Đề tài Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực ngoài quốc doanh ở Cục thuế Hà Nội

Năm 2001 là năm chuyển giao thiên niên kỷ, năm đầu triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng IX và nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2001-2005 đặt ra trách nhiệm lớn cho cơ quan thuế các cấp.

Mặc dù có nhiều yếu tố không thuận lợi, do tình hình xuất khẩu hàng hoá gặp nhiều khó khăn, thiên tai lớn xảy ra ở một số tỉnh ĐBSCL và miền Trung. nhưng được sự chỉ đạo của Đảng, của Chính phủ, sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ tài chính, sự phối hợp tích cực của các ngành, các cấp, toàn ngành thuế đã nỗ lực phấn đấu liên tục, chủ động khai thác nguồn thu, tăng cường các biện pháp chống thất thu, chống nợ đọng đối với các sắc thuế, các khu vực trong phạm vi cả nước. Để góp phần thực hiện các luật thuế mới, đặc biệt là luật thuế GTGT và luật thuế TNDN, công tác chỉ đạo và quản lý thu theo quy trình mới đã có nhiều chuyển biến tích cực, các doanh nghiệp tự kê khai, tự tính thuế và nộp thuế theo quy định, cơ quan thuế xoá bỏ chế độ chuyên quản doanh nghiệp, nhiều biện pháp nghiệp vụ hành thu được chú trọng củng cố và phát huy.

So với năm 2000, tổng thu NSNN tăng 12,1%; trong đó thu nội địa do ngành thuế quản lý tăng 10,3%; cả nước có 61/61 địa phương hoàn thành và hoàn thành vượt dự toán được giao. Dù áp dụng các luật thuế và quy trình quản lý thu thuế mới nhưng nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá ở mức gần 7%.

Mặc dù nhiều địa phương đã hoàn thành toàn diện ba chỉ tiêu chính (doanh nghiệp Nhà nước, ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), trong đó số thu từ khu vực ngoài quốc doanh (NQD) năm 2001 tăng 12,6% so với năm 2000, nhưng số thuế thu được từ khu vực này vẫn còn thất thu nhiều về hộ và doanh thu tính thuế. Tình trạng để sót hộ, khoán doanh thu với mức thuế chưa sát với hoạt động sản xuất kinh doanh của đối tượng nộp thuế, ghi chép sổ sách kế toán chỉ là hình thức.đã làm số thu từ khu vực NQD chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức độ kinh doanh ở khu vực này.

Số thu từ khu vực KTNQD chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số thu NSNN, song công tác quản lý thuế đối với khu vực này mang ý nghĩa hết sức quan trọng, không chí góp phần tăng thu cho NSNN mà chính là thực hiện vai trò quản lý của nhà nước đối với khu vực KTNQD, góp phần thực hiện sự bình đẳng và công bằng xã hội. Xuất phát từ ý nghĩa trên, đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực ngoài quốc doanh ở Cục thuế Hà nội” với mục tiêu: dựa trên cơ sở lý luận cũng như những đánh giá về thực trạng, ưu nhược điểm của công tác quản lý thu thuế khu vực NQD trong những năm qua trên địa bàn thành phố Hà nội - trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế, xã hội của cả nước, một môi trường thuận lợi phát triển kinh tế NQD, từ đó chỉ ra nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế trên địa bàn.

Công tác quản lý thu thuế đối với khu vực NQD rất rộng, đa dạng và phức tạp. Phạm vi đề tài chỉ tập trung vào những giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu đối với hai luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với khu vực NQD trên địa bàn quản lý của Cục thuế Hà nội.

Về nội dung của đề tài, ngoài phần mở đầu và kết luận có ba phần chính:

Chương I: Những vấn đề cơ bản về công tác quản lý thu thuế khu vực NQD.

Chương II: Thực trạng công tác quản lý thu thuế khu vực NQD.

Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế khu vực NQD.

