Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tín dụng doanh nghiệp của ngân hàng thương mại Việt Nam

Tín dụng, đặc biệt là tín dụng doanh nghiệp, là hoạt động sinh lời lớn nhất song cũng đem lại rủi ro cao nhất cho NHTM. Khi rủi ro này xảy ra có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng, nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn chủ, đẩy ngân hàng đến phá sản, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế. Do vậy ngân hàng phải tiến hành phân tích tín dụng các doanh nghiệp vay vốn để giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra. Chất lượng của các khoản vay phụ thuộc nhiều vào hoạt động phân tích tín dụng, phân tích tín dụng đầy đủ sẽ giảm thiểu được rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Phân tích tín dụng có chất lượng cao, quyết định cho vay của ngân hàng được bảo đảm và ngược lại, chất lượng phân tích tín dụng có chất lượng thấp thì quyết định cho vay sẽ gặp rủi ro và tổn thất có thể xảy ra cho ngân hàng. Hiện nay, công tác phân tích tín dụng nói chung và phân tích tín dụng doanh nghiệp nói riêng đã được Ngân hàng Công thương Việt Nam- Chi nhánh Thanh Xuân quan tâm nghiên cứu và triển khai thực hiện. Tuy nhiên, công tác phân tích tín dụng doanh nghiệp này còn nhiều bất cập và chưa tiến gần đến tiêu chuẩn quốc tế khiến chất lượng phân tích tín dụng doanh nghiệp của NHTM chưa cao. Vì vậy, đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tín dụng doanh nghiệp của NHTM Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu. Đề án nghiên cứu thực trạng và những hạn chế của chất lượng hoạt động phân tích tín dụng doanh nghiệp của Ngân hàng Công thương Việt Nam- Chi nhánh Thanh Xuân từ đó tìm ra những giải pháp nào nhằm nâng cao chất lượng phân tích tín dụng doanh nghiệp của NHTM Việt Nam?

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng phân tích tín dụng doanh nghiệp

Đề tài được nghiên cứu thông qua sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết kết hợp với thực tế, so sánh, phân tích và tổng hợp tài liệu.

Đề tài có kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về chất lượng phân tích tín dụng doanh nghiệp của NHTM.

Chương 2: Thực trạng chất lượng phân tích tín dụng doanh nghiệp của NHTM Việt Nam

Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng phân tích tín dụng doanh nghiệp của NHTM Việt Nam

 

 

doc69 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1138 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tín dụng doanh nghiệp của ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Tín dụng, đặc biệt là tín dụng doanh nghiệp, là hoạt động sinh lời lớn nhất song cũng đem lại rủi ro cao nhất cho NHTM. Khi rủi ro này xảy ra có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng, nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn chủ, đẩy ngân hàng đến phá sản, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế. Do vậy ngân hàng phải tiến hành phân tích tín dụng các doanh nghiệp vay vốn để giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra. Chất lượng của các khoản vay phụ thuộc nhiều vào hoạt động phân tích tín dụng, phân tích tín dụng đầy đủ sẽ giảm thiểu được rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Phân tích tín dụng có chất lượng cao, quyết định cho vay của ngân hàng được bảo đảm và ngược lại, chất lượng phân tích tín dụng có chất lượng thấp thì quyết định cho vay sẽ gặp rủi ro và tổn thất có thể xảy ra cho ngân hàng. Hiện nay, công tác phân tích tín dụng nói chung và phân tích tín dụng doanh nghiệp nói riêng đã được Ngân hàng Công thương Việt Nam- Chi nhánh Thanh Xuân quan tâm nghiên cứu và triển khai thực hiện. Tuy nhiên, công tác phân tích tín dụng doanh nghiệp này còn nhiều bất cập và chưa tiến gần đến tiêu chuẩn quốc tế khiến chất lượng phân tích tín dụng doanh nghiệp của NHTM chưa cao. Vì vậy, đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tín dụng doanh nghiệp của NHTM Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu. Đề án nghiên cứu thực trạng và những hạn chế của chất lượng hoạt động phân tích tín dụng doanh nghiệp của Ngân hàng Công thương Việt Nam- Chi nhánh Thanh Xuân từ đó tìm ra những giải pháp nào nhằm nâng cao chất lượng phân tích tín dụng doanh nghiệp của NHTM Việt Nam? Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chất lượng phân tích tín dụng doanh nghiệp Đề tài được nghiên cứu thông qua sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết kết hợp với thực tế, so sánh, phân tích và tổng hợp tài liệu. Đề tài có kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về chất lượng phân tích tín dụng doanh nghiệp của NHTM. Chương 2: Thực trạng chất lượng phân tích tín dụng doanh nghiệp của NHTM Việt Nam Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng phân tích tín dụng doanh nghiệp của NHTM Việt Nam CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP CỦA NHTM 1.1.Phân tích tín dụng doanh nghiệp của NHTM: 1.1.1.Hoạt động tín dụng của NHTM Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng nói riêng và của các tổ chức tín dụng nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tuy nhiên, khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng (hoặc các trung gian khác) thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay. Tín dụng hiểu theo nghĩa chung nhất là một khái niệm chỉ mối quan hệ giữa các chủ thể trong đó chủ thể này chuyển cho chủ thể kia quyền sử dụng một lượng giá trị (có thể dưới hình thái hàng hóa hoặc hình thái tiền tệ) với những điều kiện nhất định mà 2 bên thỏa thuận với nhau. Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam số 07/1997/QHX và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng số 02/2004/QHXI: “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng vốn tự có, nguồn vốn huy động được để cáp tín dụng”, trong đó cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền nhất định với nguyên tắc hoàn trả. Quy trình tín dụng tại ngân hàng thương mại bao gồm nhiều giai đoạn mang tính chất liên hoàn, theo một trật tự nhất định, đồng thời có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi giai đoạn của quy trình tín dụng có nội dung, nguyên tắc riêng nhằm đảm bảo được tính an toàn cho khoản vay và lợi ích của khách hàng. Qui trình tín dụng của ngân hàng gồm có các giai đoạn sau; Giai đoạn nhận hồ sơ đề nghị vay vốn của khách hàng Giai đoạn phân tích tín dụng Giai đoạn quyết định tín dụng Giai đoạn giải ngân Giai đoạn giám sát và thanh lý hợp đồng tín dụng Trong đó phân tích tín dụng là phân tích khả năng sử dụng vốn vay và hoàn trả nợ của khách hàng. Mục tiêu của phân tích tín dụng là tìm hiểu các tình huống có thể dẫn đến rủi ro và tìm ra biện pháp để kiểm soát rủi ro đó. Về cơ bản, qui trình tín dụng của các NHTM có các bước với nội dung giống nhau nhưng tùy theo từng ngân hàng và địa bàn kinh doanh mà ngân hàng cũng có những qui định khác nhau cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình, trong đó phân tích tín dụng là một nội sung quan trọng trong quy trình tín dụng của NHTM. 1.1.2.Phân tích tín dụng của NHTM 1.1.2.1.Khái niệm, mục tiêu, yêu cầu và căn cứ đê phân tích tín dụng: Doanh nghiệp là một chủ thể tồn tại trong môi trường xã hội luôn vận động, biến đổi, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu tác động bởi nhiều yếu tố. Do vậy, có vô số nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc doanh nghiệp không thể chi trả được nợ vay khi đến hạn. Nguyên nhân có thể là các yếu tố mang tính khách quan, hệ thống như: bão lũ, hạn hán, động đất hay thay đổi môi trường pháp lý, hệ thống chính trị… Nguyên nhân cũng có thể là những yếu tố mang tính chủ quan của doanh nghiệp như: hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, người quản lý thiếu kinh nghiêm, năng lực…Khi những rủi ro này xảy ra nó có thể gây tổn thất làm giảm thu nhập, thậm chí có thể đẩy ngân hàng đến phá sản. Vì vậy, để đưa ra quyết định có chấp nhận cho doanh nghiệp vay vốn hay không, ngân