vấn đề bức
xúc. Việc kiểm soát, phòng ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm,
suy thoái, sự cố môi trường; sử dụng bền vững tài nguyên thiên
nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học của các hệ sinh thái; bảo đảm cuộc
sống lành mạnh cho con người đang trở thành những vấn đề cấp
bách. Việc giải quyết những vấn đề này để phục vụ cho sự nghiệp
phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao chất lượng sống của con người
là mục tiêu bền vững và là việc làm cần thiết của mọi tổ chức, cá
nhân và xã hội.
Trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, giáo dục môi trường
đóng vai trò đặc biệt quan trọng. “Giáo dục môi trường là làm cho
mỗi người và cộng đồng hiểu được bản chất của môi trường tự
nhiên và nhân tạo, hiểu được tương tác của các mặt sinh học, vật lý,
hoá học, xã hội, kinh tế và văn hoá, có được tri thức, thái độ và kỹ
năng thực tế để tham gia có hiệu quả và có trách nhiệm vào việc dự
đoán và giải quyết các vấn đề môi trường và quản lý chất lượng của
môi trường”(6). Cũng như mọi hình thức giáo dục khác, giáo dục
đạo đức sinh thái là một quá trình giáo dục về nhận thức khoa học,
đạo đức, thẩm mỹ, chính trị trong lĩnh vực sinh thái, cùng với những
hình thức và biện pháp giáo dục thích hợp nhằm trang bị cho mỗi
con người khả năng chủ động, tích cực tham gia vào hoạt động cải
tạo, bảo vệ môi trường tự nhiên.
Để giáo dục đạo đức sinh thái có kết quả thì việc giáo dục này cần
phải được tiến hành ở mọi thành tố của nó, từ ý thức đạo đức đến
thực tiễn đạo đức và quan hệ đạo đức mà chủ yếu là quan hệ lợi ích
và hành vi đạo đức hiện thực. Giáo dục đạo đức sinh thái phải hướng
tới mục tiêu tạo ra mối quan hệ hài hoà giữa con người – xã hội và
tự nhiên, giúp con người tự giác nhận thức được trách nhiệm và
nghĩa vụ của mình để từ đó, có những hành vi ứng xử phù hợp với tự
nhiên.
Ý thức đạo đức sinh thái được thừa nhận là “hệ thống quan điểm,
quan niệm của con người về hệ sinh thái và ý thức về trách nhiệm
của con người trong hệ sinh thái đó”(7). Còn ý thức sinh thái là “sự
nhận thức một cách tự giác của con người về tự nhiên (các yếu tố
của tự nhiên và quy luật hoạt động của chúng), về vị trí, vai trò của
con người trong mối quan hệ với tự nhiên và về trách nhiệm, nghĩa
vụ của con người trong việc điều khiển một cách có ý thức mối quan
hệ đó”(8). Điều này chỉ có thể làm được bằng con đường giáo dục.
Nâng cao nhận thức về môi trường, bảo vệ môi trường là trách
nhiệm của toàn xã hội thông qua các hình thức tập huấn, đào tạo, hội
thảo, truyền thông, thông tin trên báo, đài…, đưa chương trình giáo
dục môi trường vào các bậc học phổ thông trong nhà trường, xây
dựng mô hình xanh hoá trường học nhằm cung cấp cho con người
những tri thức sinh thái cần thiết, từ đó hình thành nên ý thức sinh
thái mới.
Quan hệ đạo đức sinh thái được biểu hiện ra ở quan hệ lợi ích, lợi
ích của cả chủ thể đạo đức (con người) lẫn khách thể đạo đức (giới
tự nhiên). Vấn đề đặt ra ở đây là, con người cần phải ý thức được
một cách đúng đắn vị trí, vai trò của mình trong mối quan hệ với tự
nhiên, cần phải giải quyết một cách hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa
con người và giới tự nhiên. Không chỉ thế, con người còn cần phải
thay đổi thái độ đối với giới tự nhiên, từ thái độ khai thác, bóc lột
sang khai thác đi đôi với xây dựng và bảo vệ, tái tạo và tôn trọng
giới tự nhiên.
