Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được coi như một nhu cầu thiết yếu của con người. Ngày nay, hoạt động du lịch đang được phát triển mạnh mẽ và trở thành một ngành kinh tế lớn nhất trên thế giới. Hoạt động du lịch càng phát triển càng tạo ra sự tiến bộ xã hội, tình hữu nghị hoà bình, sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc.
Với các ưu điểm nổi bật của mình, ngành du lịch được xem là " ngành công nghiệp không khói" mang lại lợi nhuận cao mà bất kỳ quốc gia nào cũng mong muốn có được. Hoà mình vào xu thế chung, Việt Nam đang từng bước đưa ngành du lịch trở thành một ngành quan trọng, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, khai thác có hiệu quả tiềm năng sẵn có.
Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam (là hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung Ương trước đây là tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng) nằm ở vị trí trung độ của đất nước, trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung _ đang được nhà nước ưu tiên khuyến khích phát triển. Về mặt du lịch, đây là vùng đất có tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng, là nơi giao lưu của hai nền văn hoá Đông Sơn và Sa Huỳnh. Đà Nẵng có ưu thế là đầu mối giao thông, là trung tâm du lịch quan trọng của miền Trung với cơ sở hạ tầng - cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển đáp ứng điều kiện sẵn sàng đón tiếp, tài nguyên biển nhiệt đới giá trị và mạng lưới lữ hành khá hoàn chỉnh; trong khi đó thế mạnh của Quảng Nam lại ở nguồn tài nguyên nhân văn độc đáo, đặc biệt là hai di sản văn hoá thế giới Đô thị cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn. Từ đó có thể thấy hoạt động du lịch của thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam là khó có thể tách rời.
Thực tế phát triển du lịch trong nhiều năm qua đã cho thấy hoạt động của ngành du lịch Đà Nẵng - Quảng Nam đã có những phát triển đáng khích lệ, lượng khách du lịch ngày càng tăng, bước đầu khẳng định được vị thế của mình trong du lịch Việt Nam và quốc tế. Định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đà Nẵng - Quảng Nam cũng đã xác định du lịch sẽ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, thành phố trong thập niên đầu thế kỷ XXI.
Trong bối cảnh mới hiện nay, khi lượng khách đến Đà Nẵng - Quảng Nam ngày càng tăng với mong muốn chất lượng dịch vụ cao và sản phẩm du lịch đa dạng thì du lịch Đà Nẵng - Quảng Nam còn gặp rất nhiều hạn chế như: sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, chất lượng phục vụ chưa thật tốt. Cùng với một số tồn tại khác, thực trạng này chưa tạo ra những đảm bảo vững chắc cho sự phát triển ổn định của ngành du lịch điạ phương.
Với đề tài: " Du lịch Đà Nẵng - Quảng Nam: tiềm năng, thực trạng và giải pháp"
98 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1466 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Du lịch Đà Nẵng - Quảng Nam: tiềm năng, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được coi như một nhu cầu thiết yếu của con người. Ngày nay, hoạt động du lịch đang được phát triển mạnh mẽ và trở thành một ngành kinh tế lớn nhất trên thế giới. Hoạt động du lịch càng phát triển càng tạo ra sự tiến bộ xã hội, tình hữu nghị hoà bình, sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc.
Với các ưu điểm nổi bật của mình, ngành du lịch được xem là " ngành công nghiệp không khói" mang lại lợi nhuận cao mà bất kỳ quốc gia nào cũng mong muốn có được. Hoà mình vào xu thế chung, Việt Nam đang từng bước đưa ngành du lịch trở thành một ngành quan trọng, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, khai thác có hiệu quả tiềm năng sẵn có.
Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam (là hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung Ương trước đây là tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng) nằm ở vị trí trung độ của đất nước, trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung _ đang được nhà nước ưu tiên khuyến khích phát triển. Về mặt du lịch, đây là vùng đất có tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng, là nơi giao lưu của hai nền văn hoá Đông Sơn và Sa Huỳnh. Đà Nẵng có ưu thế là đầu mối giao thông, là trung tâm du lịch quan trọng của miền Trung với cơ sở hạ tầng - cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển đáp ứng điều kiện sẵn sàng đón tiếp, tài nguyên biển nhiệt đới giá trị và mạng lưới lữ hành khá hoàn chỉnh; trong khi đó thế mạnh của Quảng Nam lại ở nguồn tài nguyên nhân văn độc đáo, đặc biệt là hai di sản văn hoá thế giới Đô thị cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn. Từ đó có thể thấy hoạt động du lịch của thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam là khó có thể tách rời.
