Đề tài Đình nguyên Vương Hữu Phu với bài đình đối

Vương Hữu Phu cũng có những nhận xét, đánh giá sựkiện lịch sử, nhân vật lịch

sửmột cách thẳng thắn và xác đáng. Bài văn thẳng thắn vạchrõ nguyên nhân chủ

quan của việc mất mùa đói kém: “Nay chếsách lấy việc trong dân gian còn cảnh

ăn xin, ởchốn đầm lớn, rừng sâu còn nghe tiếng trộm cướp ra đểhỏi, thần xin

được giãi bày. Có người nói đấy là do thiên tai thường xuyên xẩy ra, thần cho là

không phải thế! Theo thần thì mối lợi nông nghiệp nước ta chẳng những chưa

được mở rộng mà phân bón còn chưa được tân chế, nghề trồng trọt chưa có

phương pháp tốt. ( ) Thần trộm nghĩ, làm cho dân được lợi không gì quan trọng

hơn nghềnông; mởmang dân tríkhông gì lớn hơn việc giáo hoá. Lại không thể

nói công thương không đủđểhưng lợi và mởmang trí tuệ! Thần trộm cho rằng

“công” tất phải học máy móc, việc chếtạo do đó mới có thểphát triển, “thương”

thì hàng hoá xuất nhập khẩu phải được thông suốt, có thếviệc buôn bán mới được

mở mang. Thần trộm thấy về công nghệ nước ta, thì nghề thủ công chưa được

khéo léo, việc buôn bán thì hàng hoá xuất ra nước ngoài bị cấm, cả công và

thương đều chưa thểmưu cầu lợi ích một cách nhanh chóng. Vậy, triều đình phải

dần dần hướng dẫn, lợi dụng cơ hội đểmởrộng ra, ngõ hầu làm cho dân chúng

không chịu ởyên trong cảnh tạm bợ, được chăng hay chớ; tạo thói quen không

chịu bó mình trong cảnh an nhàn, khiến cho công thương có cơ hưng thịnh vậy!”.

Bài văn lưu ý việc xây dựng nông trường và cơ giới hoá nông nghiệp: “Thần

mong ở các địa phương, mỗi nơi xây dựng một nông trường, chọn một khoảnh

ruộng hoang, tuyển người siêng năng, giỏi giang quản lý công việc, cho họđưa

lưu dân vềcày ruộng khẩn hoang, cung cấp nông cụ, giúp đỡvốn liếng, đem sách

kỹthuật nông nghiệp dạy cho họ, tham khảo thêm cách cày tuyết của phương Tây,

khuyến khích việc dùng cày máy và các hoạt động khác, xác định chương trình

học nhằm mang lại hiệu quả. Ruộng nhà nước như thế, ruộng của dân sẽ bắt

chước làm theo, ruộng đất may ra có thểngày được khai khẩn thêm”

