Các định chế là những luật lệ của cuộc chơi trong xã hội, hay một cách chính
thức hơn, là những ràng buộc do con người tạo ra để hướng dẫn tương tác giữa người và
người. Kết quả là chúng tạo lập những động cơ khuyến khích trong việc trao đổi của
con người, dù là trong kinh tế, xã hội hay chính trị. Sự thay đổi định chế hình thành
con đường để xã hội tiến hóa qua thời gian và vì vậy là chìa khóa để hiểu sự thay đổi
trong lịch sử.
Định chế có ảnh hưởng đến thành tích hoạt động của các nền kinh tế là điều
không cần phải tranh luận. Thành tích hoạt động khác biệt của các nền kinh tế qua
thời gian chịu ảnh hưởng một cách cơ bảnbởi con đường tiến hóa của các định chế
cũng là điều không cần phải tranh luận. Thế mà chưa có lý thuyết kinh tế đương đại
hay môn lịch sử cận đại nào cho thấy nhiều dấu hiệu thừa nhận vai trò của định chế
trong thành tích hoạt động kinh tế bởi vì chưacó một phương pháp phân tích nào để kết
hợp phân tích định chế vào kinh tế học và lịch sử kinh tế. Mục tiêu của cuốn sách này
là cung cấp một phương pháp phân tích cơ bảnnhư thế. Những ý nghĩa của sự phân
tích đó cho thấy cần xem xét lại phần lớn việc lý thuyết hóa trong ngành khoa học xã
hội nói chung và đặc biệt là kinh tế học nói riêng, và cung cấp một nhận thức mới về
sự thay đổi lịch sử.
Trong nghiên cứu này, tôi sẽ khảo sát bảnchất của định chếvà tầm quan trọng
của các định chế đối với thành tích hoạt động kinh tế (hay xã hội) (phần I). Sau đó tôi
sẽ phát họa lý thuyết về sự thay đổi định chế, không chỉ để cung cấp một phương pháp
cho môn lịch sử ngành kinh tế (và những ngành khác), mà còn đểgiải thích ảnh hưởng
của quá khứ đối với hiện tại và tương lai như thế nào, cũng như cách mà sự thay đổi
dần dần từng bước về định chế ảnh hưởng lên tập hợp chọn lựatrong một thời điểm
nào đó, và bản chất của sự phụ thuộc vào con đường chọn lựa (Phần II). Mục tiêu chủ
yếu của nghiên cứu này là để hiểu biết về thành tích hoạt động khác biệt của các nền
kinh tế qua thời gian (Phần III).
I
8 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đề tài Định chế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2004-2005
Kinh tế phát triển
Bài đọc
Định chế
Ch. 1 Giới thiệu về định chế
và sự thay đổi định chế
Douglass C. North 1 Biên dịch: Kim Chi/Cao Hào Thi
Hiệu Đính: Xinh Xinh
ĐỊNH CHẾ
DOUGLASS C. NORTH
Giới thiệu về định chế và sự thay đổi định chế
Các định chế là những luật lệ của cuộc chơi trong xã hội, hay một cách chính
thức hơn, là những ràng buộc do con người tạo ra để hướng dẫn tương tác giữa người và
người. Kết quả là chúng tạo lập những động cơ khuyến khích trong việc trao đổi của
con người, dù là trong kinh tế, xã hội hay chính trị. Sự thay đổi định chế hình thành
con đường để xã hội tiến hóa qua thời gian và vì vậy là chìa khóa để hiểu sự thay đổi
trong lịch sử.
Định chế có ảnh hưởng đến thành tích hoạt động của các nền kinh tế là điều
không cần phải tranh luận. Thành tích hoạt động khác biệt của các nền kinh tế qua
thời gian chịu ảnh hưởng một cách cơ bản bởi con đường tiến hóa của các định chế
cũng là điều không cần phải tranh luận. Thế mà chưa có lý thuyết kinh tế đương đại
hay môn lịch sử cận đại nào cho thấy nhiều dấu hiệu thừa nhận vai trò của định chế
trong thành tích hoạt động kinh tế bởi vì chưa có một phương pháp phân tích nào để kết
hợp phân tích định chế vào kinh tế học và lịch sử kinh tế. Mục tiêu của cuốn sách này
là cung cấp một phương pháp phân tích cơ bản như thế. Những ý nghĩa của sự phân
tích đó cho thấy cần xem xét lại phần lớn việc lý thuyết hóa trong ngành khoa học xã
hội nói chung và đặc biệt là kinh tế học nói riêng, và cung cấp một nhận thức mới về
sự thay đổi lịch sử.
Trong nghiên cứu này, tôi sẽ khảo sát bản chất của định chế và tầm quan trọng
của các định chế đối với thành tích hoạt động kinh tế (hay xã hội) (phần I). Sau đó tôi
sẽ phát họa lý thuyết về sự thay đổi định chế, không chỉ để cung cấp một phương pháp
cho môn lịch sử ngành kinh tế (và những ngành khác), mà còn để giải thích ảnh hưởng
của quá khứ đối với hiện tại và tương lai như thế nào, cũng như cách mà sự thay đổi
dần dần từng bước về định chế ảnh hưởng lên tập hợp chọn lựa trong một thời điểm
nào đó, và bản chất của sự phụ thuộc vào con đường chọn lựa (Phần II). Mục tiêu chủ
yếu của nghiên cứu này là để hiểu biết về thành tích hoạt động khác biệt của các nền
kinh tế qua thời gian (Phần III).