Thực tế phát triển du lịch trong nhiều năm qua đã cho thấy hoạt động của ngành du lịch Đà Nẵng - Quảng Nam đã có những phát triển đáng khích lệ, lượng khách du lịch ngày càng tăng, bước đầu khẳng định được vị thế của mình trong du lịch Việt Nam và quốc tế. Định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đà Nẵng - Quảng Nam cũng đã xác định du lịch sẽ trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, thành phố trong thập niên đầu thế kỷ XXI.
Trong bối cảnh mới hiện nay, khi lượng khách đến Đà Nẵng - Quảng Nam ngày càng tăng với mong muốn chất lượng dịch vụ cao và sản phẩm du lịch đa dạng thì du lịch Đà Nẵng - Quảng Nam còn gặp rất nhiều hạn chế như: sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, chất lượng phục vụ chưa thật tốt... Cùng với một số tồn tại khác, thực trạng này chưa tạo ra những đảm bảo vững chắc cho sự phát triển ổn định của ngành du lịch điạ phương.
Với đề tài: " Du lịch Đà Nẵng - Quảng Nam: tiềm năng, thực trạng và giải pháp"
2. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của đề tài:
2.1 Mục đích:
Trên cơ sở tổng quan có chọn lọc cơ sở lý luận về phát triển du lịch và vận dụng vào địa bàn Đà Nẵng- Quảng Nam, đề tài nhằm phân tích tiềm năng, thực trạng du lịch của tỉnh và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch.
2.2. Nhiệm vụ:
Từ việc xác định các mục đích trên, đề tài cần giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Đánh giá tiềm năng phát triển du lịch của Đà Nẵng- Quảng Nam.
- Phân tích hoạt động kinh doanh du lịch trên toàn địa bàn.
- Xác định phương hướng và giải pháp nhằm phát triển có hiệu quả tiềm năng du lịch Đà Nẵng- Quảng Nam.
2.3. Giới hạn đề tài:
Với khả năng và thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài chủ yếu đề cập hai vấn
đề chính: Tiềm năng du lịch và phân tích hoạt động kinh doanh du lịch của Đà Nẵng- Quảng Nam.
Về lãnh thổ, đề tài nghiên cứu được giới hạn trong phạm vi Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam.
Về thời gian, khoá luận tiến hành đánh giá và đề xuất các giải pháp trên cơ sở hiện trạng đến hết năm 2000.
3. Phương pháp nghiên cứu:
3.1. Phương pháp thu thập số liệu:
Việc thu thập toàn bộ số liệu thứ cấp có liên quan đến đề tài là rất quan trọng, giúp cho ta có thể giảm bớt nhiều công sức, thời gian phải dành ra để đi tìm hiểu trên thực tại.
3.2. Phương pháp khảo sát thực địa:
Phương pháp này nhằm bổ sung các tài liệu còn thiếu, chưa cập nhật. Đồng thời kiểm tra mức độ chính xác của số liệu đã thu thập được. Căn cứ vào mục đích, nội dung nghiên cứu của đề tài để vạch ra lộ trình, tiếp xúc với các cơ quan, đơn vị chức năng làm du lịch tỉnh và ghi chép lại tất cả những vấn đề có liên quan đến đề tài.
3.3. Phương pháp tổng hợp, phân tích thống kê:
Dựa trên tất cả các số liệu, tài liệu thu thập được từ hai phương pháp trên, tổng hợp lại, so sánh, rút ra nhận xét, kết luận.
Về phương pháp thống kê: thu thập, lập biểu bảng, sơ đồ, bản đồ.
3.4. Phương pháp vẽ và sử dụng bản đồ:
Phương pháp này dựa trên các bản đồ sẵn có, phản ánh lại các đặc điểm không gian về nguồn tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, các tuyến, điểm, cụm, du lịch... trên bản đồ. Vạch ra quy luật của toàn bộ hệ thống trong không gian.
3.5. Phương pháp dự báo:
Phương pháp này để xác định và đánh giá các vấn đề trong nội dung có liên quan dựa trên các nguyên nhân, hệ quả và tính hệ thống. Đồng thời dự báo các chỉ tiêu của du lịch trong tương lai (số lượng, chất lượng, quy mô...) của tỉnh.
4. Những đóng góp chủ yếu của khoá luận:
1 - Phân tích những thế mạnh và những hạn chế của tiềm năng du lịch đối với sự phát triển chung của ngành du lịch Đà Nẵng- Quảng Nam.
2 - Làm rõ thực trạng hoạt động du lịch trên địa bàn toàn tỉnh, thông qua một số chỉ tiêu về nguồn khách, cơ sở vật chất - kỹ thuật, doanh thu... và mô tả một số điểm, cụm tuyến du lịch.
3 - Bước đầu đưa ra một số giải pháp phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng, góp phần nâng cao vai trò của ngành du lịch trong nền kinh tế địa phương.