Hành vi đạo đức sinh thái là sự biểu hiện cao nhất của đạo đức sinh
thái, là sự tổng hợp của tất cả các yếu tố hợp thành đạo đức sinh thái;
ý thức sinh thái, quan hệ đạo đức sinh thái và thực hiện đạo đức sinh
thái. Hành vi đạo đức sinh thái được điều chỉnh bởi một hệ thống các
chuẩn mực và giá trị đạo đức sinh thái, thể hiện sự thống nhất trong
chủ thể đạo đức những nhu cầu khách quan của xã hội, những hoạt
động tự giác, tích cực của con người trong việc khai thác, sử dụng
hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Hành
vi đạo đức sinh thái là cách ứng xử của con người đối với hệ sinh
thái. Hành vi đạo đức sinh thái có thể là tự giác hoặc tự phát, được
điều chỉnh, quy định bởi những chuẩn mực, quy tắc đạo đức sinh
thái nhất định. Hành vi đạo đức sinh thái cao nhất, hoàn hảo nhất và
cũng bao trùm nhất là sự tự giác của con người trong việc tuân thủ
nghiêm ngặt các điều luật đã được ghi rõ trong Luật bảo vệ môi
trường của nước ta năm 1994.
Như vậy, có thể nói, phát triển kinh tế, tăng nguồn của cải vật chất là
để thoả mãn nhu cầu tự nhiên của con người, chứ không phải là ra
sức bóc lột, tước đoạt tự nhiên và bất chấp sự mất cân bằng sinh thái
của giới tự nhiên. Đã đến lúc chúng ta cần phải thay đổi quan niệm
trong cách ứng xử với tự nhiên, từ khai thác theo kiểu thống trị tự
nhiên sang khai thác vì mục tiêu phát triển bền vững, đảm bảo sự
phát triển hài hoà và cùng phát triển của con người, xã hội và giới tự
nhiên. Công ước quốc tế đã khẳng định: “Nếu chúng ta có đầy đủ
kiến thức hơn và hành động khôn ngoan hơn, chúng ta có thể giành
được cho chính bản thân chúng ta và con cháu chúng ta một cuộc
sống tốt đẹp hơn trong một môi trường đáp ứng nhiều hơn mọi nhu
cầu và hy vọng của con người”(9). Chúng ta cần phải bình tĩnh, sáng
suốt và khách quan nhìn lại các hành vi của mình đối với môi trường
tự nhiên, không chỉ bằng khối óc thông minh, mà còn bằng cả trái
tim yêu thương. Phải biết đối mặt với những “vật chất” vừa nhìn
thấy được, vừa không nhìn thấy được của môi trường tự nhiên để tìm
ra biện pháp, cách thức, lối sống thích hợp, hài hoà giữa con người
và tự nhiên, đảm bảo sức khoẻ và hạnh phúc lâu bền.r
(*) Thạc sĩ, Đại học Hoa Lư, Ninh Bình.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2004, tr.655.
(2) Xem: Phạm Thị Ngọc Trầm. Môi trường sinh thái. Vấn đề và
giải pháp. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.112.
(3) Dẫn theo: Lưu Đức Hà, Nguyễn Ngọc Sinh. Quản lý môi trường
cho sự phát triển bền vững. Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2000,
tr.7.
(4) Các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường (Việt – Anh). Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.18.
(5) Luật bảo vệ môi trường. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005,
tr.9.
(6) Dẫn theo: Vũ Minh Tâm. Văn hoá sinh thái, nhân văn và hệ
thống tự nhiên, con người, xã hội. Tạp chí Khoa học xã hội, số 6,
2006, tr.33.
(7) Phạm Văn Boong. Ý thức sinh thái và sự phát triển lâu bền. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.52.
(8) Phạm Thị Ngọc Trầm. Vấn đề xây dựng đạo đức sinh thái trong
điều kiện kinh tế thị trường. Tạp chí Triết học, số 3, 2002, tr.20.
(9) Các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường (Việt – Anh). Sđd.,
tr.10.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- triet_hoc_29__7915.pdf