Tiến trình CNH – HĐH đất nước cần phải có vốn, công nghệ, nhân lực,. trong đó, vốn là yếu tố cơ bản nhất. Trong điều kiện vốn của Ngân sách Nhà nước có hạn, thị trường chứng khoán chưa phát triển, vốn tự có của doanh nghiệp rất thấp thì vốn của các NHTM có vai trò rất quan trọng. Thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH này, đòi hỏi một lượng vốn rất lớn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, kinh tế nông thôn. Như vậy nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế đang và sẽ là rất lớn. Ở hầu hết các nước công nghiệp trong nhóm 10, 15 nước hàng đầu trên Thế giới, nghiệp vụ cho vay của các trung gian tài chính đã chuyển dần từ ngắn hạn sang dài hạn. Trong khi đó, ở hầu hết các nước đang phát triển như Việt Nam, các nước ASEAN, Nam Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc, thì hiện nay cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn do tính thiếu an toàn của các khoản đầu tư dài hạn mà yếu tố chính trị, lạm phát, tình hình tăng trưởng là các tác nhân chủ yếu . Một điểm đáng lưu tâm nữa là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng thể hiện vai trò quan trọng và đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế nước nhà; song lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động các nguồn vốn phục vụ đầu tư, kinh doanh sản xuất.
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy (CN NHCTCG) dưới sự chỉ đạo chung của Ngân hàng Công thương Việt Nam (NHCTVN) đã và đang phát triển theo định hướng tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn giúp các doanh nghiêp ngoài quốc doanh (DNNQD) có điều kiện đầu tư chiều sâu, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, nâng cao chất lượng và năng lực sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu; làm tiền đề cho CNH - HĐH. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã nảy sinh nhiều vướng mắc và kết quả đạt được chưa như mong muốn. Vì vậy vấn đề cấp thiết hiện nay là phải tìm ra được biện pháp giải quyết tình trạng này. Trên đây là những lý do xuất phát từ sự cấp thiết của thực tiễn để em lựa chọn đề tài “Giải pháp nhằm phát triển cho vay trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy”
72 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1450 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm phát triển cho vay trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Tiến trình CNH – HĐH đất nước cần phải có vốn, công nghệ, nhân lực,... trong đó, vốn là yếu tố cơ bản nhất. Trong điều kiện vốn của Ngân sách Nhà nước có hạn, thị trường chứng khoán chưa phát triển, vốn tự có của doanh nghiệp rất thấp thì vốn của các NHTM có vai trò rất quan trọng. Thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH này, đòi hỏi một lượng vốn rất lớn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, kinh tế nông thôn... Như vậy nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế đang và sẽ là rất lớn. Ở hầu hết các nước công nghiệp trong nhóm 10, 15 nước hàng đầu trên Thế giới, nghiệp vụ cho vay của các trung gian tài chính đã chuyển dần từ ngắn hạn sang dài hạn. Trong khi đó, ở hầu hết các nước đang phát triển như Việt Nam, các nước ASEAN, Nam Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc,… thì hiện nay cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn do tính thiếu an toàn của các khoản đầu tư dài hạn mà yếu tố chính trị, lạm phát, tình hình tăng trưởng là các tác nhân chủ yếu Trang 226, Tiền và hoạt động ngân hàng (TS Lê Vinh Danh – NXB Tài chính)
. Một điểm đáng lưu tâm nữa là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng thể hiện vai trò quan trọng và đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế nước nhà; song lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động các nguồn vốn phục vụ đầu tư, kinh doanh sản xuất.
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy (CN NHCTCG) dưới sự chỉ đạo chung của Ngân hàng Công thương Việt Nam (NHCTVN) đã và đang phát triển theo định hướng tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn giúp các doanh nghiêp ngoài quốc doanh (DNNQD) có điều kiện đầu tư chiều sâu, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, nâng cao chất lượng và năng lực sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu; làm tiền đề cho CNH - HĐH. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã nảy sinh nhiều vướng mắc và kết quả đạt được chưa như mong muốn. Vì vậy vấn đề cấp thiết hiện nay là phải tìm ra được biện pháp giải quyết tình trạng này. Trên đây là những lý do xuất phát từ sự cấp thiết của thực tiễn để em lựa chọn đề tài “Giải pháp nhằm phát triển cho vay trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Cầu Giấy”
2. Mục đích nghiên cứu
Chuyên đề tập trung nghiên cứu các nội dung sau:
Những vấn đề cơ bản về cho vay trung và dài hạn của NHTM; cũng như tìm hiểu về khu vực DNNQD
Khái quát về thực trạng công tác cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD tại CN NHCTCG
Đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD tại CN NHCTCG
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là: hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là thực trạng hoạt động cho vay trung và dài hạn tại CN NHCTCG đối với riêng DNNQD trong thời gian 3 năm 2005, 2006, 2007 và hướng phát triển tiếp theo của hoạt động này trong thời gian tới
4. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng kết hợp trong chuyên đề bao gồm: phương pháp thống kê và thu thập dữ liệu, phương pháp phân tích, so sánh đối chiếu, tổng hợp.