5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của khoá luận được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Tiềm năng du lịch Đà Nẵng - Quảng Nam.
Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh du lịch Đà Nẵng - Quảng Nam.
Chương 3: Định hướng và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch của Đà Nẵng - Quảng Nam.
Phần nội dung
Chương 1
Tiềm năng du lịch Đà nẵng- Quảng nam
1.1. Vị trí địa lý
Đà nẵng - Quảng Nam nằm ở vị trí trung tâm của đất nước có toạ độ địa lý đất liền từ 14°57'10" đến 16°2' vĩ độ Bắc, từ 107°12'40"đến 108°44'20'' độ kinh Đông và quần đảo Hoàng Sa nằm trọn giữa hai kinh tuyến 110° - 113° Đông, trong vùng vĩ độ 15°45" - 17°07" Bắc.
Về danh giới hành chính, phía Bắc và Tây-Bắc Đà Nẵng - Quảng Nam giáp với tỉnh Thừa Thiên -Huế; phía Tây giáp nước bạn CHDCND Lào với 140 km đường biên giới; phía Tây-Nam giáp tỉnh Kom Tum; phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi; phía Đông giáp biển Đông với hơn 150 km bờ biển.
Đà nẵng - Quảng Nam có tổng diện tích tự nhiên là 12.291,4 km2 (chiếm khoảng 3,71% tổng diện tích tự nhiên của cả nước), bao gồm 21 đơn vị hành chính, trong đó:
- Thành phố Đà Nẵng với 5 quận: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu và 2 huyện: Hoà Vang, huyện đảo Hoàng Sa.
- Tỉnh Quảng Nam với Thị xã Tam kỳ (tỉnh lỵ), thị xã Hội An, các huyện: Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Thăng Bình, Quế Sơn, Tiên Phước, Phước Sơn, Núi Thành, Hiên, Giằng, Trà Mi.
* Tầm quan trọng của vị trí địa lý Đà nẵng - Quảng Nam đối với Miền Trung và cả nước:
Đà nẵng - Quảng Nam là đầu mối của các trục giao thông Đông - Tây với hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thuỷ, hàng không đồng bộ. Sân bay Đà Nẵng là sân bay quốc tế được trang bị hiện đại, cảng Tiên Sa là một cảng du lịch kết hợp với cảng Liên Chiểu, cảng Chu lai sẽ đặt Đà nẵng - Quảng Nam nằm trên tuyến đường hàng hải thuận lợi nối liền ấn Độ dương và Thái Bình Dương. Bên cạnh đó với triển vọng của đường bộ xuyên á nối Lào với đông Bắc Thái Lan, Đà Nẵng đã được coi là "cánh cổng thứ 3 vào Đông Dương".
Đà Nẵng - Quảng Nam là hành lang phát triển kinh tế, thương mại và chuỗi đô thị hạt nhân từ Liên Chiểu đến Dung Quất; là trung tâm giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ của miền Trung.
Đà Nẵng - Quảng Nam giữ vị trí chiến lược trong an ninh, quốc phòng. Trong chiến tranh, Đà Nẵng đã là nơi nổ súng và đổ bộ đầu tiên của Thực dân Pháp (năm 1858) và đến năm 1965, một lần nữa đế quốc Mỹ lại chọn Đà Nẵng để xây dựng căn cứ hỗn hợp quân sự lớn nhất ở miền Trung, từ đó làm bàn đạp để đánh vào Miền Nam Việt Nam.
Từ những lợi thế về vị trí địa lý, kinh tế, xã hội cùng với sự phong phú của tài nguyên du lịch, đặc biệt là hai di sản văn hoá thế giới Đô thị cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn lại liền kề với trung tâm du lịch Huế đã đem lại cho Đà Nẵng - Quảng Nam vị trí đầu mối, trung tâm quan trọng về hoạt động du lịch. Đà Nẵng - Quảng Nam trở thành nơi trung chuyển khách, nơi hội tụ du khách các nơi về dự hội thảo, hội nghị, nghiên cứu... và là trục giao lưu chính trong các tuyến du lịch miền Trung.
1.2. Tài nguyên du lịch
1.2.1. Tài Nguyên du lịch tự nhiên
1.2.1.1. Địa hình.
* Đặc điểm chung địa hình Đà Nẵng - Quảng Nam.
Địa hình Đà Nẵng - Quảng Nam khá đa dạng, bao gồm: đồng bằng, đồi núi, bờ bãi biển và hải đảo góp phần tạo nên sự phong phú về loại hình du lịch.
