Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go. Trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân ta không những đứng vững mà còn vươn lên, đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. Để có được những kết quả đó không thể không kể đến vai trò kinh tế hết sức quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực tế đã chứng minh điều khẳng định trên là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 1991-1995 đạt 8,2%, lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991; 12,7% năm 1995. Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo. Đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng được củng cố. Bên cạnh đó, chúng ta cũng còn nhiều vấn đề tồn đọng và yếu kém cần giải quyết: nền kinh tế của đát nước còn nghèo và chậm phát triển, tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực, quản lý nhà nước còn nhiều thiếu sót, cồng kềnh.
Tuy vậy, đến nay, thế và lực của nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Đó là do chúng ta đã vận dụng cơ chế thị trường một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp, vận hành theo cơ chế chỉ huy chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế nước ta phải trải qua thời kỳ quá độ - đó là thời kỳ cơ chế cũ chưa hoàn toàn mất đi, cơ chế mới chưa thực sự ra đời. Vì vậy chúng ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách. Trong điều kiện đó, vai trò kinh tế của nhà nước cực kỳ quan trọng. Lý do để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế là do có những trục trặc của thị trường. Đôi khi thị trường không phân bố các nguồn lực một cách có hiệu quả và sự can thiệp của chính phủ có thể cải thiện các hoạt động kinh tế. Chính phủ đặt ra các qui định về luật pháp và trong việc đảm bảo tài chính cho mình, thông qua đánh thuế và vay mượn, chính phủ gây một ảnh hưởng rất lớn tới giá cả, lãi xuất và sản xuất. Tuy nhiên, chính phủ cũng không thể kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo, nhưng chính phủ có thể kiểm soát phần lớn tổng chi và lượng tiền trong nền kinh tế do đó chính phủ sẽ có những quyết định đúng đắn vào những thời điểm cần thiết. Với nước ta, quản lý nhà nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, là điều kiện của ổn định và phát triển kinh tế.
19 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1026 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go. Trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân ta không những đứng vững mà còn vươn lên, đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. Để có được những kết quả đó không thể không kể đến vai trò kinh tế hết sức quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực tế đã chứng minh điều khẳng định trên là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 1991-1995 đạt 8,2%, lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991; 12,7% năm 1995. Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo. Đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng được củng cố. Bên cạnh đó, chúng ta cũng còn nhiều vấn đề tồn đọng và yếu kém cần giải quyết: nền kinh tế của đát nước còn nghèo và chậm phát triển, tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực, quản lý nhà nước còn nhiều thiếu sót, cồng kềnh.
Tuy vậy, đến nay, thế và lực của nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Đó là do chúng ta đã vận dụng cơ chế thị trường một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp, vận hành theo cơ chế chỉ huy chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế nước ta phải trải qua thời kỳ quá độ - đó là thời kỳ cơ chế cũ chưa hoàn toàn mất đi, cơ chế mới chưa thực sự ra đời. Vì vậy chúng ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách. Trong điều kiện đó, vai trò kinh tế của nhà nước cực kỳ quan trọng. Lý do để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế là do có những trục trặc của thị trường. Đôi khi thị trường không phân bố các nguồn lực một cách có hiệu quả và sự can thiệp của chính phủ có thể cải thiện các hoạt động kinh tế. Chính phủ đặt ra các qui định về luật pháp và trong việc đảm bảo tài chính cho mình, thông qua đánh thuế và vay mượn, chính phủ gây một ảnh hưởng rất lớn tới giá cả, lãi xuất và sản xuất. Tuy nhiên, chính phủ cũng không thể kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo, nhưng chính phủ có thể kiểm soát phần lớn tổng chi và lượng tiền trong nền kinh tế do đó chính phủ sẽ có những quyết định đúng đắn vào những thời điểm cần thiết. Với nước ta, quản lý nhà nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, là điều kiện của ổn định và phát triển kinh tế.
nội dung
1. Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế
Để tìm hiểu vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay trước hết chúng ta phảI hiểu kinh tế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế đó có tác dụng giải phóng mọi năng lực của xã hội, huy động mọi tiềm năng của ngành và thanh phần kinh tế. Cơ chế thị trường đã có tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó không những không là nhân tố đối lập mà còn là nhân tố khách quan cần thiết cho xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN.