5. Kết cấu chuyên đề
Kết cấu chuyên đề gồm 3 phần:
Chương 1: Tổng quan về cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD tại CN NHCTCG
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD tại CN NHCTCG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về cho vay trung và dài hạn của NHTM
1.1.1. Khái niệm cho vay trung và dài hạn
Cho vay là “một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi” Điều 3, quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN
. Nghiệp vụ cho vay có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: căn cứ vào tài sản thế chấp, căn cứ vào hạn mức tín dụng, căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, căn cứ vào thời gian vay. Theo tiêu thức thời gian vay, cho vay được chia ra thành: cho vay ngắn hạn (cho vay theo đặc điểm tuần hoàn và luân chuyển của vốn) thường để bổ sung cho cho vốn lưu động của khách hàng; ngược lại cho vay trung và dài hạn là để bổ sung cho tài sản cố định của người đi vay nhằm phát triển sản xuất theo chiều rộng và chiều sâu.
Cho vay trung và dài hạn của ngân hàng là các khoản cho vay có thời hạn trên 01 năm nhưng không dài hơn thời gian sử dụng còn lại của tài sản hình thành bằng vốn vay. Việc phân định cụ thể thời gian của cho vay trung hạn và dài hạn tuỳ thuộc vào quy định của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, theo “Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng” Điều 8, quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN
thì: “Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng; Cho vay dài hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay từ trên 60 tháng trở lên”.
1.1.2. Vai trò của cho vay trung và dài hạn
Vai trò của cho vay trung và dài hạn đối với NHTM
Mang lại lợi nhuận cao hơn cho vay ngắn hạn
Trong các loại tài sản của ngân hàng thì khoản mục cho vay bao giờ cũng chiếm tỷ trọng cao nhất (thường là 70%) và là khoản mục mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Trong tổng thể các hoạt động cung cấp dịch vụ của NHTM thì chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù đắp nổi các chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí thuế và các chi phí rủi ro đầu tư… Hoạt động cho vay trung và dài hạn tuy chiếm tỷ trọng nhỏ do tính rủi ro cao nhưng cũng chính tính rủi ro của những khoản cho vay này lại đem lại lợi nhuận cao hơn các khoản cho vay ngắn hạn của NHTM. Thu nhập từ tiền cho vay biểu hiện dưới dạng lãi tiền vay phụ thuộc chủ yếu vào thời hạn món vay. Thời hạn cho vay càng dài thì lãi suất càng cao và do đó thu nhập của ngân hàng càng lớn. Do đó, ngân hàng nào càng mở rộng cho vay trung và dài hạn thì càng có cơ hội kiếm lời nhiều hơn.