hàng phải dự đoán và ước lượng được rủi ro này thông qua công tác phân tích tín dụng. Phân tích tín dụng là quá trình đánh giá toàn diện về nhu cầu vay vốn của khách hàng phù hợp với những quy định của ngân hàng, có khả năng hoàn trả cho ngân hàng hay không, đồng thời qua phân tích đó ngân hàng xác định mức độ rủi ro có thể chấp nhận được trong quá trình cho vay. Đây là quá trình thẩm tra trước, trong và sau khi ngân hàng cho vay, chiết khấu, cho thuê, bảo lãnh. Mục tiêu của phân tích tín dụng là thu thập, phân tích thông tin và xác định nội dung của hợp đồng tín dụng bao gồm: xác định vị trí trên thị trường, sức mạnh cạnh tranh, rủi ro, mức độ thay đổi kỹ thuật, sức mạnh tài chính và khả năng thanh toán của người vay trong quá khứ, hiện tại và tương lai, từ đó làm cơ sở để ngân hàng điều chỉnh giá trị trong quan hệ tín dụng với khách hàng. Phân tích tín dụng là công việc có vị trí hết sức quan trọng với ngân hàng, cần phải được thực hiện một các nghiêm túc, thường xuyên và phải đảm bảo những yêu cầu sau đây: Được xây dựng và thống nhất trong toàn ngân hàng, tránh tùy tiện duy ý chí. Quy trình này cần phải được ban lãnh đạo ngân hàng thông qua và phổ biến đến phòng liên quan cũng như tới từng cán bộ tín dụng trong ngân hang. Được xây dụng chi tiết trong nội dung phân tích, có hướng dẫn cụ thể về nghiệp vụ, cũng như nhiệm vụ chức năng của mỗi cá nhân và phòng ban. Toàn bộ qui trình phải nhằm thực hiện nguyên tắc tín dụng ngân hàng. Để đưa ra quyết định có cho vay hay không đối với một yêu cầu vay vốn của doanh nghiệp, ngân hàng phải tiến hành phân tích tín dụng dựa vào các căn cứ như: Hồ sơ xin vay của khách hàng, chính sách tín dụng của ngân hàng, các quy định của Nhà nước và các nguồn thông tin: nguồn thông tin trực tiếp từ khách hàng, thông tin từ ngân hàng, và các thông tin khác. Phân tích đầy đủ và đan xen giữa các thông tin có được dựa trên các căn cứ trên để đưa ra quyết định đúng đắn để vừa đảm bảo tính an toàn vừa đảm bảo tính sinh lời cho ngân hàng. Phân tích tài chính doanh nghiệp là sử dụng một tập hợp các khái niêm, phương pháp và công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Xét về mục đích phân tích, mục đích của phân tích tín dụng doanh nghiệp là khác nhau với những đối tượng sử dụng khác nhau: Nhà quản lý sẽ phân tích để có cái nhìn tổng quát về doanh nghiệp, thực trạng, điểm yếu, điểm mạnh để có những chính sách điều chỉnh phù hợp trong tương lai; Nhà đầu tư quan tâm đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp… Với tư cách là người cho vay, Ngân hàng phân tích tín dụng để biết về khả năng trả nợ của doanh nghiệp, những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của doanh nghiệp làm ảnh hưởng tới khả năng chi trả nợ gốc và lãi của doanh nghiệp khi tới hạn. Về phương pháp thực hiện và nguồn thông tin sử dụng, Phân tích tài chính doanh nghiệp được tiến hành phổ biến bằng hai phương pháp là: Phương pháp tỷ số và phương pháp Dupont, phân tích các chỉ tiêu tài chính và vì vậy nguồn thông tin sử dụng chủ yếu là báo cáo tài chính của doanh nghiệp; Phân tích tín dụng doanh nghiệp do đòi hỏi tính chính xác, khách quan, đầy đủ, kịp thời nên phần lớn đã được xây dựng thành các Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại các ngân hàng với hệ thống nhiều chỉ tiêu tài chính và phi tài chính, vì vậy mà thông tin cần phải thu thập từ rất nhiều nguồn khác nhau. 1.1.2.2.Phương pháp phân tích tín dụng Có nhiều phương pháp mà ngân hàng có thể sử dụng để tiến hành phân tích tín dụng: Phương pháp so sánh: Khi sử dụng phương pháp này cần đảm bảo tính so sánh được giữa các chỉ tiêu, nghĩa là phải thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị thanh toán… trong khi so sánh cần chọn một gốc thời gian để so sánh (chính là quan hệ chuẩn năm gốc trong cùng một chỉ tiêu) và có thể tiến hành so sánh giữa năm này với các năm trước để thấy được xu hướng thay đổi của chỉ tiêu được so sánh, qua đó đánh giá tốc độ tăng trưởng nhanh hay chậm