Ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá để giải quyết vấn đề phân phối vốn, nhu cầu thanh toán phục vụ cho phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, cá nhân với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Vì thế chất lượng và tốc độ tăng trưởng về huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng sẽ tác động rất lớn tới tốc độ tăng trưởng một cách bền vững của doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Thực hiện những cam kết quốc tế về lĩnh vực ngân hàng trong hiệp định thương mại Việt- Mỹ và gia nhập WTO đã và đang đặt ra cho hệ thống NHTM Việt Nam những thách thức vô cùng to lớn. Trong đó ngân hàng là lĩnh vực hoàn toàn mở trong cam kết gia nhập WTO của Việt Nam.
Để hội nhập thành công và không bị lép vế trên sân nhà, các NHTM, đặc biệt là các NHTM nhà nước- những đầu tàu, mũi nhọn của hệ thống NHTM Việt Nam, phải lành mạnh hoá tài chính theo chuẩn mực quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh đó là quản lý tốt rủi ro trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt và thường xuyên là rủi ro tín dụng. Mà nghiệp vụ tín dụng mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Vì thế “An toàn” là nguyên tắc hàng đầu và ngăn ngừa rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong các Ngân hàng thương mại hiện nay.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết trên, cùng với quá trình học tập tại Học viện ngân hàng và thời gian thực tập tại NHNo&PTNT thành phố Bắc Giang, em lựa chọn đề tài: “Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Bắc Giang”. Với mong muốn công tác quản lý rủi ro tín dụng ở ngân hàng này được tốt hơn và có điều kiện triển khai có hiệu quả ở các chi nhánh trong thành phố.
92 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1146 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời NóI đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá để giải quyết vấn đề phân phối vốn, nhu cầu thanh toán phục vụ cho phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, cá nhân với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Vì thế chất lượng và tốc độ tăng trưởng về huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng sẽ tác động rất lớn tới tốc độ tăng trưởng một cách bền vững của doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Thực hiện những cam kết quốc tế về lĩnh vực ngân hàng trong hiệp định thương mại Việt- Mỹ và gia nhập WTO đã và đang đặt ra cho hệ thống NHTM Việt Nam những thách thức vô cùng to lớn. Trong đó ngân hàng là lĩnh vực hoàn toàn mở trong cam kết gia nhập WTO của Việt Nam.
Để hội nhập thành công và không bị lép vế trên sân nhà, các NHTM, đặc biệt là các NHTM nhà nước- những đầu tàu, mũi nhọn của hệ thống NHTM Việt Nam, phải lành mạnh hoá tài chính theo chuẩn mực quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh đó là quản lý tốt rủi ro trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt và thường xuyên là rủi ro tín dụng. Mà nghiệp vụ tín dụng mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Vì thế “An toàn” là nguyên tắc hàng đầu và ngăn ngừa rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong các Ngân hàng thương mại hiện nay.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết trên, cùng với quá trình học tập tại Học viện ngân hàng và thời gian thực tập tại NHNo&PTNT thành phố Bắc Giang, em lựa chọn đề tài: “Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Bắc Giang”. Với mong muốn công tác quản lý rủi ro tín dụng ở ngân hàng này được tốt hơn và có điều kiện triển khai có hiệu quả ở các chi nhánh trong thành phố.
2. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống lại những vấn đề mang tính lý luận về rủi ro tín dụng của ngân hàng và phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng.
Phân tích, đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT thành phố Bắc Giang.
Đề xuất các giải pháp và những kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT thành phố Bắc Giang.
Phạm vi nghiên cứu: thực phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT thành phố Bắc Giang từ năm 2007- 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng và thường xuyên có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau; phương pháp phân tích tổng hợp số liệu thực tế, vận dụng lý luận vào thực tiễn để giải thích nguyên nhân từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp.
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của khoá luận được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Tín dụng ngân hàng và rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Bắc Giang.
Chương 3: Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Bắc Giang.
Chương 1
tín dụng ngân hàng và rủi ro
tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng
Khái niệm tín dụng ngân hàng
Xuất phát từ gốc La tinh CREDITTUM có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm hay chính là lòng tin.
Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam thì tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên cơ sở có hoàn trẩ cả gốc và lãi.
C.Mác cho rằng: Tín dụng là quá trình chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng sau một thời gian nhất định thu hồi lại một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu”.
Mối quan hệ tín dụng bao gồm hai mặt cơ bản là quan hệ cho vay và quan hệ hoàn trả được thể hiện như sau:
- Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc thiết bị, bất động sản.
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay. Thông thường, giá trị khi hoàn trả lớn hơn lúc cho vay, nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức.
Các tổ chức ngân hàng tham gia vào quan hệ tín dụng với hai tư cách:
- Ngân hàng đóng vai trò là người đi vay bao gồm nhận tiền gửi khách hàng, phát hành trái phiếu để vay vốn trong xã hội, vay vốn của ngân hàng Trung ương và các ngân hàng khác.
- Ngân hàng đóng vai trò là người cho vay, bao gồm các chủ thể trong xã hội vay, tài trợ, thuê, thuê mua. Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu là tư cách thứ hai của tổ chức ngân hàng của mối quan hệ tín dụng.
1.1.2. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng
- Tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở lòng tin: Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng tin. ở đây người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ.
- Tín dụng phải trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi: Nếu không có sự hoàn trả thì không được coi là tín dụng. Giá trị hoàn trả phải lớn hơn giá trị lúc cho vay (giá trị gốc), nghĩa là ngoài việc hoàn trả giá trị gốc, khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản lãi, đây chính là giá của quyền sử dụng vốn vay. Khoản lãi phải luôn luôn là một số dương, có như vậy mới bù đắp được chi phí hoạt động và tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, phản ánh bản chất hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng một tài sản có thời hạn: Để đảm bảo thu hồi nợ đúng hạn, người cho vay thường xác định rõ thời gian cho vay. Để xác định thời hạn cho vay hợp lý, ngân hàng phải căn cứ vào tính chất thời hạn nguồn vốn của mình và quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay. nếu ngân hàng có nguồn vốn dài hạn ổn định, thì có thể cấp được nhiều tín dụng dài hạn; ngược lại, nếu nguồn vốn không ổn định và kỳ hạn ngắn, mà cấp nhiều tín dụng dài hạn thì sẽ gặp rủi ro thanh khoản. Mặt khác, thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì người vay mới có điều kiện trả nợ đúng hạn. Nếu ngân hàng xác định thời hạn vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay, thì khách hàng không có đủ nguồn để trả nợ khi đến hạn, gây khó khăn cho khách hàng. Ngược lại, nếu thời hạn cho vay lớn hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích, tiềm ẩn rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Mác đã viết: “Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sử dụng trong một thời gian sở hữu sang tay nhà tư bản hoạt động, cho nên tiền không phải được bỏ ra để thanh toán, cũng không phải tự đem cho vay, tiền chỉ đem nhượng lại với điều kiện là nó sẽ quay trở về điểm xuất phát một kỳ hạn nhất định”.
- Tín dụng ẩn chứa nhiều khả năng rủi ro: Do sự không cân xứng về thông tin, người cho vay không hiểu rõ hết về người đi vay. Một mối quan hệ tín dụng được gọi là hoàn hảo nếu người đi vay hoàn trả được đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn. Tuy nhiên không phải lúc nào việc đó cũng diễn ra một cách trôi chảy mà vẫn không hiếm trường hợp người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ của mình đối với chủ nợ do các nguyên nhân khách quan hay chủ quan gây ra, như trường hợp đến hạn hoàn trả người đi vay không trả được nợ cho người cho vay dẫn đến các khoản nợ bị quá hạn. Nợ quá hạn là biểu hiện không lành mạnh của quá trình hoạt động tín dụng, là sự báo hiệu của rủi ro (rủi ro mất vốn và rủi ro thanh khoản).