Mở rộng thị phần cho NHTM
Nguồn huy động vốn trung và dài hạn – cơ sở để phát triển cho vay trung và dài hạn của NHTM là nguồn khan hiếm và đắt đỏ do đó khả năng mở rộng tín dụng trung và dài hạn thể hiện tiềm lực về vốn của ngân hàng góp phần làm tăng uy tín của ngân hàng. Đó là cơ sở để tạo lòng tin cho các khách hàng hiện tại và khách hàng tương lai. Hơn thế nữa, phát triển cho vay trung và dài hạn còn được coi là một vũ khí cạnh tranh lợi hại. Bởi lẽ, doanh nghiệp được vay vốn trung và dài hạn họ sẽ có điều kiện để đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị mở rộng sản xuất, … do đó sẽ nảy sinh nhu cầu cần vốn lưu động. Bên cạnh việc mở rộng sản xuất kinh doanh thì nhu cầu về thanh toán, bảo lãnh, tư vấn, … cũng từ đó mà phát triển. Trong trường hợp đó, ngân hàng mà doanh nghiệp đã vay nợ trung và dài hạn sẽ là địa chỉ đầu tiên mà doanh nghiệp tìm tới cho các nhu cầu về vốn, cũng như các dịch vụ ngân hàng khác phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Góp phần nâng cao chất lượng các khoản cho vay của NHTM
Một khi đã đồng ý cho vay và ký kết hợp đồng tín dụng trung và dài hạn với khách hàng nghĩa là NHTM đó đã xác định sẽ tạo lập quan hệ lâu dài với khách hàng đó. Quan hệ lâu dài không chỉ giới hạn trong khoảng thời gian dài của một khoản vay mà là nhiều khoản vay khác nữa sau đó. Hơn thế nữa, thì việc phát triển cho vay trung và dài hạn còn góp phần đảm phát triển các khoản cho vay ngắn hạn và các dịch vụ khác của ngân hàng . Mối quan hệ này được tạo lập dựa trên quá trình thẩm định kỹ càng khách hàng do đó sẽ đảm bảo tính an toàn cho những khoản vay. Như vậy thông qua cho vay trung và dài hạn NHTM tạo sự gắn bó với khách hàng, tạo ra nhóm khách hàng trung thành của NHTM, là cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Như vậy, một mặt thì do nhu cầu khách quan của nền kinh tế, mặt khác để đạt được mục tiêu phát triển cho chính mình thì đối với các NHTM cho vay trung và dài hạn luôn là mảng kinh doanh đầy tiềm năng.
Đối với nền kinh tế
Cho vay trung và dài hạn của NHTM góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Nó là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế mũi nhọn. Thông qua hệ thống ngân hàng, Nhà nước tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển bằng việc cho vay ưu đãi với lãi suất thấp, thời gian dài, mức vốn lớn. Bên cạnh đó Nhà nước còn có thể tài trợ cho những ngành kinh tế mũi nhọn - các ngành này phát triển sẽ tạo cơ sở cho các ngành kinh tế khác phát triển theo. Bên cạnh đó, khi cho vay thì một trong những yêu cầu đầu tiên mà ngân hàng đặt ra là phải đảm bảo được tính an toàn. Chính vì vậy mà ngân hàng luôn có các biện pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ trước, trong và sau khi cho vay đối với mọi dự án. Và cũng không giống như nguồn vốn cấp phát từ ngân sách Nhà nước, nguồn vốn từ ngân hàng được cấp dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi, vì vậy người đi vay sẽ phải đảm bảo thực hiện đúng tiến độ, sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất. Đây chính là điểm ưu việt của nguồn vốn vay trung và dài hạn của NHTM so với nguồn từ ngân sách Nhà nước.
Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, nguồn vốn trung và dài hạn là một nhân tố quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Thêm vào đó, nó là công cụ đòn bẩy thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế hàng hoá, hình thành và góp phần ổn định nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, thị trường tài chính – tiền tệ, nhất là thị trường vốn chưa phát triển thì toàn bộ áp lực về vốn trung và dài hạn đang dồn lên vai các ngân hàng.
1.1.3. Đặc điểm của cho vay trung, dài hạn của NHTM
Mục đích cho vay
“Bên cho vay cho bên vay vay vốn trung hạn và dài hạn để đầu tư cho các dự án xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu lợi nhuận, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội và pháp luật của Nhà nước” Điều 4, quyết định 367/1995/QĐ-NHNN
Cho vay trung và dài hạn của NHTM nhằm tài trợ vốn cho việc hình thành tài sản cố định của khách hàng. Cụ thể là:
Cho vay trung hạn là loại cho vay vốn được sử dụng để tài trợ cho tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng bị hao mòn; cải tiến đổi mới kỹ thuật và sản phẩm; mở rộng sản xuất kinh doanh; xây dựng các dự án có quy mô nhỏ và có thời gian thu hồi vốn nhanh…
Cho vay dài hạn là loại cho vay được sử dụng tài trợ cho công trình xây dựng và cải tạo như nhà, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu dài.