pdf9 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1221 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đề tài Đình nguyên Vương Hữu Phu với bài đình đối, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đình nguyên Vương Hữu Phu với bài đình đối Đình nguyên Vương Hữu Phu (1880-1941), còn có tên là Vương Đình Thụy, huý Vi Tử, sinh ngày mồng 5 tháng chạp năm Canh Thìn (1880) tại thôn Long Vân, xã Vân Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình có nhiều người đỗ đạt. Thân phụ là cụ Vương Danh Thân, cử nhân khoa Giáp Tý (1864), làm quan đến chức Giám sát ngự sử. Anh ruột là cụ Vương Đình Trân (sau đổi là Vương Đình Trác), đỗ Phó bảng khoa Ất Mùi (1895), làm quan đến chức Tri phủ. Thuở vị thành niên, ông khác người vì tính khí ngang tàng, bị cha kèm cặp bắt học hành ráo riết, về sau, cha gửi cho theo học với cụ đầu xứ nổi tiếng thời ấy là Đinh Văn Uyển ở huyện Nghi Lộc. 1. Vài nét về thân thế và con người Vương Hữu Phu Đình nguyên Vương Hữu Phu (1880-1941), còn có tên là Vương Đình Thụy, huý Vi Tử, sinh ngày mồng 5 tháng chạp năm Canh Thìn (1880) tại thôn Long Vân, xã Vân Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình có nhiều người đỗ đạt. Thân phụ là cụ Vương Danh Thân, cử nhân khoa Giáp Tý (1864), làm quan đến chức Giám sát ngự sử. Anh ruột là cụ Vương Đình Trân (sau đổi là Vương Đình Trác), đỗ Phó bảng khoa Ất Mùi (1895), làm quan đến chức Tri phủ. Thuở vị thành niên, ông khác người vì tính khí ngang tàng, bị cha kèm cặp bắt học hành ráo riết, về sau, cha gửi cho theo học với cụ đầu xứ nổi tiếng thời ấy là Đinh Văn Uyển ở huyện Nghi Lộc. Vương Hữu Phu là bạn tâm phúc với nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng sau này trong phong trào Đông du của Phan Bội Châu là Đặng Thái Thân (có biệt hiệu là Ngư Hải). Ông Vương Đình Quang, con trai thứ hai của cụ, người đã từng làm thư ký toà soạn cho báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng, có kể lại theo lời người anh họ Vương Đình Viên là cụ Phu đã trốn mẹ định xuất dương sang Nhật và để lại một bức thư, bà mẹ cho người đuổi theo bảo: “Hãy trở về chôn mẹ rồi hãy đi”. Vốn là người con chí hiếu, nên cụ đành trở về gặp mẹ, bà mẹ bảo: “Chữ hiếu chưa xong nói chi đến chữ trung!”. Ông thân sinh của Vương Hữu Phu chỉ đậu cử nhân nên lấy làm buồn là gia tộc mình chưa ai đỗ đại khoa và coi đó là điều bất hiếu, suốt đời không quên. Đến khi lâm chung vẫn ao ước điều này nên đã di chúc nói lên tâm sự của mình mong được con cháu nối chí. Cha mất sớm, nhưng nhờ bà mẹ rất nghiêm khắc, chăm lo rèn dạy, động viên nên cụ đã có ý chí thi đậu đại khoa để thoả lòng mong mỏi của cha mẹ. Cụ đậu Á khoa (thứ hai) thi Hương, Hội nguyên (đậu đầu thi Hội) và Đình nguyên (đầu kỳ thi Đình). Tuy đậu đạt cao nhưng cụ không muốn ra làm quan với một triều đình đã mất chủ quyền. Song chiều ý mẹ muốn con mình đã có khoa (thi đỗ) phải có hoạn (làm quan) nên buộc lòng cụ phải theo khoá học ở trường Hậu bổ (trường đào tạo quan trường) ở Huế. Ở trường này bọn Pháp buộc phải học tiếng Pháp, tiếng của nước thù địch, lại