- Tín dụng phải dựa trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện: Quá trình xin vay và cho vay diễn ra trên cơ sở những căn cứ pháp lý chặt chẽ như: Hợp đồng tín dụng, khế ước vay tiền, hợp đồng bảo đảm tiền vay, bảo lãnh…, trong đó bên đi vay phải cam kết hoàn trả vô điều kiện khoản vay cho ngân hàng khi đến hạn.
Từ các đặc trưng trên cho thấy, tín dụng ngân hàng phải đảm bảo được hai nguyên tắc cơ bản sau:
+ Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
+ Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đúng thời hạn đã cam kết trong hợp đồng.
1.1.3. Các loại tín dụng ngân hàng
- Căn cứ vào thời hạn cho vay
+ Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
+ Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng. Loại tín dụng này chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Đây là loại tín dụng có mức rủi ro cao.
+ Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 60 tháng. Loại tín dụng này chủ yếu để đáp ứng nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà xưởng, các thiết bị phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Đây là loại tín dụng có mức rủi ro rất cao.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
+ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: Là loại tín dụng cấp cho các chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất lưu thông hàng hoá.
+ Tín dụng tiêu dùng: Là loại tín dụng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân như mu sắm nhà cửa, phương tiện đi lại, các hàng hoá tiêu dùng khác.
- Căn cứ vào sự đảm bảo
+ Tín dụng có đảm bảo không bằng tài sản (tín chấp): Là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
+ Tín dụng có đảm bảo: Là loại tín dụng mà khi cho vay đòi hỏi người vay vốn phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
- Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
+ Tín dụng bằng tiền: Là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng tiền. Tín dụng bằng tiền gọi là cho vay.
+ Tín dụng bằng tài sản: Là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng tài sản. Hình thức tín dụng này chính là cho thuê tài chính.
+ Tín dụng bằng uy tín: Là tín dụng mà hình thái giá trị của nó là bằng uy tín. Hình thức tín dụng này chính là bảo lãnh ngân hàng.
- Căn cứ vào xuất xứ tín dụng
+ Tín dụng trực tiếp: Là hình thức tín dụng, trong đó ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho khách hàng có nhu cầu vay vốn, đồng thời khách hàng hoàn trả nợ vay trực tiếp cho ngân hàng.
+ Tín dụng gián tiếp: Là hình thức cấp tín dụng thông qua trung gian như: tín dụng uỷ thác, tín dụng thông qua tổ chức đoàn thể.
- Căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ vay
+ Tín dụng trả góp: Là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi vay định kỳ thành những khoản bằng nhau. Loại tín dụng này áp dụng cho những khoản vay lớn và có thời hạn dài.
+ Tín dụng hoàn trả một lần: Là loại tín dụng mà khách hàng chỉ hoàn trả vốn gốc và lãi vay một lần khi đến hạn. Loại tín dụng này áp dụng cho những khoản vay nhỏ và có thời hạn ngắn.
+ Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: Là loại tín dụng mà khách hàng có thể hoàn trả nợ vay bất cứ khi nào. Loại tín dụng này thường áp dụng cho những khoản vay thấu chi, thẻ tín dụng.
1.1.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng
- Đối với nền kinh tế
+ Vai trò kinh tế cơ bản của tín dụng ngân hàng là luân chuyển vố từ những người (cá nhân, hộ gia đình, công ty và chính phủ) có nguồn vốn thặng dư (do chi tiêu ít hơn thu nhập) đến những người thiếu hụt (do nhu cầu chi tiêu vượt quá thu nhập). Nhu cầu vay vốn không chỉ để đầu tư kinh doanh mà còn dùng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trước mắt. Việc luân chuyển vốn từ người tiết kiệm sang người sử dụng vốn lại quan trọng với nền kinh tế vì những người tiết kiệm thường không đồng thời là những người có cơ hội đầu tư sinh lời cao. Như vậy, nếu không có ngân hàng thì việc luân chuyển vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế sẽ ách tắc. Chính vì vậy, kênh luân chuyển vốn qua ngân hàng có ý nghĩa rất lớn trong việc thúc đẩy tính hiệu quả của nền kinh tế.