Đối tượng cho vay
Cho vay trung và dài hạn của NHTM xác định đối tượng cho vay: “ Là các chi phí cấu thành trong tổng mức đầu tư của dự án đầu tư xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ, bao gồm: giá trị vật tư, máy móc, thiết bị, công nghệ chuyển giao, sáng chế và phát minh; chi phí nhân công; giá thuê và chuyển nhượng đất đai; giá thuê mua các tài sản khác trong khuôn khổ Luật định; chi phí mua bảo hiểm tài sản thuộc dự án đầu tư; chi phí khác” Điều 8, quyết định 367/1995/QĐ-NHNN
Nguồn hình thành nguồn vốn trung và dài hạn của NHTM
Tín dụng trung, dài hạn hình thành từ 5 nguồn: vốn chủ sở hữu; vốn huy động dài hạn (trái phiếu, tiền gửi dài hạn); huy động ngắn hạn; vay nước ngoài; vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư của Nhà nước, của tổ chức kinh tế - tài chính - tín dụng - xã hội ở trong và ngoài nước
Vốn chủ sở hữu hình thành do vốn góp hay do tích luỹ được trong quá trình kinh doanh có vai trò rất quan trọng. Nó góp phần xác định quy mô và cơ cấu của ngân hàng, tăng khả năng mở rộng cho vay và đầu tư, đặc biệt là trung và dài hạn. Số vốn này thuộc về sở hữu của NHTM nên dùng để cho vay trung và dài hạn là khá an toàn. Tuy nhiên vốn chủ sở hữu lại chiếm tỷ trọng nhỏ, thường chỉ từ 5% đến 7% nên không dễ dàng mở rộng cho vay.
Nguồn hình thành từ hoạt động phát hành trái phiếu của ngân hàng và huy động tiền gửi dài hạn của khách hàng: Nguồn từ phát hành trái phiếu không có tính thường xuyên và cũng chỉ chiếm từ 4% đến 6,7% lượng vốn mà NHTM huy động được. Còn nguồn từ tiền gửi dài hạn của khách hàng tại ngân hàng thì còn hạn chế về cả khối lượng và thời gian gửi. Hơn nữa lãi mà ngân hàng phải trả cho tiền huy động dài hạn lại cao hơn khi huy động ngắn hạn. Do đó nguồn này được xem là khan hiếm và đắt đỏ.
Nguồn do huy động ngắn hạn chiếm tới 70% tổng lượng vốn huy động của NHTM do đó có thể xem đây là một nguồn dồi dào. Và với công cụ chuyển hoán kỳ hạn thì nguồn ngắn hạn có thể dùng để cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên NHNN cũng quy định một tỷ lệ tối đa cho việc chuyển hoán này nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM.
Vay nợ nước ngoài: việc vay nợ nước ngoài để có nguồn vốn cho vay trung và dài hạn phổ biến ở các ngân hàng trên Thế giới. Nguồn này có khối lượng lớn, lãi suất phù hợp, chất lượng vốn cao nhưng đối với các nước đang phát triển như nước ta do trình độ quản lý còn thấp nên hiệu quả sử dụng vốn không cao sẽ dễ dẫn tới tình trạng không trả được nợ.
Nguồn vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư là nguồn chỉ có tính chất thời điểm.
Tóm lại, nguồn vốn cho vay trung và dài hạn của các NHTM hiện nay còn rất hạn hẹp. Nguồn vốn hạn hẹp dẫn tới khả năng cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng là không đáng kể, hạn chế mở rộng quan hệ của ngân hàng với khách hàng.
Lãi suất khoản vay
Theo cấu trúc rủi ro lãi suất thì “thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao”. Nguyên nhân là, thời hạn cho vay chính là thời gian sử dụng vốn nên thời hạn càng dài giá trị sử dụng càng lớn thì lãi suất càng cao. Hơn nữa, thời gian càng dài thì xác suất để món vay gặp rủi ro càng lớn. Đó là lý do mà NHTM định ra mức lãi suất của các khoản cho vay trung và dài hạn thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, không những để bù đắp cho chi phí của việc huy động vốn dài hạn mà còn nhằm mục đích bù lại những thiệt hại có thể xẩy ra. Đó là chưa kể đến việc ngân hàng sẽ mất cơ hội sử dụng khoản cho vay một cách linh hoạt trong khoảng thời gian dài của một hợp đồng tín dụng. Mức lãi suất cho vay do NHTM và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định của NHNN Điều 11 quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN
. Lãi suất áp dụng ở đây có thể là cố định suốt thời hạn vay vốn (gọi là lãi suất cố định), cũng có thể là lãi suất biến đổi tuỳ thuộc sự biến động của thị trường (gọi là lãi suất thả nổi). Tuy nhiên với các khoản cho vay có thời gian là trung và dài hạn thì NHTM thường áp dụng lãi suất thả nổi nhằm đảm bảo cả hai mục tiêu là an toàn và sinh lợi.