Nằm trong khu vực có sự chuyển tiếp giữa đồng bằng ven biển và miền núi khá đột ngột, dãy Trường Sơn chạy song song rất gần với biển, nên địa hình của Đà Nẵng - Quảng Nam có sự kết hợp độc đáo giữa các dạng địa hình. Núi, biển, đồng bằng không những làm cho cảnh quan thiên nhiên thêm phần hùng tráng mà Sự kết hợp độc đáo này còn là điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức liên kết theo không gian các loại hình du lịch.
Nhìn chung, có thể chia lãnh thổ Đà Nẵng - Quảng Nam thành 2 khu vực như sau:
+ Đồng bằng ven biển _ chiếm 25% diện tích tự nhiên.
+ Đồi, núi (phía Tây, Tây Bắc và phía Nam) _ chiếm 75%.
Phía Bắc thành phố Đà Nẵng là dãy núi Hải Vân làm thành danh giới khí hậu, như bức tường thành thiên nhiên quan trọng ngăn những đợt gió mạnh từ phương Bắc tràn về. Vì vậy, từ Đà Nẵng - Quảng Nam trở vào thời tiết hầu như ấm áp quanh năm.
* Các dạng địa hình có giá trị đối với du lịch.
Điạ hình đồng bằng
Vùng đồng bằng ven biển và triền sông của Đà Nẵng - Quảng Nam là dạng địa hình tương đối bằng phẳng, địa hình ít biến đổi tập trung ở phía đông của 2 tỉnh, thành phố. Do đặc điểm đồi núi ăn sát biển nên đồng bằng bị chia cắt và nhỏ hẹp. Đây là vùng nông nghiệp, làng nghề thích hợp cho các loại hình du lịch làng quê,...
Địa hình đồi núi
Vùng núi Đà Nẵng - Quảng Nam được nâng lên mạnh vào tân kiến tạo, chạy theo hướng Tây Đông. Cấu trúc tương đối phức tạp (phần lớn là đá Granit, đá biến chất, và một số đơn thể đá hoa cương ở Ngũ Hành Sơn _ Đà Nẵng). Địa hình đồi núi đã đem lại cho Đà Nẵng - Quảng Nam nhiều thắng cảnh đẹp, rất có giá trị. Đèo Hải Vân cao 500m nằm trải dài theo sườn núi Hải Vân (dài khoảng 20km) được tạo thành do các nhánh núi đâm ngang có cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ đã được mệnh danh:" Thiên hạ đệ nhất hùng quan". Bà Nà là một vùng núi non trùng điệp ở phía Tây thành phố Đà Nẵng dựa lưng vào dãy Trường Sơn, trên đỉnh có địa hình bằng phẳng như một vùng cao nguyên nhỏ. Đứng trên đỉnh Bà Nà, du khách có thể ngắm được cảnh núi sông như đang bồng bềnh giữa đám mây trôi, bởi mây chỉ ở lưng chừng núi mà trên đỉnh cao trời luôn quang rạng. Ngũ Hành Sơn lại nằm ngay trong lòng đồng bằng Quảng Nam Đà Nẵng với 5 ngọn núi đá hoa cương mang tên Kim, Thuỷ, Thổ, Hoả, Mộc có truyền thuyết rất thú vị về sự hình thành. Núi Sơn Trà có cảnh trí đẹp nhô ra biển, cùng với Ngũ Hành Sơn tạo nên sự tương phản sâu sắc với đồng bằng.
K
Khu vực đồi núi cao của Đà Nẵng - Quảng Nam nhìn chung còn hoang dã, nhưng với cảnh quan thiên nhiên miền núi như vậy Đà Nẵng - Quảng Nam rất có triển vọng phát triển loại hình du lịch núi với các hoạt động tham quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, du lịch thể thao leo núi, du lịch mạo hiểm. Tuy nhiên cũng cần phải quy hoạch hợp lí để đảm bảo tính bền vững.
Địa hình bờ bãi biển:
Khu vực bờ bãi biển của Đà Nẵng - Quảng Nam dài hơn 150km (trong đó ở địa phận của tỉnh Quảng Nam là 125km). Dưới tác động của nội lực, quá trình san bằng đã làm cho các bãi cát nối liền lại với nhau tạo cho vùng nhiều bãi tắm đẹp liên tục kéo dài: Nam Ô - Xuân Thiều, Mỹ Khê, Mỹ An, Non Nước, Cửa Đại. Ngoài ra Quảng Nam còn có các bãi biển như Tam Thanh, Bãi Rạng, Kỳ Hà rất có giá trị.