+ Tín dụng ngân hàng không giới hạn chỉ trong chức năng truyền thống là luân chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu mà còn giúp phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế. Thông qua tín dụng ngân hàng mà vốn từ những người thiếu các dự án đầu tư hiệu quả được chuyển tới những người có các dự án đầu tư hiệu quả hơn nhưng thiếu vốn. Kết quả là, kinh tế tăng trưởng, tạo công ăn việc làm và năng suất lao động cao.
+ Thông qua việc đầu tư vốn tín dụng vào những ngành, nghề, khu vực kinh tế trọng điểm sẽ thúc đẩy sự phát triển của các nghành nghề đó, hình thàh nên cơ cấu hiện đại, hợp lý và hiệu quả.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần lưu thông tiền tệ, hàng hoá, điều tiết thị trường, kiểm soát giá trị đồng tiền và thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu kinh tế giữa các nước.
+ Tín dụng ngân hàng mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước thông qua thuế thu nhập và lãi từ uỷ thác đầu tư vốn của chính phủ.
+ Tín dụng ngân hàng là kênh truyền tải vốn tài trợ của nhà nước đến nông nghiệp, nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo, ổn định chính trị, xã hội.
- Đối với khách hàng
+ Tín dụng ngân hàng đáp ứng kịp thời nhu cầu về số lượng và chất lượng vốn cho khách hàng. Với các ưu điểm như an toàn, thuận tiện, nhanh chóng, dễ tiếp cận và có khả năng đáp ứng được nhu cầu vốn lớn, tín dụng ngân hàng thoả mãn được nhu cầu đa dạng của khách hàng.
+ Tín dụng ngân hàng giúp nhà đầu tư nắm bắt được những cơ hội kinh doanh, doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất, các cá nhân có đủ khả năng tài chính để trang trải cho các khoản chi tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống…
+ Tín dụng ngân hàng ràng buộc trách nhiệm khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi trong thời hạn nhất định như thoả thuận.Do đó, buộc khách hàng phải nỗ lực, tận dụng hết khả năng của mình để sử dụng vốn vay hiệu quả, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng.
- Đối với ngân hàng
+ Tín dụng là hoạt động truyền thống, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có và mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng (từ 70% đến 90%). Mặc dù tỷ trọng của hoạt động tín dụng đang có xu hướng giảm, nhưng tín dụng ngân hàng vẫn luôn là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất đối với mỗi ngân hàng.
+ Thông qua hoạt động tín dụng mà ngân hàng đa dạng hoá được danh mục tài sản có, giảm thiểu rủi ro.
+ Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng mở rộng được các loại hình dịch vụ khác, như thanh toán, thu hút tiền gửi, kinh doanh ngoại tệ, tư vấn…
1.2. Rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có, được tạo ra khi ngân hàng cấp tín dụng.
Nói cách khác, rủi ro tín dụng là những thiệt hại, mất mát mà ngân hàng gánh chịu do người vay vốn hay người sử dụng vốn không trả đúng hạn, không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng tín dụng vì bất kể lý do gì.
1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn các rủi ro trong toàn bộ dư nợ cho vay của ngân hàng và gắn liền với khả năng trả nợ theo hợp đồng tín dụng của khách hàng, rủi ro tín dụng có thể phân chia thành hai loại: rủi ro đọng vốn và rủi ro mất vốn.
- Rủi ro đọng vốn: Là rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, bao gồm vốn gốc hoặc lãi vay, sự sai hẹn này là do trễ hẹn. Rủi ro đọng vốn sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn, trong đó phần lớn vốn thu được từ nợ gốc và lãi, hay nói cách khác là ngân hàng đem số vốn thu về để tái đầu tư nhưng nếu khoản vay bị ứ đọng không thu được thì kế hoạch đặt ra không thực hiện được, làm cho ngân hàng mất nguồn thu mới, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng trong các khoản vay mới và gây khó khăn cho việc chi trả người gửi tiền.