hay thụt lùi của một hoạt động nào đó hay của toàn bộ hoạt đông của doanh nghiệp; So sánh hiệu quả của việc đầu tư vào doanh nghiệp này với đầu tư vào doanh nghiệp khác có cùng điều kiện kinh tế. Qua so sánh ngân hàng có thể phân tích đánh giá về hiệu quả cũng như xu hướng trong tương lai của các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cần phân tích. Phương pháp phân tích tài chính thông qua các chỉ tiêu kinh tế: Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực của các tỷ trọng trong quan hệ tài chính. Phương pháp này chỉ có ý nghĩa nếu ngân hàng xác định được các định mức cho các chỉ tiêu phân tích, hay chính là các chỉ tiêu trung bình ngành một các hợp lý. Sau khi tính toán được các chỉ tiêu này của doanh nghiệp, ngân hàng đem đối chiếu, so sánh với các định mức từ đó phân tích tín dụng của doanh nghiệp.Tuy nhiên, khi sử dụng phương pháp này cần lưu ý một số vấn đề sau: Thứ nhất, mỗi doanh nghiệp trong cùng một ngành vẫn luôn có những đặc trưng riêng, chịu tác động bới một số nhân tố cá biệt làm ảnh hưởng tới các chỉ tiêu vì vậy việc so sánh với 1 mức chung nhất của ngành không phải hoàn toàn chính xác. Thứ hai, hiện nay đang xuất hiện rất nhiều các tập đoàn với ngành nghề kinh doanh đa dạng, phong phú, việc tìm ra một định mức, hay một trung bình ngành phù hợp để so sánh giữa các tập đoàn với nhau đặc biệt là giữa các doanh nghiệp khác với tập đoàn là hết sức khó khăn. Thứ ba, việc một chỉ tiêu của doanh nghiệp trong năm hiện tại đang thấp hơn hay cao với mức trung bình ngành chưa thể kết luận ngay là nó tốt hay xấu, vì một chỉ tiêu có thể kém hơn mức trung bình ngành nhưng đang có xu hướng được cải thiện theo chiều hướng tốt thì đó là dấu hiệu tốt, tuy nhiên một chỉ tiêu cao hơn mức trung bình ngành một chút nhưng có xu hướng giảm mạnh thì đó lại là một dấu hiệu không tốt với doanh nghiệp. Chính vì vậy, ngân hàng cần tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ giữa hai phương pháp trên để có phân tích tín dụng doanh nghiệp một cách chính xác. Phương pháp chấm điểm: Đây là phương pháp hiện đang được nhiều ngân hàng sử dụng và xây dựng thành hệ thống chuẩn hóa. Phương pháp này tạo sự thuận lời về tính thống nhất và thời gian cho phân tích tín dụng. Để sử dụng phương pháp này, yêu cầu trước tiên là tổ chức tín dụng phải xây dụng được hệ thống thang các chỉ tiêu và thang điểm cho các chỉ tiêu đó. Trên cơ sở những thông tin có được, chấm điểm và xếp loại tín dụng cho doanh nghiệp theo mức đã định của ngân hàng, từ mức đó sẽ cho biêt doanh nghiệp có đủ điều kiện vay vốn hay không và ngân hàng có quyết định cho doanh nghiệp vay vốn hay không. Làm thế nào để xây dụng được một hệ thống chấm điểm tín dụng một các hợp lý và chính xác là câu hoi mà ngân hàng luôn phải tự đặt ra khi sử dụng phương pháp này. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế chính trị trong môi trường mà doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh luôn biến đổi làm cho mức độ phản ánh chất lượng tín dụng doanh nghiệp của cá chỉ tiêu cũng thay đổi theo. Vì vậy, để có một hệ thống chấm điểm tín dụng hợp lý và chính xác, ngân hàng cần thường xuyên theo dõi, hoàn thiện hệ thống này. 1.1.2.3.Qui trình phân tích tín dụng Để chuẩn hóa quá trính tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ đối với khách hàng, các ngân hàng thường đặt ra quy trình phân tích tín dụng. Đó chính là các bước mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan trong ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng. Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu của bước này là thu thập và xử lỳ thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm: năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu của tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay. Phương pháp chủ yếu để thu thập thông tin và xử lý thông tin là: phỏng vấn trực tiếp (giữa ngân hàng và người vay vốn); Mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua các trung gian (qua các cơ quan quản lý, qua các bạn hàng, chủ nợ khác của người vay, qua các trung tâm thông tin hoặc tư vấn); Thông qua các thông tin có được từ các báo cáo của người vay. Nội dung chủ yếu của bươc này là tiến hành phân tích: Đánh giá tài sản của khách hàng, đánh giá khoản nợ, phân tích luồng tiền, phân tích các chỉ số tài chính, phân tích các điều kiện kinh tế của doanh nghiệp… Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng: Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân thủ các quy định pháp luật có liên quan. Do vậy, cả ngân hàng và doanh nghiệp cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi ký kết hợp đồng tín dung. Nội dung chính của hợp đồng tín dụng gồm: thông tin về khách hàng, mục đích sử dụng, số lượng tín dụng, lãi suất, phí, thời hạn tín dụng, các loại đảm bào, giải ngân, điều kiện thanh toán, các điều kiện khác… Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng: Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền cho doanh nghiệp như thỏa thuận và kiểm soát doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn để đảm bảo vốn được sử dụng đúng mục đích, đúng tiến độ và kiểm soát những biến đổi trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình này cho phép ngân hàng thu thập thêm các thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ảnh theo chiều hướng tốt thì nghĩa là chất lượng tín dụng được đảm bảo và ngược lại. Ngân hàng có quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân, nếu bên vay vi phạm hợp đồng. Ngân hàng cũng có thể yêu cầu doanh nghiệp bổ sung tài sản thế chấp, giảm số tiền cho vay… khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Cho vay đi kèm với kiểm soát giúp cho ngân hàng ngăn chặn được ý đồ sử dụng vốn sai mục đích của doanh nghiệp, có quyết định kịp thời nhằm ngăn chặn các khoản tín dụng xấu. Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới: Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hét gốc và lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Tuy nhiên trong một số trường hợp cung có các khoản tín dụng không hoàn trả được hoặc không hoàn trả đúng hạn, ngân hàng cần phấn tích, tìm hiều nguyên nhân để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra quyết định liên quan đến tính an toàn của khoản tín dụng. Trường hợp khách hàng có tình lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ thì ngân hàng áp dụng phương án thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi khoản nợ, bao gồm phong tỏa và bán tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi… Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính nhưng vẫn quyết định tìm cách khắc phục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác, bao gồm gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm. 1.1.2.4.Nội dung phân tích tín dụng Mỗi bước trong quy trình phân tích tín dụng đều có nội dung phân tích riêng, nhưng nhìn chung được chia thành hai nội dung phân tích chính là: phân tích các yếu tố phi tài chính và phân tích các yếu tố tài chính của doanh nghiệp. a. Phân tích yếu tố phi tài chính: Tư cách pháp lý của doanh nghiệp Trong bất kỳ khoản tín dụng nào, yếu tố đầu tiên các ngân hàng quan tâm là khách hàng của họ có đủ tư cách pháp lý để tham gia ký kết các hợp đồng khác không. Đối với doanh nghiệp xin vay vốn, ngân hàng sẽ xem xét các điều lệ và luật pháp quy định về việc thành lập công ty là hợp pháp và ai có thẩm quyền thay mặt công ty vay. Thẩm định tư cách pháp lý của khách hàng không phải là bước quan trọng nhất, nhưng là bước không thể thiếu và là tiền đề để tạo ra những bước phân tích tiếp theo. Xác định rõ tư cách pháp lý của khách hàng chính là tạo điều kiện tiền đề cho công tác phân tích tín dụng tiếp theo của ngân hàng. Uy tín của doanh nghiệp Khác với quan niệm về uy tín của con người trong xã hội, được đánh giá bằng sự thật thà, siêng năng, đức hạnh, liêm chính… Trong phân tích tín dụng doanh nghiêp, uy tín của doanh nghiệp không chỉ có nghĩa là sự sẵn