Phần lớn các bãi biển đều thoải, bằng phẳng có độ dốc trung bình 2º ữ 3º, cát trắng, khá mịn, có đường kính 0,119 mm ữ 0,281 mm, tỉ lệ nhiễm bẩn xạ nhỏ:1- 4%. Địa hình đáy ven bờ ít phức tạp, độ dốc nhỏ (1%), đáy nhiều cát trắng và xám, nhất là từ Sơn Trà đến Cửa Đại. Bờ bãi biển Đà Nẵng - Quảng Nam cùng với bờ bãi biển của Thừa Thiên Huế đã được đánh giá là 1 trong 5 khu vực có tiềm năng du lịch biển lớn của nước ta.
Địa hình bờ bãi biển với nhiều bãi tắm đẹp, tạo thuận lợi cho Đà Nẵng - Quảng Nam trong phát triển các loại hình du lịch biển, nghỉ ngơi, an dưỡng, lặn biển...
* Cù Lao Chàm nằm cách Cửa Đại gần 18 km về phía Đông- Đông bắc gồm 1 nhóm đảo nhỏ nối sát nhau. Trung tâm nhóm đảo là hòn đảo lớn nhất gọi là Cù Lao Chàm, trên đảo có núi cao tới 518 m gồm 3 ngọn: Ngọc Long, Tiên Bút và Bất Lao. Đứng trên cù lao Chàm nhìn lên phía bắc cách 4km là hòn La, nhìn sang phía Tây bắc 6 km là một nhóm đảo gồm Hòn Khô Lớn, Hòn Khô Nhỏ, Hòn Dài, Hòn Mận. Còn ngay phía Tây chỉ cách 1 km là Hòn Lôi; và phía nam cách không đầy 3 km là Hòn én với 1 đặc sản quý tổ yến. Cù lao chàm với phong cảnh đẹp, động thực vật đặc trưng có thể làm hài lòng Du khách tới thăm.
Tại đây có thể phát triển các loại hình du lịch như tham quan, nghỉ ngơi, giải trí, tắm biển, lặn biển, du thuyền...
1.2.1.2. Khí hậu
Khí hậu Đà Nẵng - Quảng Nam mang tính chất nhiệt đới gió mùa và là nơi đánh dấu sự chuyển tiếp giữa hai vùng khí hậu khác biệt: miền Bắc và miền Nam Việt Nam.
Khí hậu phân hoá theo không gian và thời gian tạo nên 2 dạng khí hậu rõ rệt, khí hậu nhiệt đới ven biển (ở các vùng đồng bằng ven biển) và một ít khí hậu ôn đới vùng cao (khu vực Bà Nà_ Đà Nẵng và vùng núi phía Tây Quảng Nam). Mùa hạ của Đà Nẵng - Quảng Nam kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9 với đặc trưng thời tiết hầu như khô ráo, nóng, cuối mùa thường có bão. Mùa đông kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. Trong mùa đông có thể phân thành thời kỳ chính đông, thời kỳ chuyển tiếp từ hạ sang đông và thời kỳ chuyển tiếp từ đông sang hạ.
Chế độ nhiệt
Chế độ nhiệt của Đà Nẵng - Quảng Nam là sản phẩm quan trọng của loại hình nhiệt đới gió mùa của một lãnh thổ nằm khá sâu trong khu vực nội chí tuyến trên bờ biển Đông. Đó là một nền nhiệt độ cao bắt nguồn từ sự tiếp nhận một lượng bức xạ mặt trời phong phú, khá đồng đều quanh năm. Tổng nhiệt trung bình quanh năm >9300°C, vượt xa tiêu chuẩn nhiệt đới (7500-9500°C). Tổng lượng bức xạ trung bình đạt 234 Kcal/cm2/năm, cán cân bức xạ trong các tháng đều có trị số dương, hằng năm tổng số giờ nắng đo được tại Đà Nẵng là 2161 và 2381 tại Quảng Nam. Thời kỳ nhiều nắng nhất thường từ tháng 5 -7, trung bình khoảng 244h (Đà Nẵng) và khoảng 252h (Quảng Nam); tháng ít nắng nhất là tháng 12, khoảng >100h. Trong đó lượng mây tổng quan (theo 10 phần bầu trời) cũng khá lớn (Đà Nẵng: 5,4/năm, Tam Kỳ: 6,5/năm).
Với tổng lượng bức xạ, cán cân bức xạ và số giờ nắng như trên nên đã tạo ra một nền nhiệt độ cao dần từ bắc xuống Nam. Tại Đà Nẵng - Quảng Nam nhiệt độ trung bình năm đạt từ 25ữ26°C, tháng lạnh nhất (tháng 1): 21ữ22°C, tháng nóng nhất (Tháng 6-7): 28 ữ30°C. Biên độ dao động nhiệt cũng khá cao, có thể đạt tới 7 ữ 9°C trong mùa hè và khoảng 4 ữ 6°C vào mùa đông.