1.1.3.7. Cho vay trung và dài hạn có tính rủi ro cao
So với các khoản cho vay ngắn hạn với thời gian dưới 01 năm thì cho vay trung và dài hạn là hoạt động có tính rủi ro cao. Tính chất rủi ro của các khoản cho vay trung và dài hạn cao xuất phát từ đặc điểm về thời hạn cho vay dài và quy mô cho vay lớn của chúng.
“Thời hạn cho vay được TCTD và khách hàng thoả thuận căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời gian thu hồi vốn của phương án, dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn cho vay của TCTD. Đối với các pháp nhân Việt Nam và nước ngoài, thời hạn cho vay không quá thời gian hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc theo giấy phép hoạt động tại Việt Nam” Điều 10 Quyết định 1627/QĐ-NHNN
. Do mục đích của các khoản vay như đã trình bày thì thời gian để khách hàng có thể hoàn vốn là rất dài đồng thời khối lượng vốn vay lại rất lớn. Trong thời gian đó nhiều biến động không mong muốn có thể xảy ra như khách hàng làm ăn thua lỗ, dự án không được hoàn thành, lãi suất thị trường tăng cao trong khi lãi suất cho vay đã được cố định từ trước trong hợp đồng tín dụng, … đều có thể gây thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp cho hoạt động của NHTM.
Tính rủi ro của các khoản cho vay trung và dài hạn còn thể hiện ở chỗ đây là những tài sản kém thanh khoản, khó có thể chuyển nhượng hay thế chấp được. Do đó một khi ngân hàng đã đồng ý cho vay thì đồng nghĩa với việc phải chấp nhận sự rủi ro trong suốt thời hạn tín dụng cam kết trên hợp đồng.
Thêm vào đó, việc chuyển hoán kỳ hạn nguồn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn của NHTM cũng được cảnh báo là tiềm ẩn nhiều rủi ro. Theo quyết định 457/2005/QĐ-NHNN về các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng do NHNN ban hành, các NHTM được phép dùng tối đa 40% tổng nguồn vốn ngắn hạn của mình để sử dụng cho vay trung và dài hạn.
Tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung và dài hạn Nghiệp vụ ngân hàng (Trường ĐH Kinh tế TPHCM – NXB Thống kê 2005
:
Giá trị nguồn vốn ngắn hạn dùng cho vay trung và dài hạn
Tn =
Dư nợ cho vay dài hạn
Sở dĩ phải quy định tỷ lệ chuyển hoán này bởi vì đặc trưng hoạt động của NHTM là dùng tiền huy động được để cho vay. Vốn huy động không kỳ hạn có thể bị khách hàng rút ra bất cứ lúc nào; vốn huy động dưới 01 năm nếu dùng quá nhiều để cho vay trung và dài hạn thì khi đáo hạn khách hàng đến rút tiền ngân hàng sẽ không thể chi trả. Việc chuyển hoán kỳ hạn nguồn ngắn để cho vay trung và dài hạn nếu vượt quá mức an toàn do các NHTM mải chạy theo lợi nhuận sẽ dẫn đến khả năng mất cân đối vốn hoạt động hằng ngày. Và quan trọng hơn là trong điều kiện kinh tế thế giới đang thiếu ổn định, cho vay trung và dài hạn nhiều dễ gặp rủi ro trong tương lai.
Tóm lại, các đặc điểm của khoản cho vay trung và dài hạn như quy mô món vay, thời hạn cho vay, cũng như mục đích sử dụng của khoản vay đều cho thấy tính chất rủi ro của tín dụng trung và dài hạn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM. Đây là nguyên nhân vì sao tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các NHTM thường cao hơn tín dụng trung và dài hạn. Tuy rủi ro cao song lợi nhuận nó đem lại cho ngân hàng (như đã phân tích ở phần vai trò của cho vay trung và dài hạn) lại rất hứa hẹn nếu không xảy ra các tình huống ngoài dự đoán của ngân hàng. Như vậy vấn đề đặt ra không phải là hạn chế cho vay trung và dài hạn để giảm rủi ro mà phải biết tìm ra các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động cho vay trung và dài hạn để tìm hướng giải quyết hợp lý sao cho vừa đảm bảo được tính an toàn vừa nâng cao lợi nhuận
1.2. Khái quát về DNNQD tại Việt Nam
Hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội mỗi nước khác nhau sẽ tạo nên những đặc điểm không thể giống nhau của khối kinh tế ngoài quốc doanh. Tại Việt Nam thì khối DNNQD mới chỉ được Đảng chính thức công nhận như một thành phần kinh tế tất yếu khách quan từ năm 1986. Tuy nhiên, để đảm bảo việc bám sát tình hình thực tế của Việt Nam cũng như có đầy đủ các số liệu nhằm làm rõ các vấn đề nêu ra thì trong giới hạn của chuyên đề này, em xin được tập trung tìm hiểu riêng về DNNQD tại Việt Nam.