lòng trả nợ mà còn phản ánh ý muốn kiên quyết thực hiện các giao ước trong các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Uy tín có thể được đánh giá từ việc tổng hợp các thông tin cán bộ tín dụng thu thập được và đôi khi dựa vào phán đoán nghề nghiệp của cán bộ tín dụng, và uy tín của doanh nghiệp được đánh giá ở quá khứ và hiện tại để làm cơ sở dự đoán uy tín này trong tương lai. Uy tín này thường được đánh giá qua: lịch sử trả nợ (gốc và lãi) của khách hàng trong 12 tháng vừa qua tại ngân hàng, số lần cơ cấu lại nợ, (tỷ lệ nợ xấu và nợ cần chú ý)/ tổng dư nợ của khách hàng, thời gian có quan hệ tín dụng với ngân hàng… Năng lực và kinh nghiệm quản lý của doanh nghiệp Đối với các khoản vay không có khả năng hoàn trả, ngân hàng có thể tiến hành bù đắp bằng cách bán tài sản đảm bảo, tuy nhiên để có thể hoạt động tốt ngân hàng không thể trông chờ vào điều này vì nó kéo theo nhiều rủi ro, ảnh hưởng không tốt đến uy tín của ngân hàng cũng như mối quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng. Vì vậy, trước khi cấp tín dụng, ngân hàng cần đánh giá khả năng của doanh nghiệp trong việc tạo ra lợi nhuận để hoàn trả các khoản nợ. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp, một trong những yếu tố chính là khả năng quản lý. Yếu tố quản lý được nhắc đến như là kinh nghiệm, khả năng chuyên môn của người đứng đầu, điều hành doanh nghiệp hay dự án, khả năng của ban giám đốc công ty trong việc thu hút nhân sự chất lượng cao, công tác kiểm soát nội bộ tại doanh nghiệp…trong sản xuất kinh doanh để tạo ra lợi nhuận thỏa đáng. Các điều kiện kinh tế: Các điều kiện kinh tế hình thành môi trường mà trong đó các tổ chức, cá nhân hoạt động; Do đó, các điều kiện kinh tế thường ảnh hưởng tới ngân hàng và khách hàng vay (đặc biệt là các doanh nghiệp) nhưng chúng thường nằm ngoài sự kiểm soát của hai bên. Có thể một món vay hội đủ tất cả các yếu tố để đánh giá khách hàng đủ điều kiện vay, việc cho vay dường như có thể tốt trên giấy tờ, doanh nghiệp hoàn toàn có khả năng trả nợ nhưng giá trị của khả năng đó có thể bị giảm sút do những biến động bất ngờ chưa được tính đến của điều kiện kinh tế như doanh nghiệp bị giảm doanh thu, thu nhập do thời kỳ suy thoái kinh tế hoặc do ảnh hưởng của lãi suất cao do sức ép của lạm phát. Vì vây, xem xét điều kiện kinh tế và dự đoán sự thay đổi của các điều kiện này là rất cần thiết trong công việc phân tích tín dụng. Để đánh giá những điều kiện của cả ngành và nên kinh tế, hầu hết các ngân hàng đều lưu trữ các dữ liệu thông tin từ các báo cáo, tạp chí, nghiên cứu về ngành mà ngân hàng phục vụ chủ yếu. Phân tích tình hình kinh tế, xem xét triển vọng của ngành; uy tín, thương hiệu của khách hàng hay sản phẩm của khách hàng; vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp; rào cản gia nhập thị trường đối với các doanh nghiệp mới, và chính sách của Nhà nước đối với ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp có thuận lợi không; xem xét chu kỳ kinh doanh của ngành, sự nhạy cảm của doanh nghiệp và ngành với sự thay đổi công nghệ; xem xét thị phần của doanh nghiệp. b. Phân tích các yếu tố tài chính: Phân tích các yếu tố tài chính được tiến hành thông qua việc phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp xin vay vốn. Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp là nguồn thông tin tín dụng quan trọng nhất mà cán bộ tín dụng cần có. Báo cáo tài chính được sử dụng trong phân tích bao gồm: Bảng cân đối kế toán. Báo cáo kết quả kinh doanh. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Thuyết minh báo cáo tài chính. Ngân hàng sử dụng báo cáo tài chính để xác định nhu cầu vay vốn của khách hàng, đánh giá khả năng trả nợ, ước lượng mức độ rủi ro có thể mang lại khi người vay không hoàn trả và đưa ra quyết định cho vay hay không. Những thông tin trong báo cáo tài chính cho phép đanh giá tình hình tài chính của khách hàng tại thời điểm là cần thiết và không thể thiếu. Tuy nhiên những thông tin này là các thông tin trong quá khứ, chưa hẳn là cơ sở tin cậy cho dự báo tương lai. Một trong các phương pháp phân tích báo cáo tài chính là đánh giá các khoản mục quan trọng, xác định tính chính xác và hợp lý của các khoản mục này. Việc phân tích các khoản mục này giúp định giá giá trị thực của khoản mục, vai trò của nó và xu hướng biến động của khoản mục. Đánh giá tài sản của khách hàng: Các doanh nghiệp đều có bảng cân đối kế toán, trong đó phần tài sản phản ánh số kết dư giá trị tài sản tại một thời điểm, hoặc kết dư trung bình trong kỳ. Các thông tin về tài sản này cho thấy quy mô, khả năng quản lý của khách hàng, là những thông tin rất quan trọng trong quá trình ra quyết định cho vay của ngân hàng. Hơn nữa, tài sản của khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả năng thu hồi nợ khi khách hàng mất khả năng thanh toán. Khi đánh giá tài sản của khách hàng ta cần xem xét: Ngân quỹ: Bao gồm tiền gửi ngân hàng, tiền mặt trong két, các khoản phải thu (chủ yếu là tiền bán hàng hóa và dịch vụ chưa thu được tiền), ngân hàng cần xem xét kỹ để lại trừ các khoản bán chịu không thu được, khó thu được hoặc đã bán lại cho người khác. Các khoản cho vay ngắn hạn liên quan chặt chẽ tới tình hình ngân quỹ của khách hàng, đặc biệt thời hạn cho vay có thể tính toán dựa trên số ngày của kỳ thu tiền. Các chứng khoán có giá: Là các tài sản tài chính của doanh nghiệp. Các tài sản này làm tăng nguồn thu và có thể mạng bán khi cần tiền để chi trả. Hàng hóa trong kho: Nhiều các món vay ngắn hạn với mục tiêu tăng dự trữ hàng hóa. Do đó, ngân hàng quan tâm tới số lượng, chất lượng, giá cả, bảo hiểm, tủi ro đối với hàng hoá trong kho để loại trừ hàng kém chất lượng, hàng người khác gửi... phòng trường hợp biến động giá. Tài sản cố định: Gồm nhà cửa, sân bãi, trang thiết bị, phương tiện vận chuyển, thiết bị văn phòng... thường là đối tượng tài trợ trung và dài hạn. Tài sản cố định vô hình: các tài sản vô hình như: sự tín nhiệm, thương hiệu, danh tiếng, bản quyền, bằng sang chế… được các ngân hàng chấp nhận với giá trị thấp. Do đặc tính khó định giá và giá trị phụ thuộc vào sự biến động của nhiều yếu tố nên các ngân hàng quan tâm chủ yếu đến tài sản hữu hình hơn. Tuy nhiên, trong xu hướng hiện nay việc cho vay với sự đảm bảo bằng tài sản vô hình ngày càng được phổ biến thì tài sản vô hình cũng có được sự quan tâm xem xét kỹ lưỡng hơn từ ngân hàng. Đánh giá các khoản nợ và vốn chủ sở hữu: Nợ của người vay có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau. Về thời gian: Gồm nợ ngắn hạn (vay ngắn hạn) và nợ trung và dài hạn (vay trung và dài hạn. Nhìn chung, các khoản vay ngắn hạn thường dùng tài trợ cho tài sản lưu động, còn các khoản vay trung và dài hạn dùng tài trợ cho tài sản cố định. Do đó, tính tương quan giữa chúng là đối tượng phân tích của ngân hàng. Nếu khoản cho vay của ngân hàng phải trả trong năm thì các khoản nợ đến hạn và ngân quỹ trong năm của khách hàng là hai yếu tố chính tạo nên quyết định của ngân hàng. Ngân hàng cũng quan tâm tới nợ quá hạn và các nguyên nhân. Ngân hàng quan tâm tới tất cả các chủ nợ của khách hàng: Có thể là các khoản nợ cũ, các khoản nợ của các ngân hàng khác, nợ người cung cấp, nợ người lao động. Vị trí của ngân hàng trong danh sách chủ nợ luôn được nghiên cứu kĩ lưỡng. Nếu ngân hàng giành vị trí quan trọng nhất, nó dễ dàng thu được nợ hơn là các vị trí khác. Ngân hàng cũng xem xét các khoản nợ ưu đãi, nợ có đảm và nợ khác. Các tài sản đã làm đảm bảo cho khoản vay cũ cần phải được tính lại theo giá thị trường và bị loại trừ; nếu chúng được lấy làm tài sản đảm bảo cho khoản vay mới thì cần tính toán giá trị dôi thừa so với tiền vay cũ. Vốn chủ sở hữu là khoản mục được các ngân hàng đặc biệt chú trọng khi xem xét để đưa ra quyết định cho vay. Khoản mục này là cơ sở cho biết khả năng tự chủ về vốn và cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Vói các yếu tố khác là như nha

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3046.doc
Tài liệu liên quan