phải học dưới sự điều khiển của các giáo sư người Pháp. Đây là một sự nhẫn nhục lớn trong thời gian 3 năm đối với cụ. Nhà trường phát cho mỗi học viên một khối lượng sách lớn, nhưng cụ không mấy khi đụng đến các sách ấy. Tuy vậy, do rất thông minh nên cụ vẫn hiểu và sử dụng được tiếng Pháp. Một lần giáo sư Le Breton hỏi một câu tiếng Pháp: “Aimez vous le Francaise?” (Anh có yêu nước Pháp không?) Cụ cũng đáp lại bằng tiếng Pháp: “J, aime bien mon Patrie!” (Tôi chỉ yêu Tổ quốc tôi!). Cụ Phan Võ, quê xã Nhân Thành, Yên Thành (thân sinh giáo sư Phan Ngọc) đỗ Phó bảng cùng khoa với cụ, nghe vậy rất lấy làm thích thú. Cụ Phan Võ từng khen: ông Vương Hữu Phu rất thông minh, không học mà bằng mấy người chăm học, chỉ liếc qua bài vở là thuộc hết. Câu trả lời của cụ không làm hài lòng người Pháp. Vì thế, ra trường cụ bị đẩy vào làm tri huyện Tân Định, một huyện miền núi thuộc tỉnh Khánh Hoà, rừng thiêng nước độc, ai bị đẩy đi làm quan ở đây coi như đi đày biệt xứ. Làm quan bất đắc dĩ nên mỗi ngày cụ chỉ làm một buổi, buổi còn lại đi săn bắn. Giữa lúc đó, cụ bị bệnh đau chân, phải nằm bệnh viện suốt một năm, cuối cùng phải cắt đi 3 ngón chân mới khỏi. Sau đó, cụ được triệu về Huế, lần lượt sung vào Quốc sử quán và Tàng cổ viện với hàm Thị độc học sĩ. Do đó, dân địa phương thường gọi là cụ Thị (theo phẩm hàm) hoặc cụ Đình (theo đỗ đạt). Đến đây mùi làm quan đã trải, ở lại nhục hơn vinh nên cụ viết đơn từ chức. Bấy giờ cụ mới 40 tuổi. Về nhà, cụ lập chí học Đông y, vốn thông minh lại có quyết tâm cao, dày công nghiên cứu nên chẳng bao lâu cụ đã trở thành một lương y nổi tiếng ở quê. Cụ lại có lòng nhân từ, sẵn sàng giúp đỡ vô tư cho bệnh nhân nghèo nên nhiều người biết ơn và ca ngợi. Vốn ghét Pháp, cụ không muốn cho con học theo khoa cử, nên các con chỉ được cụ cho phép học hết bậc tiểu học để biết chữ quốc ngữ, nhưng sau đó các con cụ đều bằng con đường tự học mà vươn lên. Người con cả trở thành một công chức về giao thông công chánh, sau một thời gian công tác, được thưởng hàm hàn lâm. Trong khi nhiều gia đình có người được hàm ấy thì mổ bò, giết lợn ăn mừng, riêng nhà cụ thì không. Những người quen biết đến chúc mừng “quan hàn” thì cụ bảo: “Ở nhà đói, hắn đi làm kiếm ăn, hàn với hơ chi! Xin bà con cứ kêu hắn là Cả Tiếu như trước”. Vì thế, ông vẫn được gọi là Cả Tiếu đến mãi về sau. Còn 2 người con trai sinh sau (ông Dung và ông Giản), cụ dạy cho học chữ Hán và nghề thuốc nên đều trở thành những thầy thuốc Đông y giỏi, ông Dung mất sớm, ông Giản làm thầy thuốc Đông y ở bệnh viện Diễn Châu trong kháng chiến chống Mỹ, sau hoà bình về công tác ở bệnh viện Nam Đàn cho đến khi nghỉ hưu, hiện nay đã hơn 90 tuổi. Sinh thời vì chữ hiếu, cụ không tham gia hoạt động cách mạng được, sau khi mẹ mất đúng vào lúc cụ Phan Bội Châu bị giặc bắt và đem về giam lỏng ở Huế, cụ sinh chán nản, sức khoẻ lại kém nên cụ đã ngỏ ý cho 2 con là ông Tiếu (con cả) và ông Quang (con thứ) theo ông Đặng Thái Thuyến (là con chí sĩ Đặng Thái Thân) đi ra nước ngoài hoạt động cách mạng, tuy nhiên sau đó ông Thuyến bị Pháp bắt, chưa kịp