Tuy vậy bản thân nền kinh tế thị trường cũngchứa đựng những khuyết tật. Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường có hoạt động tốt cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc, số người thất nghiệp ngày càng tăng, công bằng xã hội không được đảm bảo. . . như vậy bản thân nền kinh tế thị trường không thể giải quyết đồng thời mục tiêu phát triển và muc tiêu công bằng xã hội.
Vì vậy tất cả các nước mà nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết đều có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế nhằm phát huy những ưu điểm và khắc phục những khuyết điểm của nó, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, hiệu quả và đạt được sự công bằng xã hội. Trong nền kinh tế thị trường nhà nước thực hiện sự định hướng, tạo lập các cân đối vĩ mô, ngăn nhừa những đột biến xấu, điều chỉnh thông qua các công cụ chính sách pháp luật đảm bảo về mặt pháp lý sự bình đẳng đối vơí mọi thành phần kinh tế. Vì vậy sự tác động của nhà nước- một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế và xã hội. Thiếu sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế để cho nền kinh tế thị trường tự do hoạt động thì việc điều hành nền kinh tế nước ta sẽ không có hiệu quả.
2. Nền kinh tế thị trường XHCN và vai trò kinh tế của nhà nước ở Việt Nam.
Sự cần thiết phải chuyển sang nền kinh tế hàng háo nhiều thành phần theo định hướng XH vận động theo cơ chế thị trường.
Kinh tế hàng hoá ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội gắn liền với hai điều kiện tiền đề là: sự phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. ở nước ta, những điều kiện chung của kinh tế hàng hoá vẫn còn nên sự tồn tại của kinh tế hàng hoá là một tất yếu khách quan.
Thứ nhất, phân công lao động xã hội chẳng những không mất đi, trái lạI càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia trở thành phân công lao động trên phạm vi quốc tế.
Thứ hai, nền kinh tế nước ta đang tồn tạI nhiều thành phần kinh tế. Hơn nữa, trình độ xã hội hoá giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh tế trong cùng một thành phần kinh tế vẫn chưa đều nhau. Do vậy, việc hạch toán kinh doanh, phân phối và trao đổi sản phẩm lao động tát yếu phải thông qua hình thá hàng hoá- tiền tệ để thực hiện các mối quan hệ kinh tế, đảm bảo lợi ích kinh tế giữa các tổ chức kinh tế với người lao động và giữa các tổ chức kinh tế với nhau.
Như vậy, nếu xuất phát từ ý muốn chủ quan thu hẹp hay cản trở quá triònh tiền tệ hoá các mối quan hệ kinh tế tring giai đoạn lịch sử hiện nay bằng các hình thức khác nhau (sớm xoá bỏ hay cản trở sự phát triển các thành phần kinh tế, quản lý bằng kế hoạch tập chung quan liêu bao cấp. . . ) sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Do đó chúng ta cần phải chủ động có chính sách phù hợp để khuyến khích sự phát triển của các thanh phần kinh tế một cách đúng đắn, đúng hướng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế: có nhu cầu xã hội thì tất yếu có người đáp ứng nhu cầu đó và trong cuộc cạnh tranh vươn tới thoả mãn tốt hơn và tốt nhất nhu cầu xã hội thì người nđó sẽ tồn tại và phát triển.
Nền kinh tế thị trường theo cơ chế hàng hoá có ưu điểm là thúc đẩy quá trình xã hội hoá nhanh chóng làm cho sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc, hình thành các mối quan hệ kinh tế và phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất tạo tiền đề cho sự hợp tác ngày càng chặt chẽ. Nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Dưới tác động của các quy luật kinh tế buộc người sản xuất phải nâng cao năng xuất lao động, cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng xuất lao động, cải tiến chất lượng và hình thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu xã hội, tìm mọi cách đưa ra thị trường những loại hàng hoá mới thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
Mặt khác, nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường còn thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các nước và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Nó giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự chói buộc của nền sản xuất tạo những điều kiện cần thiết cho việc phát triển sản xuất ở trình độ cao.
Vì vậy, ở Việt Nam kinh tế hàng hoá mà đảng ta chủ trương xây dựng và phát triển trong thời kỳ quá độ lên CNXH là :”nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận động theo cơ chế thị trường có sự quản ký của nhà nước”(văn kiện ĐạI hội VII).
Từ thực tiễn hơn 15 năm đổi mới, ĐạI hội VIII của Đảng đã khẳng định rằng cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực, to lớn đến sự phát triển kinh tế -xã hội.
* Đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Một là, từng bước thực hiện những quá trình mang tính quy luật của bước chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước với tự do hoá giá cả, tự do hoá thương mại là khâu trung tâm đột phá từng bước tiến tới cơ chế thị trường đích thực. Đặc điểm này phát huy vai trò điều tiết của thị trường, hình thành thị trường cạnh tranh, làm cho hàng hoá được lưu thông thông suốt, cung cầu được cân đối, thoát khỏi tình trạng khủng hoảngthiếu, giá cả ổn định dần, lạm phát được ngăn chặn. Góp phần giảI phóng lực lượng sản xuất. Phát huy tính tự chủ, sáng tạo của hộ kinh tế và chủ doanh nghiệp. Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước cũng được giảI phóng khỏi các chỉ tiêu pháp lệnh để thích ứng theo nhu cầu của thị trường. Cơ chế này cũng thúc đẩy việc phải sử lý những vấn đề mấu chốt làm đảo lộn cả hệ thống tư duy và quan điểm kinh tế cũ như vấn đề sở hưu, thừa nhận và đánh giá cao những thành tựu của kinh tế nhiều thành phần, chuyển ntừ phân biệt đối xử với kinh tế tư nhân sang đối xử bình bẳng, đồng thời cũng xác định những biện pháp nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế tư doanh cho phù hợp với thực tiễn của nước ta. Cơ chế tài chính tiền tệ, giá cả, tỷ giá được hình thành thông qua thị trường đã tạo ra bước ngoặt trong cơ cấu kinh tế.
Hai là, cơ chế thị trường còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn. Đó là sản phẩm của nền kinh tế sản xuất nhỏ, bộ máy quản lý của nhà nước còn yếu kém, tình trạng quan liêu thiếu hiểu biết, thậm chí trì trệ, bảo thủ trước bước ngoặt chuyển đổi kinh tế. Thể chế thị trường chưa toạ môi trường ổn địnhvà an toàn cho sản xuất kinh doanh đặc biệt là những yếu kém trong thể chế tàI chính tiền tệ, tín dụng đang là lực cản của quá trình chuyển đổi. Cơ chế thị trường còn thiêu đồng bộ. Sự chuyển biến khá mạnh mẽ trên thị trường hàng hoá và dịch vụ trong khi đó lại có sự lạc hậu khá lớn trong thị trường các yếu tố sản xuất. Thị trường chấp nhận tự do kinh doanh theo luật pháp nhưng lại chưa giải quyết những tiền đề cơ bản cho sự tự do về sở hữu. Đối với doanh nghiệp nhà nước chưa tính được quyền sở hữu với quyền sử dụng về vốn,tài sản, lao độngvà sự hình thành và vận động của nền kinh tế thị trường còn mang nhiều yếu tố tự phát, cơ chế vận hành thô sơ tạo điều kiện cho kiểu làm ăn bất chính, cơ chế quản ký đổi mới thiếu triệt để, làm phát sinh, phát triển nhiều tệ nạn tham nhũng, các mặt tiêu cực của thị trường.
Ba là, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế định hướng XHCN là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có mô hình vạch sẵn. do vậy không thể ngay từ đầu hình dung ra toàn bộ các chi tiết của mô hình thị trường, cũng không vạch ngay ra một lịch trình cứng nhắc của bước chuyển đổi mà phải thực hiện cơ chế thị trường vừa tổng kết để tiếp tục hoàn thiện. Việc chuyển từng bước sang cơ chế thị trường cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và các điều kiện, chính trị, kinh tế- xã hội nước ta. Xuất phát từ đặc điểm kinh tế trong nước và quan điểm, quan hệ kinh tế với bên ngoài, chúng ta đã áp dụng cơ chế thị trường tưng bước. Đến nay chúng ta đã có những yếu tố cơ bản của cơ chế thị trường dù chưa đầy đủ và hoàn thiện. Điều quan trọng là cơ chế thị trường đựơc nhân dân đồng tình, ủng hộ và đã phát huy tác dụng trong mọi mặt của đời sống kinh tế.
Bốn là, chúng ta chủ trương chuyển sang cơ chế thị trường trên cơ sở ổn định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiền đề và điều kiện cho cải cách kinh tế, mặt khác cũng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính trên cơ sở đổi mới quản lý của nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu quả cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường tiếp tục ổn dịnh chính trị đưa cải cách tiến lên những bước phát triển mới. Ngay từ đầu, chúng ta đã khẳng định định hướng xã hội chủ nghĩa là không thay đổi, tuy nhiên đã có những nhận thức mới về CNXH, khẳng định CNXH có thể sử dụng các công cụ phổ biến mà chủ nghĩa tư bản đã từng sử dụng như: thị trường, quy luật giá trị, quan hệ hàng tiền. . . Xuất phát từ thực tiễn thị trường nước ta đang trong bước hình thành và phát triển còn những yếu tố mất ổn định nền kinh tế nhiều thành phần nên đã không chủ trương tư nhân hoá tràn lan mà trái lại chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và xây dựng kinh tế quốc doanh thành thực lực làm chỗ dựa của nhà nước ở các khâu và lĩnh vực then chốt để ổn định và định hướng thị trường.