- Rủi ro mất vốn: Là rủi ro tín dụng khi khách hàng không trả một phần hoặc toàn bộ khoản tín dụng (xét trên khía cạnh số lượng), từ đó làm cho ngân hàng tăng chi phí do phải trích lập dự phòng rủi ro, chi phí cho việc đi thu nợ; làm cho dòng tiền của ngân hàng giảm sút, đồng thời doanh thu của ngân hàng chậm lại hoặc mất. Nếu bị mất gốc thì quy mô của ngân hàng sẽ bị giảm, nếu bị mất lãi thì khả năng sinh lời sẽ giảm.
1.2.3. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
1.2.3.1. Dấu hiệu từ phía khách hàng
- Dấu hiệu từ báo cáo tài chính
+ Bảng tổng kết tài sản: Ngân hàng không nhận được các báo cáo tài chính từ khách hàng kịp thời; Tiền mặt giảm; Giá trị tuyệt đối và tương đối của các khoản phải thu tăng một cách đột biến; Khả năng thanh khoản/ vốn lưu động giảm; Những thay đổi rõ rệt về cơ cấu tài sản kinh doanh; Những thay đổi nhanh chóng của tài sản cố định; Các khoản dự phòng tăng mạnh; Tập trung đầu tư nhiều vào tài sản vô hình; Gia tăng sự mất cân đối của các khoản nợ ngắn hạn; Các khoản nợ dài hạn tăng đáng kể và/ hoặc chiếm tỷ lệ lớn (nợ vay trung, dài hạn/ vốn chủ sở hữu lớn hơn 3); Những thay đổi đáng kể trong cơ cấu bảng tổng kết tài sản; Thay đổi tài khoản ngân hàng; Thời gian thu hồi công nợ trung bình tăng lên; Xuất hiện thêm các điều kiện gia hạn nợ vay ngân hàng hoặc khách hàng; Thay thế tài khoản các khoản phải thu thương mại bằng các khoản phải thu khác; Xuất hiện thêm các điều kiện gia hạn nợ vay ngân hàng hoặc khách hàng; Thay thế tài khoản các khoản phải thu thương mại bằng các khoản phải thu khác; Xuất hiện những thoả hiệp đối với những khoản phải thu; Chi phí chờ kết chuyển tăng đột biến; Hàng tồn kho tăng lên đáng kể
+ Báo cáo thu nhập, chi phí: Doanh số bán hàng giảm; Doanh số bán hàng gia tăng một cách nhanh chóng; Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và doanh thu ròng; Tỷ lệ phần trăm của chi phí trên tổng doanh thu và doanh thu ròng; Các khoản lỗ từ nợ quá hạn tăng lớn; Chi phí quản lý tăng cao không cân xứng so với mức tăng của doanh thu bán hàng; Tổng tài sản có tăng so với tỷ suất doanh thu bán hàng/ lợi nhuận; Xuất hiện lỗ từ hoạt động kinh doanh; Lưu chuyển tiền ròng từ hoạt động kinh doanh âm và/ hoặc có kết quả âm từ chu kỳ kinh doanh
- Dấu hiệu từ hoạt động kinh doanh: Thay đổi về phạm vi kinh doanh; Số liệu tài chính nghèo nàn và quản lý hoạt động kém hiệu quả; Khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ người bán; Bố trí nhà máy và thiết bị không hợp lý; Sử dụng nguồn nhân lực kém hiệu quả; Mất mát những dây chuyền sản xuất chính, quyền phân phối sản phẩm hoặc cung cấp; Mất một số hay nhiều khách hàng có năng lực tài chính tốt; Giá trị của từng đơn vị đặt hàng hoặc hợp đồng mua bán thay đổi đáng kể mà có thể mất cân bằng năng lực sản xuất hiện hành; Xuất hiện những vụ mua hàng tồn kho mang tính đầu cơ nằm ngoài nguyên tắc mua hàng thông thường của doanh nghiệp; Kém hiệu quả trong việc duy trì vận hành và bảo hành máy móc thiết bị; Việc thay thế những thiết bị máy móc lỗi thời diễn ra chậm chạp; Hàng tồn kho có dấu hiệu kém chất lượng, lưu hàng tồn kho với lượng lớn hoặc cơ cấu hàng tồn kho không phù hợp; Khách hàng trẩ lại hàng hoá do chất lượng không đảm bảo; Sản phẩm của doanh nghiệp có thị phần rất nhỏ trên thị trường, năng lực cạnh tranh thấp; tiền đề phát triển trong tương lai của doanh nghiệp không nằm trong xu thế tiêu thụ của thị trường
- Dấu hiệu từ giao dịch ngân hàng: Số dư tài khoản tiền gửi tại ngân hàng giảm; Công tác kế hoạch hoá tài chính cho các nhu cầu về tài sản cố định hoặc các nhu cầu về vốn lưu động thể hiện sự đơn giản, kém cỏi; Trông cậy nhiều vào các khoản nợ ngắn hạn; Thời hạn của đơn xin vay vốn theo mùa vụ thay đổi đáng kể; Đề nghị vay vốn của khách hàng thể hiện nhiều nguồn trả nợ khác nhau nhưng trên thực tế lại khó có thể nhận thấy được; Xuất hiện những chủ nợ khác, đặc biệt những chủ nợ nhận tài sản bảo đảm; Khó khăn khi thanh toán nợ ngân hàng khác; phải gia hạn nợ; Thanh toán không kịp thời các khoản nợ đến hạn, phải điều chỉnh kỳ hạn nợ liên tục.