đưa hai ông đi theo. Ở Nam Đàn còn có nhiều giai thoại về cụ như ăn mặc không chuộng hình thức, có khi quá xuềnh xoàng dễ dãi. Hồi cụ đang làm tri huyện Tân Định, lúc đó ông Quang còn nhỏ, một hôm được mẹ mặc cho bộ đồ mới, hý hửng chạy ra công đường, bị cụ trừng mắt bảo đem đốt đi, bắt phải thay bộ đồ cũ và sau đó trách cụ bà làm hư con. Sau này ông Quang mới hiểu tâm sự của cha là bản thân người làm quan nô lệ đã cảm thấy nhục nhã thì cậu ấm con quan còn nước gì mà hãnh diện! Cố Chắt Đoàn ở Nam Giang, hồi Pháp thuộc làm nghề kéo xe có kể chuyện lại: “Tính cụ ăn mặc xuềnh xoàng không có chi là trau tria. Đi ngoài đường đố ai biết là ông quan Đình nguyên. Hồi cụ thi đỗ, dân huyện cờ trống rước từ tỉnh về linh đình lắm nhưng khi qua Hữu Biệt (tên cũ của Nam Giang), dân làng mời cụ vào đình nghỉ, vì trong đình có bày biện tiếp đón, nhưng cụ từ chối, chỉ nghỉ tạm ngoài nhà hàng. Khi ra đi cụ bảo cuốn cờ đi cho mau. Một lần cụ thuê xe tôi từ Vinh về Sa Nam. Qua Cổng Chốt, có một người ăn mặc rách rưới, chân băng bó, đi nhắc, nói với tôi xin đi kèm. Vì kính trọng cụ Đình, tôi nói: “Chân anh hôi thối như thế không thể ngồi chung với cụ lớn”. Nhưng cụ nói: “Người ta đau cứ cho người ta đi, vả lại ông cũng được thêm tiền”. Tôi đòi anh ta phải trả 5 hào. Anh im lặng, lưỡng lự. Cụ nói: “Người ta nghèo khổ lấy 3 hào thôi”. Tôi để anh ngồi chung với cụ. Đi đến chùa Sày(1), anh ta xuống chỉ trả 1 hào và bảo: “Xin ông, tôi đi nhà thương(2) về hết cả tiền”. Tôi sừng sộ chửi mắng thậm tệ thì cụ bảo: “Được rồi, thiếu 2 hào của ông, tôi trả cho”. Về đến Sa Nam cụ trả thêm 2 hào nhưng tôi không nhận”. Cố Xuân thời trước cũng làm nghề kéo xe thì kể lại: “Một lần cụ đi xe tôi từ Vinh về, đến cầu Mưỡu(3) trời đổ mưa, cụ phải nghỉ lại nhà hàng. Trời tạnh thì đã tối. Tôi kéo xe về đây (Nam Giang), mời cụ đến mấy nhà giàu, nhà quan trong xã để nghỉ đêm cho tiện. Tôi nghĩ nếu cụ đến các nhà đó họ sẽ cảm thấy vinh dự và đón tiếp long trọng. Nhưng cụ không đồng ý và đòi nghỉ lại nhà tôi, mà nhà tôi thì nhà tranh vách đất không có chỗ nằm cho ra trò. Cụ hỏi: “Có trứng gà không?” Tôi thưa: “Thịt cá thì không có nhưng trứng gà thì có”. Cụ bảo nấu cơm và hấp cho cụ quả trứng. Khi dọn cơm, tôi có vay hàng xóm đĩa thịt và tráng đĩa trứng. Nhưng cụ chỉ ăn cơm với quả trứng hấp bóc ra dầm nước mắm. Suốt đêm cụ ngủ trên chiếc chõng tre”. Cụ Vương Hữu Phu giáo dục con cái rất nghiêm. Do căm thù giặc Pháp, cụ không chỉ không hợp tác với bọn quan lại Pháp mà còn cực đoan đến mức không cho con cái được học tiếng Pháp và mặc đồ Tây. Ông Vương Đình Quang kể lại trong cuốn “Tiểu truyện Vương Hữu Phu”: “Mặc dù đã lớn, đi làm ăn xa, mỗi khi về thăm gia đình, chúng tôi không bao giờ quên mấy điều nghiêm cấm: Không được nói tiếng Pháp với nhau và với bạn bè; Không được mặc Âu phục, dù chỉ đội chiếc mũ như người Pháp thường dùng; Không được dùng các thứ hàng của Pháp như xà phòng thơm, nước hoa…”. Tuy vậy, các con cái cụ đều tự học thành tài, ngoài hai ông con cả và thứ hai, ông Vương Tử Huề (con trai thứ ba) tự học đỗ tú tài triết, sau