 

doc70 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1255 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực ngoài quốc doanh ở Cục thuế Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Năm 2001 là năm chuyển giao thiên niên kỷ, năm đầu triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng IX và nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2001-2005 đặt ra trách nhiệm lớn cho cơ quan thuế các cấp. Mặc dù có nhiều yếu tố không thuận lợi, do tình hình xuất khẩu hàng hoá gặp nhiều khó khăn, thiên tai lớn xảy ra ở một số tỉnh ĐBSCL và miền Trung... nhưng được sự chỉ đạo của Đảng, của Chính phủ, sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ tài chính, sự phối hợp tích cực của các ngành, các cấp, toàn ngành thuế đã nỗ lực phấn đấu liên tục, chủ động khai thác nguồn thu, tăng cường các biện pháp chống thất thu, chống nợ đọng đối với các sắc thuế, các khu vực trong phạm vi cả nước. Để góp phần thực hiện các luật thuế mới, đặc biệt là luật thuế GTGT và luật thuế TNDN, công tác chỉ đạo và quản lý thu theo quy trình mới đã có nhiều chuyển biến tích cực, các doanh nghiệp tự kê khai, tự tính thuế và nộp thuế theo quy định, cơ quan thuế xoá bỏ chế độ chuyên quản doanh nghiệp, nhiều biện pháp nghiệp vụ hành thu được chú trọng củng cố và phát huy. So với năm 2000, tổng thu NSNN tăng 12,1%; trong đó thu nội địa do ngành thuế quản lý tăng 10,3%; cả nước có 61/61 địa phương hoàn thành và hoàn thành vượt dự toán được giao. Dù áp dụng các luật thuế và quy trình quản lý thu thuế mới nhưng nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá ở mức gần 7%. Mặc dù nhiều địa phương đã hoàn thành toàn diện ba chỉ tiêu chính (doanh nghiệp Nhà nước, ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), trong đó số thu từ khu vực ngoài quốc doanh (NQD) năm 2001 tăng 12,6% so với năm 2000, nhưng số thuế thu được từ khu vực này vẫn còn thất thu nhiều về hộ và doanh thu tính thuế. Tình trạng để sót hộ, khoán doanh thu với mức thuế chưa sát với hoạt động sản xuất kinh doanh của đối tượng nộp thuế, ghi chép sổ sách kế toán chỉ là hình thức...đã làm số thu từ khu vực NQD chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức độ kinh doanh ở khu vực này. Số thu từ khu vực KTNQD chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số thu NSNN, song công tác quản lý thuế đối với khu vực này mang ý nghĩa hết sức quan trọng, không chí góp phần tăng thu cho NSNN mà chính là thực hiện vai trò quản lý của nhà nước đối với khu vực KTNQD, góp phần thực hiện sự bình đẳng và công bằng xã hội. Xuất phát từ ý nghĩa trên, đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực ngoài quốc doanh ở Cục thuế Hà nội” với mục tiêu: dựa trên cơ sở lý luận cũng như những đánh giá về thực trạng, ưu nhược điểm của công tác quản lý thu thuế khu vực NQD trong những năm qua trên địa bàn thành phố Hà nội - trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế, xã hội của cả nước, một môi trường thuận lợi phát triển kinh tế NQD, từ đó chỉ ra nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế trên địa bàn. Công tác quản lý thu thuế đối với khu vực NQD rất rộng, đa dạng và phức tạp. Phạm vi đề tài chỉ tập trung vào những giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu đối với hai luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với khu vực NQD trên địa bàn quản lý của Cục thuế Hà nội. Về nội dung của đề tài, ngoài phần mở đầu và kết luận có ba phần chính: Chương I: Những vấn đề cơ bản về công tác quản lý thu thuế khu vực NQD. Chương II: Thực trạng công tác quản lý thu thuế khu vực NQD. Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế khu vực NQD. Chương I: Những vấn đề cơ bản về công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh: I. Một số vấn đề chung về kinh tế ngoài quốc doanh: Trong định hướng xã hội chủ nghĩa về việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định yêu cầu: - Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho CNH - HĐH, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh. - Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác. Kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện pháp lý và kinh tế thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn laau dài, mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước, áp dụng phổ biến các hình thức tư bản Nhà nước. Như vậy, trong gần 30 năm ở miền Bắc và gần 10 năm ở miền Nam, KTNQD đã không được chấp nhận, là đối tượng phải cải tạo, xoá bỏ, hạn chế. Đại hội Đảng lần thứ VI với chủ trương xây dựng nề kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước, khu vực KTNQD đã được thừa nhận là một khu vực quan trọng của nền kinh tế. I.1. Kinh tế thị trường và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Việc nghiên cứu KTNQD nói chung và thuế đối với KTNQD nói riêng đều không thể tách rời việc nghiên cứu những đặc điểm của môi trường mà KTNQD tồn tại và phát triển. Đó chính là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Việc chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường là một nội dung bao trùm nhất của công cuộc đổi mới. Cho đến nay, cơ chế thị trường đã đi vào cuộc sống và tạo ra nhiều bién đổi lớn trong đời sống kinh tế xã hội. Trong đó, sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan, cần thiết để giải phóng sức sản xuất xã hội, giải phóng mọi tiềm năng về vốn, lao động, kinh nghiệm... góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Nếu xét trên giác độ sở hữu và quản lý, nền kinh tế được chia làm hai khu vực: khu vực kinh tế trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực kinh tế trong nước hiện nay có năm thành phần kinh tế: thành phần kinh tế Nhà nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế cá thể, thành phần kinh tế tư bản Nhà nước; tất cả tồn tại trên cơ sở ba loại hình sở hữu chủ yếu là sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Nếu xét trên giác độ chức năng và mục tiêu, nền kinh tế gồm hai khu vực: kinh tế quốc doanh (chủ yếu thực hiện chức năng dịch vụ công cộng vì mục tiêu là lợi ích chung của toàn xã hội) và kinh tế ngoài quốc doanh (chủ yếu làm chức năng kinh doanh vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận). Trong cơ cấu sản xuất xã hội, KTNQD được coi là một thực thể khách quan, gồm các thành phần kinh tế được xác định tuỳ theo đặc điểm kinh tế xã hội và quan điểm chính trị của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn khác nhau. Tại Việt nam, khu vực KTNQD tồn tại dưới các hình thức: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phàn, hợp tác xã, tổ sản xuất, hộ kinh doanh cá thể... Từ năm 1986 đến nay, khu vực KTNQD đã tạo ra khoảng 50% tổng sản phẩm trong nước, 1/3 giá trị sản lượng công nghiệp mỗi năm. Khu vực này bộc lộ nhiều vai trò không thể phủ nhận, nhất là trong tình hình kinh tế hiện nay: - Thứ nhất, khu vực KTNQD góp phần khai thác những tiềm năng to lớn của nền kinh tế. Cùng với khu vực KTQD, KTNQD là cộng sự đắc lực đào xới những mảnh đất màu mỡ của nền kinh tế chưa được sử dụng đến. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có khả năng tập trung vốn, trí tuệ vào các ngành kinh tế phát triển hay những ngành kinh tế đòi hỏi nhiều hàm lượng tri thức như công nghệ thông tin cũng như có khả năng lấp đầy những khoảng trống trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh không cần nhiều vốn và có mức lợi nhuận thấp mà các nhá đầu tư lớn ít quan tâm tới. - Thứ hai, khu vực KTNQD là cầu nối quan trọng để nền kinh tế nước ta từng bước hoà nhập với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới bởi lẽ đây là khu vực năng động và hiệu quả cao. - Thứ ba, khu vực KTNQD góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nền kinh tế, vấn đề thất nghiệp và tạo ra sự phát triển cân đối trong cơ cấu nền kinh tế. Trung bình ở nước ta mỗi năm khu vực này đem lại việc làm cho hơn một triệu người lao động. - Thứ tư, KTNQD giải phóng năng lực sản xuất của người lao động, tạo ra nguồn sản phẩm phong phú về số lượng và chất lượng đáp ững mọi nhu cầu của xã hội. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, KTNQD luôn tập trung cao độ tinh thần làm việc, phát huy mọi khả năng sãn có để có thể đem lại hiệu quả cao nhất. Một mặt, đây là đối thủ cạnh tranh của khu vực KTQD, nếu một trong hai bên không năng động, mạnh dạn đổi mới thì lập tức sẽ bị thị trường đào thải; mặt khác, sự kết hợp sản xuất và tiêu thụ giữa hai khu vực tạo ra một dây truyền sabr xuất lớn trong nền kinh tế, giúp quá trình sản xuất được rút ngắn. - Thứ năm, KTNQD góp phần tăng thu cho NSNN. Thuế là nguồn thu chính vào NSNN từ khu vực này. Trong năm 2001, tổng thu từ khu vực KTNQD đạt 102,4% dự toán năm, từ DNNN là 109% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (trừ dầu thô) là 113,5%. - Thứ sáu, KTNQD tạo ra một thị trường vốn tín dụng lớn và hứa hẹn nhiều tiềm năng. Với chính sách đổi mới, nền kinh tế tăng trưởng khá, khu vực KTNQD ngày càng tăng về số lượng và quy mô. Tính đến 12/2001, trên địa bàn Hà nội có 421 công ty cổ phần, 5223 công ty TNHH, 950 doanh nghiệp tư nhân, 543 hợp tác xã và tổ sản xuất, trên 75000 hộ kinh doanh cá thể và 375 là thuộc các loại hình khác. I.2. Đặc điểm của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh: KTNQD là khu vực kinh tế bao gồm các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh bằng nguồn vốn của cá nhân hoặc một số cá nhân đóng góp, theo cơ chế thị trường vì mục tiêu lợi nhuận. -Thứ nhất, KTNQD mang tính sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, do tư nhân quản lý và phân phối lợi nhuận, hiệu quả sản xuất gắn liền với quyền lợi cá nhân người sản xuất. - Thứ hai, mục tiêu lớn nhất trong kinh doanh là lợi nhuận, họ có thế sẵn sàng bằng bất kỳ giá nào để kiếm được thật nhiều lợi nhuận với những phương án kinh doanh táo bạo và mạo hiểm. Do vậy nhiều khi gây hậu quả xấu cho xã hội. KTNQD thường tự phát và khó quản lý, không ít cơ sở kinh doanh trái phép, kinh doanh không kê khai nộp thuế, trốn thuế, lợi dụng hoá đơn chứng từ xin hoàn thuế sai quy định. - Thứ ba, tổ chức các cơ sở KTNQD phần lớn là quy mô nhỏ do vốn ít, cơ cấu gọn nhẹ, linh hoạt, dễ dàng thích ứng nhanh với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Nhân viên thường đảm nhận công việc theo kiểu đa năng, chi phí nhân công thấp. Với những vai trò và đặc điểm trên, khu vực KTNQD ngày càng được khuyến khích và đảm bảo môi trường thuận lợi để phát triển. Tuy vậy, khuyến khích phát triển khu vực này không đồng nghĩa với việc buông lỏng quản lý, do vậy, hệ thống pháp luật phải được thể chế hoá đầy đủ, rõ ràng cả tầm vĩ mô và vi mô để có thể phát huy tối đa mặt tíc cực và hạn chế đến mức thấp nhất mặt tiêu cực của KTNQD trong cơ chế thị trường. I.3. Các sắc thuế chủ yếu đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh: Từ ngày 1/1/1999 thực hiện chương trình cải cách thuế bước hai, hệ thống thuế của Nhà nước ta bao gồm 10 sắc