- Dấu hiệu liên quan đến quản trị doanh nghiệp: Thay đổi trong thái độ, thói quen cá nhân của những người lãnh đạo doanh nghiệp; Thay đổi thái độ đối với ngân hàng, cán bộ ngân hàng, đặc biệt là khi họ tạo cảm giác thiếu tính hợp tác; Tái diễn những vấn đề bất ổn nhưng lại quá tự tin là có thể giải quyết được; Không có khả năng thực hiện kế hoạch; Báo cáo và quản lý tài chính yếu kém; Các chức năng điều hành và phân công xử lý công việc thể hiện sự chắp vá; Mạo hiểm khi mua bán, khi thực hiện công việc kinh doanh mới tại khu vực kinh doanh mới hoặc dây chuyền sản xuất mới; Mong muốn và khăng khăng đòi “đánh bạc” với kinh doanh chứa đựng những rủi ro quá mức; Đặt giá bán hàng hoá và dịch vụ thiếu thực tế; Những nhân vật chủ chốt của doanh nghiệp ốm dài hạn hoặc chết; Không có khả năng đáp ứng được các cam kết như kế hoạch đã đặt ra; Thay đổi trong quản lý, quyền sở hữu hoặc những nhân vật chủ chốt; Xuất hiện sự gián đoạn trong nguồn thu của các bộ phận tạo thuận lợi chủ yếu; Chậm trễ trong việc phản ứng lại với sự đi xuống của thị trường hoặc các điều kiện kinh tế; Thiếu những thành công trong quản lý; Có dấu hiệu nợ lương công nhân, nhân viên; Thay đổi tổ chức nhân sự, người điều hành; có dấu hiệu mất đoàn kết nội bộ; Khách hàng vay vốn (trường hợp khách hàng là cá nhân), người lãnh đạo, kế toán trưởng doanh nghiệp bị cơ quan có thẩm quyền bắt/ tạm giam liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp; Trình độ quản lý doanh nghiệp kém; Độ tín nhiệm của doanh nghiệp thấp; Khách hàng có dấu hiệu bỏ trốn hoặc mất tích; Sắp có sự thay đổi về hình thức sở hữu của doanh nghiệp.
1.2.3.2. Dấu hiệu liên quan đến công tác quản lý tín dụng
- Quy trình cho vay không được tuân thủ đúng quy định của ngân hàng.
- Cán bộ tín dụng có mối quan hệ đặc biệt bất bình thường với khách hàng.
- Các cấp quản lý trong ngân hàng thiếu sự giám sát quản lý sát sao.
- Lãnh đạo ngân hàng quá độc đoán khi phê duyệt khoản vay.
- Bỏ qua tình trạng phát hành séc quá số dư, không coi đó là một tín hiệu của vấn đề tài chính chủ yếu của người vay.
- Không thể kiểm tra tài sản kinh doanh của người vay.