Bảng: Nhiệt độ không khí trung bình tháng và Năm (C)
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
TB năm
Đà Nẵng
21
22
24
26
28
29
29
29
27
26
24
21
23,5
Tam Kỳ
21
23
25
27
28
29
29
29
27
26
24
21
25,6
Nguồn: Trạm dự báo và phục vụ KTTV ĐN, QN.
Chế độ ẩm
Bảng: Độ ẩm tương đối (%) trung bình tháng và năm.
Địa
điểm
Tháng
Năm
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
Đà Nẵng
86
86
86
84
82
77
76
78
84
85
86
86
83
Tam Kỳ
86
86
83
81
77
79
75
76
82
86
88
87
82
Nguồn: Trạm dự báo và phục vụ KTTV ĐN, QN.
Độ ẩm không khí tại Đà Nẵng - Quảng Nam khá cao. Trung bình trong năm trên toàn lãnh thổ hai tỉnh, thành phố độ ẩm đạt từ 82 % - 83 %. Ngay cả trong mùa hè độ ẩm trung bình tháng cũng đạt không dưới 76 %. Thời kỳ có độ ẩm thấp kéo dài từ tháng 6- tháng 8 với trị số trung bình là 76-78. Từ tháng 9 đến tháng 12, thời kỳ mưa nhiều, là thời kỳ ẩm ướt nhất trong năm, độ ẩm tăng từ 84-88.
Lượng mưa.
Điều kiện địa lý, địa hình và cơ chế hoàn lưu đã chi phối toàn bộ cơ chế hình thành và phân bố lượng mưa của Đà Nẵng - Quảng Nam. Tổng lượng mưa trung bình hằng năm > 2000 mm ở những vùng đồng bằng và có thể lên tới > 4000 mm ở những vùng núi. Tổng lượng mưa tăng dần về phía Bắc Đà Nẵng, phía Tây Nam và tăng theo độ cao. Vùng Bà Nà (Đà Nẵng) và Bạch Mã (Thừa Thiên Huế) là một trung tâm mưa lớn của khu vực và của cả nước (Trung bình năm trên 5000 mm).
Bảng: Lượng mưa trung bình tháng và năm (mm)
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
TB năm
Đà Nẵng
92
33
23
27
61
87
85
103
350
613
366
199
2044,5
Tam Kỳ
73
25
8
40
95
182
68
114
264
693
659
312
2531,5
Nguồn: Trạm dự báo và phục vụ KTTV ĐN, QN.
Đà Nẵng - Quảng Nam không những có lượng mưa lớn mà cường độ mưa cũng rất lớn. Số ngày mưa trung bình năm là 149 ngày. Thường những tháng có lượng mưa nhiều là những tháng có số ngày mưa nhiều. Cường độ mưa tập chung vào những tháng đầu mùa mưa như tháng 9, tháng 10. Những ngày mưa lớn, tổng lượng mưa lên tới 500-600 mm, dễ gây ra lũ lụt.
Chế độ gió
Gió là một yếu tố thời tiết không những bị cơ chế hoàn lưu chi phối, mà còn chịu tác động mạnh của điều kiện địa hình. Hướng gió tại Đà Nẵng - Quảng Nam tương đối phân tán, tần suất các hướng thay đổi theo thời gian.
Gió mùa là một trong những đặc trưng cơ bản của khí hậu Đà Nẵng - Quảng Nam. Tuy có gió mùa tây nam thổi vào mùa hạ nhưng rất ít. ở những nơi có độ cao trên 500 m hầu như không chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây nam. Gió mùa đông bắc thổi nhiều vào mùa đông, sức gió trung bình hằng tháng từ 1,5-2,3m/s. Vào thòi kỳ chuyển tiếp giữa hai mùa thường có gió Đông và Đông Nam đem lại thời tiết ấm, khô ráo cho mùa đông và mát mẻ cho mùa hè.
Mùa mưa ở miền Trung nói chung và Đà Nẵng - Quảng Nam nói riêng thường hay có bão và gió lớn (thường tập chung vào khoảng thời gian từ tháng 10-12, vận tốc gió có thể lên tới 50 m/s. Trong đó tháng 10 hằng năm hầu như đều có gió lớn với vận tốc > 10 m/s và tháng 5 là có ít gió mạnh.
Khí hậu đối với việc hình thành các mùa du lịch với các loại hình du lịch
Với đặc điểm khí hậu như trên, Đà Nẵng - Quảng Nam có khả năng phát triển tốt các loại hình du lịch biển do nền nhiệt độ cao, số giờ nắng trong ngày nhiều, tập trung vào các tháng mùa hạ. Tổ chức được loại du lịch núi vì có khí hậu ôn đới ở khu vực núi cao. Tuy nhiên vào những thời điểm xảy ra các hiện tượng thời tiết bất thường như lũ lụt, mưa to, bão có thể gây ách tắc giao thông, hạn chế các hoạt động tham quan ngoài trời và gây khó chịu cho du khách.