thuế, trong đó có 4 sắc thuế chủ yếu áp dụng đối với khu vực KTNQD. A. Thuế môn bài: Thuế môn bài mang tính chất là thuế trực thu, động viên sự đóng góp trực tiếp của cơ sở kinh doanh, tạo được một nguồn thu quan trọng cho nhu cầu chi tiêu của NSNN ngay từ đầu mỗi năm khi các nguồn thu khác chưa nhiều. Thuế môn bài có tác dụng kiểm kê, kiểm soát các cơ sở kinh doanh, có căn cứ phân loại quy mô doanh thu lớn, vừa, nhỏ để áp dụng biện pháp quản lý thu thuế thích hợp. Thuế môn bài áp dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân có thực tế kinh doanh. Thuế thu mỗi năm một lần và chủ yếu thu vào đầu năm. những cơ sở kinh doanh hoạt động trong sáu tháng đầu năm phải nộp mức thuế môn bài cả năm. Nếu bắt đầu hoạt động trong sáu tháng cuối năm thì nộp 50% mức thuế cả năm. Thuế môn bài hàng năm được quy định trong biểu thuế qua sáu bậc tương ứng với số thu nhập bình quân tháng cao hay thấp. Với mục đích kiểm kê, kiểm soát các cơ sở thực tế kinh doanh, thuế môn bài không có quy định miễn giảm thuế. B. Thuế giá trị gia tăng (GTGT): Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Bản chất của thuế GTGT là loại thuế do người tiêu dùng hàng hoá hoặc dịch vụ chi trả, là một yếu tố cấu thành trong giá thanh toán của sản phẩm hàng hoá. Đối tượng của thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng tại Việt nam (trừ 26 nhóm hàng hoá, dịch vụ quy định tại Thông tư số 122/2000/TT-BTC quy định chi tiết thi hành luật thuế GTGT. Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. Thuế suất giá trị gia tăng hiện nay ở Việt nam có 4 mức: 0%, 5%, 10%, 20%. Cụ thể: - Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng xuất khẩu. - Thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ thiết yếu. - Thuế suất 10% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ phổ thông. - Thuế suất 20% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ được coi là cao cấp cần điều tiết cao. Hiện nay ở nước ta áp dụng hai phương thức tính thuế GTGT: Phương pháp khấu trừ áp dụng cho các đối tượng kinh doanh và các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, hợp tác xã và các tổ chức kinh doanh khác thuộc diện thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ theo quy định. Phương pháp tính trực tiếp áp dụng đối với các cá nhân sản xuất, hoạt đọng trong nước và các tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt nam không theo luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ, các cơ sở kinh doanh mua bán vàng, bạc, đá quý. C. Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB): Thuế TTĐB mang tính chất là thuế gián thu áp dụng đối với 8 loại hàng hoá và 4 hình thức dịch vụ (quy định trong luật thuế TTĐB) được sản xuất trong nước và nhập khẩukhông thuộc loại thật cần thiết cho nhu cầu đời sống thiết yếu nhằm động viên sự đóng góp của người tiêu dùng cho NSNN, hạn chế sản xuất, nhập khẩu và tiêu dùng nhiều các mặt hàng này. Những cơ sở sản xuất mặt hàng chịu thuế TTĐB phải nộp thuế TTĐB và không phải nộp thuế GTGT. Thuế TTĐB chỉ nộp một lần tại khâu sản xuất (đối với hàng hoá sản xuất trong nước), khâu nhập khấu (đối với hàng hoá nhập khẩu hoặc ở khâu cung ứng dịch vụ (đối với dịch vụ chịu thuế). Căn cứ tính thuế TTĐB là giá tính thuế của hàng hoá dịch vụ chịu thuế và thuế suất. Theo quy định hiện hành, biểu thuế TTĐB có mức thuế suất cao gồm 12 mức thuế suất khác nhau từ 15% đến 100% được phân theo loại hàng hoá và dịch vụ. Đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế TTĐB, thuế suất thuế TTĐB không phân biệt hàng hoá nhập khẩu hay hàng hoá sản xuất trong nước. Thuế TTĐB được xét miến giảm và hoàn thuế trong một số trường hợp cụ thể được quy định trong luật thuế. D. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN): Thuế TNDN là loại thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thu nhập thực tế của các đối tượng nộp thuế, các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế. Căn cứ tính thuế TNDN là thu nhập chịu thuế và thuế suất. Mức thuế suất chung là 32%, ngoài ra có một số trường hợp đặc biệt mức thuế suất có thể thấp hơn hoặc cao hơn được quy định cụ thể trong luật thuế TNDN. II. Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh: II.1. Yêu cầu của công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh: Yêu cầu chung của công tác quản lý thu thuế đó là phải thu đúng, thu đủ và thu kịp thời theo đùng pháp luật. Tổng cục thuế đã nghiên cứu, ban hành các quy trình chế độ nghiệp vụ cho từng loại đối tượng kinh doanh có thực hiện hoá đơn, sổ sách kế toán hoặc khoán thuế thuộc diện quản lý thu thuế theo từng sắc thuế. Công tác quản lý thu thuế phải thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ để nắm chắc cơ sở kinh doanh thực tế, có cớ sở thu thuế đầy đủ về doanh số phát sinh theo từng cơ sở, từng thời gian, đảm bảo được nguyên tắc lập sổ thuế, thông báo thuế và thu thuế đúng với thời gian quy định và cơ sở để giải quyết xử lý nộp chậm, dây dưa tiền thuế, trốn thuế. Việc tách công tác quản lý thành ba bộ phận nhằm tạo được sự hỗ trợ trong tổ chức thuế, vừa chống được thất thu có hiệu quả, vừa khắc phục tuỳ tiện, tiêu cực trong công tác quản lý thu thuế. Một yếu tố cơ bản để cơ quan thuế xác định được việc thu thuế sát đúng với thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh là phải đảm bảo được việc thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kê khai đăng ký thuế, chế độ hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán ở tất cả các cơ sở kinh doanh. Ngoài yêu cầu cơ bản trên, công tác quản lý thu thuế đối với nền kinh tế nhiều thành phần còn phải đảm bảo yêu cầu về mặt tài chính tức là đảm bảo tỷ lệ động viên hợp lý đối với các thành phần kinh tế, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách, phải bao quát đủ mọi nguồn thu để khai thác động viên cho ngân sách; đảm bảo yêu cầu về mặt kinh tế tức là phải làm cho thuế trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế; đảm bảo yêu cầu về mặt xã hội là phải góp phần từng bước thực hiện công bằng xã hội. Để thực hiện tốt những yêu cầu trên, trong công tác quản lý cần phải quán triệt một số quan điểm sau: Thứ nhất, phát huy sức mạnh của các cấp, các ngành. Công tác thuế là nhiệm vụ chung của chính quyền các cấp, do vậy phải có sự tăng cường chỉ đạo, lãnh đạo của chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở. Công tác thuế là một công tác chính trị, kinh tế tổng hợp liên quan đến mọi thành phần kinh tế trong xã hội, là cuộc đấu tranh gay gắt giữa lợi ích cá nhân cục bộ với lợi ích quốc gia, giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân, mọi tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy không thể tách công tác quản lý thu thuế của ngành thuế ra khỏi sự chỉ đạo của chính quyền các cấp. Phải coi việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác thuế là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên của địa phương. Các ngành nội chính cũng cần xác định mối quan hệ với cơ quan thuế, vừa là phối hợp hỗ trợ, vừa là trách nhiệm cùng cơ quan thuế thực hiện các luật thuế có hiệu quả. Thứ hai là quan điểm đảm bảo bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế. Trong cơ chế thị trường, mọi thành phần kinh tế được bình đẳng trước pháp luật để cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh. Do đó, hệ thống thuế cũng phải được thực hiện thống nhất nhằm đảm bảo sự bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp cho NSNN giữa các doanh nghiệp, tầng lớp dân cư. Về lâu dài cần nghiên cứu, thu hẹp tiến tới xoá bỏ mọi phân biệt đối xử tràn lan về nghĩa vụ nộp thuế để đảm bảo sự bình đăngr và cạnh tranh lành mạnh. Thứ ba là giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích Nhà nước với người nộp thuế . Do đó phải xác định rõ chức năng của từng sắc thuế và của cả hệ thống thuế. Mỗi sắc thuế chỉ nên đảm nhận một số chức năng chủ yếu nhất định, đảm bảo cho sắc thuế đó đơn giản, có thể thực hiện đầy đủ, có hiệu quả cao. Một chính sách thuế được coi là hoàn hảo khi nó đạt được các mục tiêu về mặt tài chính (đưa lại số thu quan trọng cho ngân sách); về mặt xã hội (đảm bảo công bằng và hợp lý); về mặt kinh tế (có tác dụng khuyến khích và thúc đẩy hoạt động sản xuất); về mặt nghiệp vụ (đơn giản, dễ hiểu, dễ làm). Trong cơ chế thị trường, nền kinh tế phát triển do nhiều yếu tố khách quan, đặc biệt là quy luật cung cầu và quy luật giá trị, do đó thuế có vai trò quan trọng trong điều tiết vĩ mô chỉ nên tác động ở mức độ vừa phải, góp phần, không phải là công cụ độc nhất. Chính sách và biện pháp quản lý về thuế không can thiệp quá sâu vào mọi khía cạnh hoạt động tích cực hay tiêu cực của từng doanh nghiệp và cần tạo môi trường thông thoáng mang tính bình quân để cơ sở kinh doanh có thể chủ động, linh hoạt trong điều hành sản xuất kinh doanh, tạo thu nhập cao và nộp thuế đầy đủ theo quy định của pháp luật. Thứ tư là quan điểm quần chúng của Đảng trong tuyên truyền, giáo dục về thuế. Việc tuyên truyền, giáo dục chính sách, chế độ thuế không chỉ là truyền đạt một chiều từ trên xuống mà thông qua công tác quản lý thường xuyên, cán bộ thuế phải thấy được những khó khăn thực tế phát sinh trong tổ chức thực hiện. Phải lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của các nhà doanh nghiệp, trung thực phản ánh ý kiến lên trên, nghiên cứu, sửa đổi bổ sung để chính sách thuế, chế độ thuế ngày càng phù hợp với trình độ và khả năng đóng góp của nhân dân. II.2. Nội dung của công tác quản lý thu thuế khu vực ngoài quốc doanh: II.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý thu thuế: Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý thu thuế bao gồm ba cấp: - Cấp trung ương: Tổng cục thuế là cơ quan quản lý Nhà nước về thuế (trực thuộc Bộ tài chính). - Cấp tỉnh hoặc cấp tương đương: Cục thuế chỉ đạo thống nhất việc thực hiện các luật thuế, pháp lện thuế trên địa bàn (trừ thuế xuất nhập khẩu). Cục thuế chịu sự chỉ đạo song trùng của Tổng cục thuế và Uỷ ban nhân dân cùng cấp. - Cấp huyện hoặc cấp tương đương: Chi cục thuế có chức năng trực tiếp tổ chức công tác thu trên địa bàn theo đúng pháp luật. Chi cục thuế chịu sự chỉ đạo song trùng của cơ quan thuế cấp trên và Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Đối với việc tăng cường tổ chức bộ máy quản lý có bốn yêu cầu cần phải đáp ứng, đó là: Thứ nhất, hệ thống quản lý thu thuế phải được kiện toàn, đảm bảo đủ điều kiện thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của hệ thống thuế. Thứ hai, bộ máy quản lý thu thuế phải trở thành hệ thống thống nhất từ trung ương đến địa phương, đảm bảo hiệu lực của hệ thống chính sách thuế. Thứ ba, phẩm chất cách mạng và năng lực toàn diện của cán bộ quản ly thu thuế phải được nâng cao về trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, về trình độ tổ chức quản lý phù hợp với điều kiện mở rộng kinh doanh của tát cả các thành phần kinh tế và thực hiện một chính sách thuế bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Thứ tư, quyền hạn, trách nhiệm giữa các cấp chính quyềnphải được xác lập rõ ràng, có sự phân công cụ thể, hợp lý trong tổ chức chỉ đạo và thực hiện công tác thuế. Chủ tịch UBND các cấp chịu trách nhiệm trực tiếp về công tác thuế trên địa bàn lãnh thổ. II.2.2. Mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của công tác quản lý: Để phát huy tác dụng tích cực của các luật thuế mới đối với nền kinh tế và thực hiện tốt quy trình quản lý mới, công tác quản lý cần thực hiện các mục tiêu sau: - Đảm bảo công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp, hộ kinh doanh trong nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ, thúc đẩy công tác hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. - Đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, khai thác, phát hiện và khơi thông các nguồn thu còn tiềm ẩn, hạn chế tình trạng nợ đọng thuế. - Khuyến khích mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu để giải quyết việc làm cho người lao động. - Nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp cũng như các tầng lớp dân chúng trong xã hội. Để đạt được các mục tiêu trên, công tác quản lý thu thuế có những chức năng cơ bản sau: - Hướng dẫn đối tượng nộp thuế thực hiện quyền và nghĩa vụ thuế, chẳng hạn: các thủ tục về kê khai, đăng ký nộp thuế, quyết toán hoàn thuế... - Đôn đốc tổ chức thu thuế. - Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ thuế của các đối tượng thuế. - Xử lý vi phạm hành chính về thuế và giải quyết khiếu nại về thuế. - Tuyên truyền giáo dục sâu rộng chính sách, chế độ thuế. Ngoài ra, bộ máy tổ chức còn có những nhiệm vụ sau: Thứ nhất, thông qua công tác quản lý thu thuế và tình hình biến động về kinh tế, xã hội, trình Nhà nước có những sửa đổi, bổ sung chính sách, chế độ thuế. Hướng dẫn và tổ chức thực hiện thống nhất các quy định thuế chung cả nước. Thứ hai, tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ thu các koại thuế hàng năm trên từng địa bàn và trong phạm vi cả nước, đảm bảo hoàn thành và hoàn thành toàn diện nhiệm vụ thu thuế được giao. Thứ ba, tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên, đột xuất về thuế. Thứ tư, quản lý thống nhất trong toàn ngành về biên chế, lao động, lương... đối với cán bộ viên chức ngành thuế. II.2.3. Đội ngũ cán bộ: Mỗi cán bộ thuế phải nắm được lý luận cơ bản về khoa học kinh tế và khoa học kỹ thuật để có thể phân tích, đánh giá chính xác tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, hiệu quả kinh tế của từng cơ sở. Từ đó xác định đúng mức phải nộp trong kỳ. Cán bộ thuế phải có quan điểm chính trị vững vàng, tinh thần trách nhiệm và kỷ luật cao, biết tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của các tổ chức Đảng, chính quyền các cấp và có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan, quần chúng. II.2.4. Quy trình quản lý thu thuế: Theo Quyết định số 1368 TCT/QĐ-TCCB, ngành thuế bắt đầu áp dụng quy trình quản lý, thu thuế mới từ 1/1/1999 đối với các doanh nghiệp quốc doanh trung ương và địa phương, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài, công ty nước ngoài hoạt động tại Việt nam không theo luật đầu tư nước ngoài, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, các cơ sở kinh tế tập thể, hợp tác xã, các đơn vị sự nghiệp kinh tế, nhà khách, nhà nghỉ và các tổ chức kinh tế khác của các cơ quan Nhà nước, Đảng, Đoàn thể, hội, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân trung ương và địa phương, các hộ cá thể sản xuất kinh doanh đăng ký nộp thuế GTGT t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100220.doc
Tài liệu liên quan