- Cho vay dựa vào giá trị sổ sách của doanh nghiệp, không kiểm toán và xác minh báo cáo tài chính của người vay.
- Không thể thu nhập hoặc bỏ qua những báo cáo của bộ phận thông tin tín dụng hoặc những nguồn tham khảo tín dụng khác.
- Không thể đòi lại khoản vay nhưng lại cho rằng có thể nhanh chóng bù đắp bằng tài sản bảo đảm khi tình trạng suy giảm trở nên không thể cứu vãn.
- Không thể đánh giá chính xác, đánh giá quá cao, không quản lý hợp lý tài sản thế chấp khi tình trạng suy giảm trở nên không thể cứu vãn.
- Giải ngân trước khi hoàn thiện hồ sơ.
- Khoản vay thực hiện đối với doanh nghiệp có người đại diện pháp nhân mới nhưng lại thiếu kinh nghiệm.
- Cho vay nhưng không có tài sản bảo đảm thích đáng.
- Đảo nợ.
- Không phân tích, thiếu sự phân tích chính xác khả năng trả nợ của người vay.
- Cán bộ cho vay không kiểm tra tình trạng khoản vay một cách thường xuyên.
- Vốn vay không được sử dụng đúng mục đích.
- Vốn được sử dụng ngoài khu vực thị trường thông thường của ngân hàng; chất lượng trao đổi thông tin với khách hàng kém.
- Kế hoạch trả nợ không rõ ràng và không được quy định cụ thể bằng văn bản.
- Người vay gây khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc kiểm tra và giám sát tài sản đảm bảo.
1.2.3.3. Dấu hiệu từ khoản vay
- Hồ sơ cho vay thiếu sự chặt chẽ, độ tin cậy của những thông tin trong bộ hồ sơ bị nghi ngờ.
- Giá trị thực tế của tài sản bảo đảm thấp.
- Kế hoạch trả nợ và nguồn trả nợ không hợp lý.
- Nguồn trả nợ không đúng với kế hoạch vay vốn.
1.2.3.4. Các dấu hiệu khác
- Cơ chế chính sách thay đổi ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh của khách hàng vay.
- Giá cả thị trường thay đổi làm ảnh hưởng trực tiếp đến đầu vào, đầu ra của sản phẩm mà khoản vay đó đầu tư.
- Tỷ giá ngoại hối tăng ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay ngoại tệ của khách hàng, ảnh hưởng đến tình hình xuất nhập khẩu, ảnh hưởng đến hoạt động của khách hàng.
1.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng
Có nhiều chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng của một ngân hàng. Song có thể kể đến một vài chỉ tiêu quan trọng sau:
1.2.4.1. Các chỉ tiêu phản ánh nợ quá hạn:
Nợ quá hạn phát sinh khi khoản vay đến hạn mà khách hàng không hoàn trả được toàn bộ hay một phần tiền gốc hoặc lãi vay. Nợ quá hạn thường là biểu hiện yếu kém về tài chính của khách hàng và là dấu hiệu rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, nợ quá hạn phát sinh là không thể tránh khỏi, nhưng nếu nợ quá hạn vượt quá tỷ lệ cho phép sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Nợ quá hạn có nhiều mức độ khác nhau, căn cứ vào tính chất rủi ro, người ta có các chỉ tiêu phản ánh nợ quá hạn sau:
a. Tỷ lệ tổng dư nợ có nợ quá hạn:
Tổng dư nợ có NQH
Tỷ lệ NQH =
x 100%
Tổng dư nợ
Do chỉ tiêu “Tổng dư nợ có nợ quá hạn” bao gồm toàn bộ dư nợ của một khách hàng (kể cả đến hạn và chưa đến hạn) kể từ khi xuất hiện món nợ quá hạn đầu tiên, nên nó phản ánh chính xác hơn mức độ rủi ro (chất lượng) tín dụng của ngân hàng.
Tổng số khách hàng quá hạn
Tỷ lệ khách hàng có NQH =
b. Chỉ tiêu Khách hàng có nợ quá hạn:
x 100%
Tổng số KH có dư nợ
Chỉ ti
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3699.doc