Cách mạng tháng Tám giữ chức Chủ tịch lâm thời huyện Nam Đàn, trong kháng chiến chống Pháp làm hiệu trưởng trường tư thục Tân Dân ở Nam Đàn, một trường cấp 2 có nhiều giáo viên và học sinh sau này nổi tiếng như GSTS Nguyễn Văn Trương, GSVS Đinh Ngọc Lân, GSVS Đào Vọng Đức… 2. Bài văn Đình đối Khoa thi năm Canh Tuất (1910), có 4 tiến sĩ là Vương Hữu Phu, Nguyễn Sĩ Giác (Thanh Trì - Hà Đông, nay thuộc Hà Nội), Nguyễn Hàm (Triệu Phong - Quảng Trị), Bùi Hữu Tuỵ (Nam Đàn - Nghệ An), như vậy có 4 tiến sĩ thì riêng Nam Đàn đã có 2; Phó bảng có 19 người, trong đó có cụ Phan Võ, cụ Hoàng Tăng Bí (thân sinh GS Hoàng Minh Giám), riêng Nghệ An có 5 người. Khoa thi này vị vua trẻ yêu nước là Duy Tân chủ trì nhưng bên cạnh đã có sự hiện diện của người Pháp. Đề thi Đình đối vua ra gồm 229 chữ, được dịch như sau: “Thừa mệnh trời mở vận, Hoàng đế chế sách rằng: Trời sinh ra dân, ắt có người nổi trội hơn đồng loại để làm vua, làm thầy, với trách nhiệm nhận biết sớm các việc. Tuy nhiên, không phải một người tự mình có thể làm được điều đó, mà cần có nhiều người đồng thời sinh ra hoặc xen kẽ nhau xuất hiện, cùng nhau sửa sang, cùng nhau khám phá, rồi đạo lý mới sáng tỏ, giáo hoá mới hình thành, vua dựa vào đây để cai trị, thầy dựa vào đây để dạy dỗ. Sự hưng thịnh của các đời Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, Thương, Chu(4) đều xuất phát từ đó vậy. Từ khi nhà Chu dời đô về phía đông, 5 kẻ hùng bá lần lượt nổi lên. Bấy giờ, số tài giỏi có mười mấy người, nghĩa là về quy mô chỉ đủ dùng cho một nước, có phải do khí vận mà khiến ra như thế chăng? Hoặc có người nói, từ Tam đại(5) về sau, biết đạo làm vua đại khái có một vài người, còn biết đạo làm thầy thì tuyệt nhiên không có. Xem Hán Văn đế(6) là một bậc vua hiền, nhưng Giả Nghị(7) thì tài cán không được là bao; Đường Thái tông(8) là một vị vua sáng suốt, nhưng Ngụy Trưng(9) thì học vấn pha tạp, cố nhiên là chuyện không đáng bàn. Trường hợp khác Chu, Trình(10) vào các năm Hy Ninh, Nguyên Hựu(11); Chu Văn Công(12) vào các năm Càn, Thuần, Khánh Nguyên(13), cho đến Chân Văn Trung(14) vào năm Đoan Bình(15) nữa đều không thể giúp cho vua họ thực hiện hết trách nhiệm của vua, của thầy, như thế phải chăng là những người đó chưa làm tròn bổn phận của họ? Nước Việt ta từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê về đạo làm vua, làm thầy, ai được, ai chưa được? Làm người bề tôi, vũ công và văn học, ai giỏi và ai kém? Xét cho cùng cái đạo Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng còn mãi ở nước ta là do đâu? Các cường quốc Thái Tây chính trị và giáo dục ngày càng rõ ràng, các kết quả phú cường vốn có những nguyên nhân nếu tìm sẽ thấy đều được nói kỹ càng đầy đủ trong sách Chu lễ(16), vậy có thể quy về một mối được không? Trẫm còn thơ bé(16), kính vâng phó thác, bên ngoài thì có các quan đại thần bảo hộ, tình hữu nghị ngày một chân thành, bên trong có các quan Phụ chính đồng lòng giúp rập, tin rằng ta có thể trị vì đất nước như điều tổ tiên tôn kính của ta đang trông mong. Hiện thời trong dân gian chưa khỏi cảnh xin ăn, nơi đầm