Mặc dù còn nhiều thiếu sót và yếu kém nhất là trong điều hành kinh tế vĩ mô và gần đây có nan tham nhũng khá phổ biến trong bộ máy quản lý nhà nước các cấp nhưng nhìn chung tính ổn định và hoạt đông theo đường lối đổi mới tiến tới một nhà nước pháp quyền là nhân tố quan trọng đảm bảo cho thành công của công cuộc cảI cách. Đảng ta cũng khẳng định vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo các chính sách xã hội, xử lý hàI hoà giữa tăng trưởng kinh tế và cân bằng, ổn định giữa phát triển kinh tế với thực hiện các chính sách xã hội và công bằng xã hội.
Cơ chế thị trường hướng tới của chúng ta là:" Thể chế kinh tế mà trong đó thị trường và các quan hệ thị trương ngày càng đóng vai trò quyết định đôi với sản xuất kinh doanh và phân phối tài nguyên quốc gia dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước, nền kinh tế nhiều thành phần thông qua cạnh tranh,liên kết, hợp tác có trình độ xã hội hoá cao, thúc đẩy sự vận hành theo các quy luật kinh tế khách quan và các chính sách kinh tế phù hợp đảm bảo thị trường thống nhất, mở rộng phục vụ các mục tiêu tăng trưởng hiệu quả, cân bằng và ổn định, nhà nước dùng luật pháp, kế hoạch định hướng và chính sách kinh tế dẫn dắt thị trường phát triển lành mạnh, dùng chính sách phân phối và điều tiết để đảm bảo phúc lợi cho toàn đân và thực hiện công bằng xã hội ( cơ chế thị trường- vat trò kinh tế của nhà nước- NXB Thống kê- 1994). Đó là thể chế kinh tế của những chủ thể tự chủ, tự do kinh doanh theo pháp luật, các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa liên kết hợp tác và phát triển đạt trình độ hoá thương mại và canh tranh tự điều chỉnh sản xuất kinh doanh và cung cầu hàng hoá. Trong điều hành các hoạt động kinh tế cần hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chủ yếu dựa trên sự hướng dẫn của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh đảm bảo nguyên tắc vận hành chủ yếu của nền kinh tế là nguyên tắc thị trường. Không xem các quan hệ thị trường hoạt động theo các quy luật khách quan một cách độc lập hoàn toàn, biệt lập với kế hoạch định hướng và các chính sách kinh tế của nhà nước. Mọi yếu tố sản xuất phảI đi vào thị trường. Đây là đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường, đối với nước ta đây còn là điiều kiện cơ bản để nền kinh tế thị trường vận hành bình thường.
Trên đây là những đặc trưng cơ bản nhất của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện tạI và trong tương lai. Những đặc trưng này kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo đIũu kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được nguồn lực xã hội. Cạnh tranh buộc những người sản xuất giảm hao phí lao động cá biệt xuống mức thấp nhất bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, thúc đẩy lực lơựng ản xuất phát triển, nâng cao năng xuất lao động, chất lượng hàng hoá. Hơn nữa cơ chế thị trường mềm dẻo hơn. Nhà nước có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi, thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội. Bên cạnh đó cơ chế thị trường cũng có nhiều khuyết tật. Nó chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo. Các doanh nghiệp có thể vì lợi nhuận mà lạm dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi trường. Sự tác động của cơ chế thị trường dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo, lạm phát, bùng nổ dân số, thất nghiệp gia tăng.
* Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Trong lĩnh vực kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ sở hữu đối với tài sản quốc gia. Các doanh nghiệp quốc doanh nhà nước giao quyền sử dụng lâu dài các tư liệu sản xuất cho tập thể lao động cá nhân theo chính sách và pháp luật. Các nguồn vốn ngân sách dự chữ quốc gia, các tổ chức kinh tế quan trọng ở phần vĩ mô thuộc phần quản lý của nhà nước. Như vậy nhà nước vừa nắm quyền lực về chính trị vừa nắm quyền lực về kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế - chính trị của mình để tự do hoá giá cả, tự do hoá thương mại nền kinh tế. Xoá bỏ tình trạng độc quyền và xây dựng các đạo luật chống độc quyền bằng cách tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Nhà nước là người đảm nhiệm và duy trì vai trò thiết lập và duy trì vai trò quyền sở hữa các quyèen lực kinh tế theo hướng xác định rõ quyền sở hữu đích thực của công dân, doanh nghiệp, tập thể, tư nhân và nhà nước. Nhà nước có nhiệm vụ phát huy ưu đIúm và khắc phục những khuyết điểm của cơ chế thị trường.
Với nước ta, quản lý nhà nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa là điều kiên ổn định để phát triển kinh tế- xã hội. Điều đó đòi hỏi nhà nước ta phải đổi mới hơn nữa, nhận thức rõ vai trò của mình trong điều kiện mới, đặc biệt thay đổi chất lượng, tác phong chỉ huy mệnh lệnh sang hỗ trợ, tạo điều kiện cho thị trường phát triển, đưa bộ máy thoát khỏi tình trạng"cửa quan” và nạn tham nhũng.
Điều đó nói lên tầm quan trọng của nhà nước XHCN trong hoạt động thị trường ở nước ta.
3. Mục tiêu, chức năng và công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.
* Mục tiêu quản lý kinh tế của nhà nước là nhằm ổn định và phát triển kinh tế, phát huy ưu thế, khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường, can thiệp, điều tiết nền kinh tế thị trường để ổn định và tăng trưởng giúp cho nền kinh tế thị trường đi theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa- con đường mà Đảng và Nhà nước ta đã sáng suốt lựa chọn.
* Chức năng quản lý kinh tế của nhà nước.
Vai trò của nhà nước ta trong quản lý kinh tế thị trường rất quan trọng. Vai trò đó được thực hiện qua các chức năng kinh tế của nó.
Thứ nhất, nhà nứơc phải đảm bảo ổn định chính tri, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế, nhà nước tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt độngkinh tế bằng cách đặt ra những điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp mà mà nước thiết lập vó tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế của con người và cả bản thân chính phủ.
Thứ hai, là điều tiết kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi bị chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế mà đều phảI trải qua các chu kỳ kinh doanh, tức là các giao động lên xuống về mức độ thất ngiệp và lạm phát. nhà nước cần cố gắng làm dịu những giao động lên xuống chu kỳ kinh doanh thông qua chương trình hoá kinh tế, chính sách kinh tế và chính sách tiền tệ. Chẳng hạn nhà nước có thể giảm thiểu trong cơn suy thoái để tăng chi tiêu dân chủ nhờ đó sẽ nâng GDP. Ngân hàng trung ương có thể" nới lỏng tiền tệ”. Vì vậy thông qua chính sách tài chính và chính sách tiền tệ, nhà nước cố gắng ổn định nền kinh tế, duy trì nền kinh tế càng sát càng tốt đối với tình trạng đầy đủ việc làm và lạm phát thấp. Nhà nước không thể kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo - đó là điều tất yếu, nếu không thì chúng ta không phải chứng kiến những suy thoái với lạm phát.
Thứ ba, là đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các tác động bên ngoài là một trong những nguyên nhân dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị trường. Các tổ chức kinh tế đặt lợi nhuận lên hàng đầu, vì thế mà họ có thể lạm dụng tàI nguên xã hội, gây ô nhiễm môI trường, để lạI những hậu quả nặng nề cho xãhội. Khi đó chính phủ co thể buộc các doanh nghiệp bồi thường thiẹt hạI do họ gây ra cho môI trường sống của con người. Sự can thiệp của chính phủ nhằm ngăn chặn những tác động của con người nhằm nâng cao hiệu quả. Một nguyên nhân khác làm giảm tính hiệu quả là sự tác động của độc quyền. Các tổ chức độc quyền tìm mọi cách để tăng giá, nhờ đó tăng lợi nhuận. Vì vậy với họ lợi nhuận là trên hết. Do dó nên họ cố gắng để đạt lợi nhuận cao nhất. Nền kinh tế được thúc đẩy bới cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt được hiệu quả cao, nhưng cạnh tranh sẽ làm hạn chế khả năng đạt lợi nhuận độc quyền nên các doanh nghiệp thường cố gắng làm giảm cạnh tranh. Vì vậy nhà nước có nhiệm vụ rất cơ bản là bảo vệ cạnh tranh và hống độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thị trường.