1.2.1. Khái niệm DNNQD
Sách Quản trị doanh nghiệp Quản trị doanh nghiệp (Nguyễn Hải Sản – NXB Thống kê)
đã đưa ra một khái niệm được xem là đầy đủ nhất về DNNQD. Theo đó thì:
“DNNQD là các doanh nghiệp vốn trong nước, mà nguồn vốn thuộc sở hữu tập thể, tư nhân một người hay một nhóm người hoặc có sở hữu Nhà nước nhưng chiếm từ 50% vốn điều lệ trở xuống. DNNQD bao gồm:
Các hợp tác xã (trừ hợp tác xã nông, lâm nghiệp, thuỷ sản)
Doanh nghiệp tư nhân
Công ty hợp danh
Công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân (kể cả công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn Nhà nước từ 50% trở xuống)
Các công ty cổ phần tư nhân
Các công ty cổ phần có vốn Nhà nước từ 50% vốn điều lệ trở xuống”
1.2.2. Đặc điểm của DNNQD tại Việt Nam
1.2.2.1. Quy mô nhỏ
Khu vực DNNQD với 96% số doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ (có vốn đăng ký kinh doanh dưới 10 tỷ đồng, có số lao động thường xuyên làm việc dưới 300 người). Các DNNQD bình quân chỉ có 40 lao động, 7 tỷ đồng vốn. Trong khi đó với DNQD, con số này là 421 lao động và 167 tỷ đồng vốn. Với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, con số tương ứng là 299 lao động, 152 tỷ đồng vốn Niên giám Thống kê năm 2007 (NXB Thống kê)
. Quy mô nhỏ, năng lực tài chính thấp làm doanh nghiệp chỉ có thể tiến hành sản xuất kinh doanh manh mún, nhỏ lẻ. DNNQD rất cần vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng đối với họ thì muốn thu hút thêm vốn đầu tư cũng khó khăn vì không có đủ uy tín trên thị trường và với ngân hàng. Do đó “khát vốn” hiện vẫn đang là vấn đề cấp thiết đối với khối DNNQD.
1.2.2.2. Kỹ thuật, công nghệ sản xuất lạc hậu
Các DNNQD bị giới hạn trong các ngành nghề nhỏ lẻ đòi hỏi ít vốn, thời gian thu hồi vốn nhanh và lao động giản đơn. Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xuất khẩu cũng chủ yếu là hàng nông sản, may mặc, thủ công mỹ nghệ, … là những ngành nghề chủ yếu sử dụng lao động thủ công. Vốn ít đã khiến các DNNQD ít có khả năng trang bị công nghệ tiên tiến, với mức đầu tư trung bình cho tài sản cố định trên một lao động chỉ có 43 triệu đồng so với 137 triệu đồng đối với DNQD và 247 triệu đồng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Niên giám Thống kê năm 2007 (NXB Thống kê)
. Máy móc thiết bị nhập khẩu chủ yếu thuộc thế hệ thứ hai, thứ ba của nước ngoài. Kỹ thuật công nghệ lạc hậu là tác nhân chính gây trì trệ trong quá trình sản xuất kinh doanh của các DNNQD.
1.2.2.3. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh đa dạng
Các DNNQD hoạt động trên hầu hết mọi địa bàn, mọi ngành nghề của nền kinh tế: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, nông – lâm nghiệp, thuỷ sản, thương mại, du lịch và dịch vụ. Trong đó tập trung lớn hơn vào các ngành thương mại, dịch vụ và công nghiệp. Thậm chí một doanh nghiệp cũng có thể hoạt động cùng lúc trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều này không chỉ thúc đẩy lưu thông hàng hoá mà còn giúp giảm rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thuộc khu vực này đã khơi dậy, huy động và khai thác một tiềm năng to lớn về tiền vốn, sức lao động, trí tuệ, kinh nghiệm, khả năng kinh doanh và các nguồn lực khác của địa phương mình.