lớn, rừng sâu còn nghe tiếng trộm cướp, phải chăng đường lối giúp dân làm giàu và giáo hoá dân còn chưa thoả đáng? Quản Tử(17)nói:“Cơm áo đủ thì biết vinh nhục, kho lẫm đầy thì biết lễ tiết”. Nay muốn bọn gian quỷ không trỗi dậy, công thương được hưng khởi lên, vùng ven biển ven núi, ruộng nương được khai khẩn hết, mọi nhà đều hay, đều biết, việc giáo hoá có thể thi hành rộng rãi. Suy nghĩ cho sâu làm sao sửa trị được như thế? Kẻ sĩ quân tử rộng đường khai thác cổ kim, biết sâu nghĩa vụ, hãy trình bày hết ý mình, không phù phiếm, không giấu giếm, trẫm sẽ ban khen, tiếp thu mà thi hành vậy”. Bài văn của cụ Vương Hữu Phu có 3.475 chữ, lập luận chặt chẽ, phân tích đầy đủ và sắc sảo các vấn đề mà nhà vua hỏi tới, có các dẫn chứng phong phú, súc tích về những việc làm tốt và chưa tốt của người xưa, dẫn chứng đầy đủ theo sử cũ của Trung Quốc và của nước nhà, thể hiện kiến thức sâu rộng không những về Đông vốn đã thuộc làu trong kinh sử, còn tường tận về phương Tây. Đơn cử một số đoạn văn sau đây: “Nói về giáo dục, thì nước Đức có 21 trường đại học, nước Mỹ có 229 trường. (...) Thần lại trộm thấy ở nước ta lâu nay khoản lương cho thầy, dân tuỳ tình hình mà cấp, sử dụng người dạy học trò thì căn cứ vào đạo đức chứ chưa dựa vào chuyên môn mà chọn, nghĩa là vẫn như trước vậy! Bộ Học nên nắm việc khảo hạch cuối cùng để chọn bằng tốt nghiệp như kiểu học có chương trình của nước Anh gồm 16 môn thi, hay nước Đức gồm 18 khoá trình vốn có. (...) Nói về chính trị nước Anh chia thành 18 bộ có quan đại thần thống quản mọi việc. Về chính sách an dân thì không nước nào là không mở rộng. (…) Muốn mở rộng dân trí, thần mong Bệ hạ theo ý tưởng phấn đấu cho một nền giáo dục hoàn thiện mà thi hành. Đại thể là phải có sát hạch trong giảng dạy, phải biết cái hay, cái dở trong việc chọn thầy, có điều lệ nghiêm túc để khuyến khích hay trừng phạt họ, thì những người quản lý giáo dục cũng sẽ hết lòng với công việc của họ, đạo thầy đã được tôn trọng thì học trò cũng theo đó mà hăng hái lên”. Có điều đặc biệt đáng lưu ý là mặc dầu thời gian này, có bọn Pháp giám sát bên cạnh vua, như lời vua viết trong đề ra: “Bên ngoài thì có các quan đại thần bảo hộ, tình hữu nghị ngày một chân thành”, thế mà trong bài cụ Vương Hữu Phu không nói gì đến nước Pháp, chỉ nhắc đến Anh, Đức, Mỹ. Điều này có một ẩn ý, thể hiện tư tưởng thù địch nhất quán đối với kẻ thù dân tộc của tác giả. Vương Hữu Phu cũng có những nhận xét, đánh giá sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử một cách thẳng thắn và xác đáng. Bài văn thẳng thắn vạch rõ nguyên nhân chủ quan của việc mất mùa đói kém: “Nay chế sách lấy việc trong dân gian còn cảnh ăn xin, ở chốn đầm lớn, rừng sâu còn nghe tiếng trộm cướp ra để hỏi, thần xin được giãi bày. Có người nói đấy là do thiên tai thường xuyên xẩy ra, thần cho là không phải thế! Theo thần thì mối lợi nông nghiệp nước ta chẳng những chưa được mở rộng mà phân bón còn chưa được tân chế, nghề trồng trọt chưa có phương pháp tốt. (…) Thần trộm nghĩ, làm cho dân được lợi không gì quan trọng hơn nghề nông; mở mang dân trí