Cuối cùng, để đảm bảo tính hiệu quả thì nhà nước phải sản xuất ra hàng hoá công cộng, đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Chúng ta biết rằng, cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất để điều tiết nền kinh tế một cách hiệu quả song hoạt động của cơ chế thị trường không tính đến yếu tố nhân đạo và xã hội. không giải quyết được đồng thời mục tiêu phát triển kinh tế và mục tiêu công bằng tiến bộ xã hội. Việc phân phối và sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang lại một sự phân phối thu nhập tốt nhất. Sự can thiệp của nhà nước nhằm làm cho thu nhập được phân phối công bằng, bảo vệ các thành viên của xã hội, chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất. Điều đó được thực hiện thông qua chính sách phân phối, bảo hiểm xã hội và phúc lợi xã hội.
Trên đây là tất cả các chức năng kinh tế của nhà nước. bên cạnh đó, trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước ta còn có các chức năng quản lý vĩ mô:
Thứ nhất, nhà nước tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế như: đảm bảo sự ổn định về chính trị, xã hội thiết lập khuôn khổ luật pháp thống nhất, có hệ thống chính sách nhất quán tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn có hiệu quả.
Thứ hai, là định hướng cho sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để đưa nền kinh tế đi đúng hướng, giảm lạm phát, chống khủng hoảng, ngăn ngừa những đột biến xấu trong nền kinh tế.
Thứ ba, là xây dưng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội tạo nền móng vững chắc cho sự phát triển kinh tế.
Thứ tư, nhà nước quản lý tài sản công, kiểm kê kiểm soát các hoạt động kinh tế, xã hội, thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công. Các bộ các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và tự chủ của các doanh nghiệp.
Thứ năm, là khắc phục,đẩy lùi các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối thu nhập một cách công bằng, tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, tiến bộ và công bằng xã hội.
Với các chức năng như trên, chúng ta có thể khẳng định rằng việc tham gia của nhà nước vào quản lý kinh tế là một tất yếu khách quan và hết sức cần thiết.
Hệ thống công cụ quản lý ở nước ta:
Để hoàn thành các chức năng quản lý của mình, nhà nước cần phải có hệ thống công cụ quản lý. Đối với mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước chúng ta không thể nào dùng các công cụ quản lý trực tiếp vì thị trường không chựu áp đặt bất cứ một ý đồ nào không phù hợp với xu hướng vận động của quan hệ cung cầu - giá cả thị trường chỉ có thể hoạt dộng khi tât cả quan hệ kinh tế được tiền tệ hoá, thương mại hoá và tự do hoá. Mặt khác khi họ nhận thấy lợi ích của mình, khi đó họ sẽ tợ giác hoạt động mà không cần sợ giáo dục, thuyết phục hay bất cứ một sự cưỡng bức nào. Chính vì vậy mà họ có thể vì lợi ích riêng mà chà đạp lên lợi ích chung cho nên biện pháp hành chính vẫn rất cần thiết song không phải là sợ can thiệp thô bạo mà quyền lực hành chính cần phải được thể chế hoá thành pháp luật. Hệ thống công cụ quản lý có ba yếu tố cơ bản kế hoạch hoá định hướng, pháp luật và hệ thống các chính sách,công cụ kinh tế.
Trước hết, kế hoạch hoá là quá trình nhận thức và vận dụng tổng hợp các quy luật khách quan, trước hết là các quy luật kinh tế trong đó có các quy luật của thị trường để xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội [Giáo trình kinh tế chính trị tập II - ĐHKTQD] kế hoạch hoá là một trong những công củtọng yếu thực hiện chính sách kinh tế của nhà nước hướng đến sự phát triển sản xuất để thoả mãn tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá của nhân dân. Nhờ có kế hoạch hoá mà chính phủ có thể phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp,các bộ,các nghành, các địa phương và cũng nhờ có hế hoạch mà nhà nước có thể quản lý sản xuất xã hội, điều chỉnh sản xuất, phân phối và chao đổi của cải vật chất.
Kế hoạch là công cụ duy nhất để chính phủ có thể chuyển tải nội dung, đường lối, chính sách,trong mô hình kinh tế tập trung, công cụ kế hoạch hoá đã được sử dụng một cách không thành công. Khi chuyển sang cơ chế mới, kế hoạch vẫn là một công cụ đóng vai trò quan trọng nhưng vẫn phải đổi mới nó cho phù hợ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50039.doc