1.2.2.4. Dễ thích ứng với biến động môi trường kinh doanh
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ được đánh giá là bộ phận năng động, hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế. Điều này xuất phát từ lợi thế của quy mô nhỏ, gọn nên việc chuyển hướng trong kinh doanh của các DNNQD dễ dàng hơn. Đặc điểm hoạt động đa dạng ngành nghề cũng góp phần giảm thiểu rủi ro cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khối doanh nghiệp này. Thêm vào đó, phần lớn chủ DNNQD là lớp trẻ, nhạy bén với những thay đổi trên thị trường. Do đó họ dễ thích ứng với những biến động trái chiều của thị trường. Và đây là cơ sở để các DNNQD có sự gia tăng nhanh chóng về số lượng và thị phần ngày càng lớn (theo thống kê Số liệu thống kê DNNQD năm 2007 (website của Tổng cục Thống kê)
cuối năm 2007 thì trong 5 năm qua đã có 170.000 DNNQD đăng ký hoạt động, gấp 3 lần tổng số doanh nghiệp thành lập trong 10 năm 1991 – 1999)
1.2.2.5. Không thực hiện chế độ sổ sách kế toán nghiêm túc
Ở khối DNNQD tồn tại một tính từ để miêu tả đặc điểm của khu vực kinh tế này là “tính phi chính thức”. Đặc tính này được thể hiện rõ nhất trong công tác sổ sách kế toán của họ. Nhiều doanh nghiệp khối kinh tế này không tuân thủ đúng theo pháp lệnh kế toán của Nhà nước, sổ sách kế toán không đầy đủ, và đặc biệt là hay làm giả số liệu. Thực tế là có những doanh nghiệp sử dụng tới 3 loại sổ sách kế toán: 1 cho chủ doanh nghiệp (thông tin thực có), 1 dùng để tính thuế (ghi giảm thu nhập và lợi tức), 1 cho ngân hàng (thổi phồng các chỉ tiêu kinh tế và kết quả kinh doanh). Chính tính “phi chính thức” của khối DNNQD đã gây ra tâm lý không tin tưởng cho bên thứ hai với những thông tin về hiệu quả hoạt động mà doanh nghiệp đó cung cấp.
Như vậy, nhu cầu cấp thiết trước mắt và trong tương lai của khối DNNQD vẫn là làm sao để khơi tăng nguồn vốn, nhất là nguồn vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp mình. Có như vậy, DNNQD mới có thể đầu tư mở rộng sản xuất theo chiều sâu; tham gia vào các lĩnh vực ngành nghề đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ cao; tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường. Và bên cạnh những ưu điểm không thể phủ nhận thì khu vực DNNQD cũng tồn tại nhiều nhược điểm cần khắc phục ngay trong thời gian tới nhằm phát triển cho xứng với tiềm năng vốn có của mình. Một trong những biện pháp có thể giúp các DNNQD trong cả ngắn hạn và dài hạn chính là vay vốn từ NHTM. Nhận định này sẽ được làm rõ trong các phần tiếp theo.
1.2.3. Vai trò của DNNQD Việt Nam trong nền kinh tế thị trường
DNNQD Việt Nam ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng của mình, xứng đáng là một trong những động lực của nền kinh tế hiện nay.
1.2.3.1. Tạo thêm nhiều việc làm
DNQD không thể tạo đủ việc làm cho tất cả mọi lao động trong xã hội; khu vực doanh nghiệp nước ngoài thì không phải lao động nào cũng có thể đáp ứng những yêu cầu về trình độ, kỹ năng do họ đặt ra; do đó các DNNQD trở thành cứu cánh cho số lao động này. Hơn nữa do tính đa dạng trong loại hình của DNNQD, tính đa dạng trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, phạm vi phân bố rộng, dễ dàng thành lập bởi một cá nhân, một gia đình, hay một số cổ đông liên kết lại dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần cùng với việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần tương đối nhiều lao động, kinh tế ngoài quốc doanh là nơi tạo việc làm nhanh nhất, dễ dàng hơn so với khu vực kinh tế Nhà nước.
T
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2781.doc