Diễn biến về điều kiện khí hậu có thể cho thấy ngoài các tháng có lượng mưa và gió lớn (tháng 9,10,11) thì khoảng thời gian còn lại đều được xem là mùa thích hợp cho các loại du lịch hiện có. Đối với loại du lịch nghỉ biển thì mùa du lịch chính vẫn là từ tháng 4 đến tháng 7 (thòi gian này độ sâu của biển, gió, nhiệt độ của nước... đều thích hợp).
Thực tế diễn biến số lượng khách du lịch đến Đà Nẵng - Quảng Nam qua các tháng trong năm cho thấy phần nào phù hợp với phân tích trên đây. Tuy nhiên, cường độ thấp nhất vẫn là khoảng tháng 1,2,9,10; cao nhất vào tháng3,4,7,8. Tháng 5 thuộc mùa du lịch chính nhưng nhu cầu du lịch lại giảm. Như vậy khí hậu chỉ là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến thời vụ du lịch. Nhất là đối với vùng có điều kiện khí hậu hầu như phù hợp với các thể loại du lịch phát triển quanh năm thì các mùa du lịch chính chủ yếu vẫn do sự tập chung nhu cầu của khách quyết định.
Bảng: Tổng hợp mức độ thuận lợi của khí hậu trong năm đối với hoạt động du lịch Đà Nẵng - Quảng Nam.
Tháng
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII
Mức độ
thuận lợi
Thuận lợi ít thuận lợi
1.2.1.3. Nguồn nước.
* Nước mặt
Mạng lưới sông ngòi
Mạng lưới sông ngòi của Đà Nẵng - Quảng Nam đều bắt nguồn từ phía Tây và Tây Bắc, Tây Nam của tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Sông ngòi đều mang đặc điểm chung của sông ngòi Việt Nam đó là đặc điểm của sông ngòi một miền núi dốc, phản ánh cấu trúc của địa hình; lưu lượng nước lớn, nhiều phù sa; thuỷ chế theo sát nhịp điệu mùa khô và mưa của khí hậu. Trên địa bàn Đà Nẵng - Quảng Nam có các hệ thống sông chính như sau:
Sông Hàn là hạ lưu của sông Vu Gia. Sông Vu Gia gồm nhiều sông nhánh hợp thành, trong đó có 3 nhánh chính là sông Cái, sông Bung và sông Con (đều nằm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam). Chiều dài của sông tính từ thượng nguồn sông cái đến Đà Nẵng là 204 km. Tổng diện tích lưu vực tính đến Giao Thuỷ (Quảng Nam) là 5180 km2. Sông Vu Gia chảy đến ái Nghĩa phân làm 2 nhánh, một nhánh đưa nước sông Vu GIa qua sông Quảng Huế đổ về sông Thu Bồn, nhánh thứ 2 chảy về đồng bằng và tiếp tục chia thành nhiều nhánh nhỏ rồi tiếp tục đổ về sông Hàn, chảy ra vịnh Đà Nẵng.
Sông Cu Đê (dài 38 km, tổng diện tích lưu vực là 426 km2) nằm phía Bắc thành phố Đà Nẵng, là hợp lưu của 2 sông Bắc (dài 23 km) và sông Nam (dài 47 km). Hạ lưu sông Cu Đê thường xuyên bị nhiễm mặn, trong mùa khô gần 1/ 2 chiều dài sông bị nhiễm mặn.
Hệ thống sông Thu Bồn (diện tích lưu vực10350 km2) và chiều dài dòng chảy là 205 km). Hệ thống sông có tới 80 phụ lưu thuộc 4 cấp, trong đó có những sông lớn như sông Cái, sông Bung. Sông Thu bồn là sông đẹp nhất của Đà Nẵng - Quảng Nam, chứa đựng nhiều thắng cảnh. Bắt nguồn từ đỉnh Ngọc Lĩnh cao 2598m, chảy qua các vùng ghềnh đá cheo leo trên vùng núi phía Tây nam, hoà cùng sông Tiên, sông Tranh tại vùng Quế Tân, tăng thêm lưu lượng rồi chảy qua lớp sơn thạch ở Hòn Kẽm Đá Dừng, đưa phù sa bồi đắp cho các vùng Quế Sơn, Đại Lộc, Duy Xuyên, đặc biệt là vùng Điện Bàn. Tại đây phân thành 2 hướng: Nhánh chính ở hướng Bắc với tên Thu Bồn, nhánh nhỏ hơn ở hướng Nam là sông Bà Rén. Gần đến biển, 2 nhánh sông này lại gặp nhau để hoà với dòng Trường Giang, Qua phố cổ Hội An, đổ ra Cửa Đại. Từ sông Hàn (Đà Nẵng) có thể đến sông Thu Bồn bằng cách ngược dòng Cẩm lệ để qua sông đào Vĩnh Điện.