không gì lớn hơn việc giáo hoá. Lại không thể nói công thương không đủ để hưng lợi và mở mang trí tuệ! Thần trộm cho rằng “công” tất phải học máy móc, việc chế tạo do đó mới có thể phát triển, “thương” thì hàng hoá xuất nhập khẩu phải được thông suốt, có thế việc buôn bán mới được mở mang. Thần trộm thấy về công nghệ nước ta, thì nghề thủ công chưa được khéo léo, việc buôn bán thì hàng hoá xuất ra nước ngoài bị cấm, cả công và thương đều chưa thể mưu cầu lợi ích một cách nhanh chóng. Vậy, triều đình phải dần dần hướng dẫn, lợi dụng cơ hội để mở rộng ra, ngõ hầu làm cho dân chúng không chịu ở yên trong cảnh tạm bợ, được chăng hay chớ; tạo thói quen không chịu bó mình trong cảnh an nhàn, khiến cho công thương có cơ hưng thịnh vậy!”. Bài văn lưu ý việc xây dựng nông trường và cơ giới hoá nông nghiệp: “Thần mong ở các địa phương, mỗi nơi xây dựng một nông trường, chọn một khoảnh ruộng hoang, tuyển người siêng năng, giỏi giang quản lý công việc, cho họ đưa lưu dân về cày ruộng khẩn hoang, cung cấp nông cụ, giúp đỡ vốn liếng, đem sách kỹ thuật nông nghiệp dạy cho họ, tham khảo thêm cách cày tuyết của phương Tây, khuyến khích việc dùng cày máy và các hoạt động khác, xác định chương trình học nhằm mang lại hiệu quả. Ruộng nhà nước như thế, ruộng của dân sẽ bắt chước làm theo, ruộng đất may ra có thể ngày được khai khẩn thêm” Với tri thức của một nhà nho sống dưới thời phong kiến đang bị bọn thực dân đô hộ mà trình bày được một bản văn sách như thế thật là đáng khâm phục! (Bài dịch đề thi vua ra và văn sách của cụ Đình do ông Vương Lộc, cháu họ cụ dựa theo văn bản mang ký hiệu A2249 lưu trữ tại Thư viện nghiên cứu Hán Nôm, ngoài bìa đề “Duy Tân Canh Tuất Khoa, Hội Đình văn tuyển” dịch ra. Bài dịch được GS Trần Nghĩa - nguyên Viện trưởng Viện Hán Nôm - kiểm tra, hiệu đính)./. Chú thích (1) Tên cũ thuộc làng Mậu Tài, Kim Liên. (2) Tên gọi bệnh viện ngày xưa. (3) Còn có tên là Cầu Đền, giáp giới hai huyện Nam Đàn - Hưng Nguyên. (4) Tên các triều đại cổ ở Trung Quốc được sử cũ ca ngợi. (5) Ba triều đại cổ ở Trung Quốc: Hạ, Thương, Chu. Ngày xưa nho sĩ đi thi thường ghi nhớ một cách máy móc: “Đường, Ngu, Tam đại thì khen/ Hán Đường trở xuống thì lèn cho đau”. (6) Ông vua thứ hai nhà Hán, được ca ngợi là vua hiền. (7) Học giả làm quan dưới thời Hán Văn đế. (8) Vua thứ hai nhà Đường, được ca ngợi là vua hiền. (9) Tể tướng nhà Đường dưới thời Thái tông. (10) Chu Đôn Di, Trình Hạo - hai nhà nho nổi tiếng thời Bắc Tống. (11) Niên hiệu hai vua Tống Thần tông và Triết tông. (12) Tức là Chu Hy - nhà hiền triết Trung Quốc thời Nam Tống. (13) Càn Đạo, Thuần Hy - 2 niên hiệu của Tống Hiếu tông và Khánh Nguyên của Tống Ninh tông. (14) Tức là Chân Đức Tú làm quan dưới triều Tống Lý tông. (15) Niên hiệu vua Tống Lý tông. (16) Sách ghi chép chế độ chính trị thời nhà Chu gồm 6 thiên. (17) Tức là Quản Trọng, một nhà chính trị nổi tiếng ở Trung Quốc thời Xuân Thu. (18) Vua Duy Tân lên ngôi năm 1907 khi mới 8 tuổi nên năm này (1910) mới 11 tuổi.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflich_su_vhoa_8__3115.pdf