Ngoài ra còn có các hệ thống sông Tam kỳ, sông Trường Giang...
Bảng: Độ dài sông ngòi Đà Nẵng - Quảng Nam có thể phục vụ du lịch (đv: km)
Tên sông
Độ dài dòng chính
Độ dài có thể khai thác
- Sông Hàn
- Thu Bồn
- Vu Gia
- Trường Giang
- Vĩnh Điện
- Cẩm lệ
- Bà Rén
- Tam kỳ
- Trường Định
- Các sông
còn lại
32
97
85
66
32
30
32
17
30
122
32
41
23
66
32
20
32
7
20
11
Tổng số
543
284
Nguồn Sở Du lịch Đà Nẵng- Sở TM-DL Quảng Nam
Có thể thấy mạng lưới sông ngòi của Đà Nẵng - Quảng Nam phân bố khá đều, chủ yếu chảy theo hướng Tây, Tây nam đến Bắc, Đông Bắc. Bắt nguồn từ các dãy núi phía Tây, phần trung và hạ nguồn của các sông thường chảy quanh co qua các vùng có cảnh quan đẹp, các làng quê, thành phố, thị xã trước khi đổ ra biển. Đây là điều kiện thuận lợi để tổ chức các tuyến du lịch trên sông.
Hiện nay nguồn nước mặt đang có xu hướng ô nhiễm. Kết quả phân tích mẫu nước tại cửa sông Hàn cho thấy các chỉ tiêu lý hoá đều vượt mức tiêu chuẩn cho phép nhiều lần.
Nguồn nước mặt của Đà Nẵng và Quảng Nam không chỉ có trong các sông mà còn có các hồ chứa nước như: Hồ Đồng Nghệ (Hoà Vang), Hồ Thuỷ điện Duy Sơn rộng 200 ha (Duy Xuyên), Hồ Giang Thơm (Núi Thành), Hồ Phú Ninh (Tam Kỳ_ hồ chứa nước lớn nhất có diện tích 2300 ha, với dung tích chứa nước là 273 triệu m3), Hồ thuỷ lợi Tân Khe (Đại Lộc) rộng 340 ha, dung lượng nước bình quân 54 triệu m3; Hồ thuỷ lợi Việt An (Hiệp Đức)...
Các hồ này ngoài giá trị phục vụ cho sinh hoạt của nhân dân địa phương thì còn có giá trị phục vụ du lịch bởi cảnh quan núi đồi rất đẹp, khí hậu mát mẻ cùng với hệ động thực vật phong phú, thích hợp cho loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, đặc biệt là Hồ Phú Ninh.
Ngoài ra, Đà Nẵng và Quảng Nam còn có hệ thống suối, thác nước đẹp cũng rất có giá trị đối với hoạt động du lịch như Suối Tiên, Đèo Le-Suối Nước Mát (Quế Sơn), suối Mơ, Khe Lim (Đại Lộc),Thác Grăng (Giằng), Khe Cái (Hiệp Đức), Suối Nước Lan (Phước Sơn)...
* Nước ngầm
Theo kết quả thăm dò của Liên đoàn địa chất thuỷ văn 708 và Đoàn địa chất thuỷ văn miền Nam 500N, nguồn nước ngầm có điều kiện khai thác thuận lợi của Đà Nẵng và Quảng Nam được phân bố như sau:
Khu vực ven biển từ Đà Nẵng đến Hội An có tầng nước chứa Holoxen khá phong phú, cách mặt đất từ 10-34m. Đây là loại nước ngầm nhạt có hàm lượng Clor nhỏ (23,05ữ35,46g/l) nhưng độ khoáng hoá cao (0,72ữ0,9g/l).
Khu vực từ Ngũ Hành Sơn đến Hoà Khương có tầng chứa nước khe nứt và nước Karst. ở Văn Xá và Ngũ Hành Sơn nguồn nước này có hàm lượng Clor và độ khoáng hoá thấp, nước nhạt, trong suốt, không mùi, có độ dày chứa nước lớn. Với nguồn nước ngầm như trên có khả năng bổ xung cho nguồn nước mặt ngày càng có xu hướng bị ô nhiễm.
Khu vực phía Tây Bắc và Đà Nẵng và Tây Nam Tam kỳ một số mạch nước khoáng nóng có giá trị như: nguồn nước khoáng Phước Nhơn (Hoà Vang - Đà Nẵng) gần hồ Đồng Nghệ có nhiệt độ 43°C; nguồn n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100060.doc