I
Định chế làm giảm tính bất trắc bằng cách cung cấp một cấu trúc cho hoạt động
trong đời sống hàng ngày. Định chế còn hướng dẫn sự tương tác giữa người với người,
để khi chúng ta muốn chào bạn bè trên đường phố, lái xe, mua cam, mượn tiền, hình
thành một doanh nghiệp, chôn cất một người quá cố, hay làm bất cứ cái gì, thì chúng ta
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Kinh tế phát triển
Bài đọc
Định chế
Ch. 1 Giới thiệu về định chế
và sự thay đổi định chế
Douglass C. North 2 Biên dịch: Kim Chi/Cao Hào Thi
Hiệu Đính: Xinh Xinh
biết (hay chúng ta có thể học một cách dễ dàng) cách làm những việc này. Chúng ta
sẽ dễ dàng nhận thấy rằng các định chế khác biệt nhau nếu như chúng ta thử thực hiện
cùng một giao dịch ở một đất nước khác – Bangladesh chẳng hạn. Theo biệt ngữ của
nhà kinh tế học, các định chế xác định và giới hạn tập hợp các chọn lựa của cá nhân.
Định chế bao gồm bất kỳ dạng ràng buộc nào mà con người đặt ra để định hình
tương tác giữa người và người. Như vậy, các định chế mang tính chính thức hay không
chính thức? Câu trả lời là chúng có thể là cả hai, và tôi quan tâm đến cả hai dạng: ràng
buộc chính thức – như các luật lệ mà con người đặt ra và ràng buộc không chính thức –
như tục lệ và qui tắc xử thế. Định chế có thể được sáng tạo, như Hiến pháp của Hoa
Kỳ; hay định chế có thể đơn giản tiến hóa theo thời gian, như luật tập tục. Tôi quan
tâm đến cả hai dạng định chế: được sáng tạo và tiến hóa, dù rằng để phân tích chúng ta
có thể chỉ muốn khảo sát chúng riêng rẻ. Nhiều thuộc tính khác của định chế cũng sẽ
được khảo sát.
Các ràng buộc về định chế bao gồm cả những điều cấm kỵ con người làm và
đôi khi, trong những điều kiện nhất định nào một số người được phép thực hiện các
hoạt động nào đó. Như định nghĩa ở đây, các định chế là khung mà con người phải
tuân theo khi tương tác với nhau. Các định chế hoàn toàn tương tự với luật lệ của các
trò chơi trong một trận tranh tài thể thao. Có nghĩa là, chúng bao gồm những luật lệ
thành văn chính thức cũng như những quy tắc đạo đức bất thành văn thông thường làm
cơ sở và bổ sung cho các luật lệ chính thức, như là không cố ý gây thương tích cho vận
động viên chủ chốt của đội đối phương. Và sự tương tự này hàm ý là những luật lệ và
những qui tắc không chính thức đôi khi bị vi phạm và những vi phạm này sẽ bị phạt.
Vì thế, phần chức năng cốt yếu của định chế là định cái giá của sự vi phạm và mức độ
nghiêm trọng của hình phạt.
Tiếp tục tương tự như trong thể thao, tổng kết lại, những luật lệ chính thức và
không chính thức và loại hình cùng hiệu quả của việc cưỡng chế thực thi sẽ định hình
toàn thể đặc tính của trò chơi. Một số đội thành công (và do đó nổi tiếng) do liên tục vi
phạm luật lệ và do đó đã áp đảo được đối phương. Liệu chiến lược đó có kết quả tốt
hay không, rõ ràng tùy thuộc vào hiệu quả của việc giám sát và mức độ nghiêm trọng
của hình phạt. Đôi khi các quy tắc đạo đức – tinh thần thể thao –ràng buộc các vận
động viên, cho dù họ có thể không bị phạt khi vi phạm.
Trong nghiên cứu này, cần phải phân biệt giữa định chế và tổ chức. Giống như
định chế, tổ chức cung cấp một cấu trúc cho sự tương tác giữa người và người. Thật
vậy khi khảo sát cái giá phải trả cho một khung định chế, chúng ta thấy rằng chúng là
kết quả không chỉ của khung định chế đó, mà còn là kết quả của các tổ chức đã phát
triển từ khung đó. Về mặt quan niệm, chúng ta cần phải phân biệt rõ ràng giữa luật lệ
và những người chơi. Mục đích của luật lệ là để xác định thể lệ trò chơi. Nhưng mục
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Kinh tế phát triển
Bài đọc
Định chế
Ch. 1 Giới thiệu về định chế
và sự thay đổi định chế
Douglass C. North 3 Biên dịch: Kim Chi/Cao Hào Thi
Hiệu Đính: Xinh Xinh
tiêu của đội thể thao là phải chiến thắng trận đấu trong phạm vi luật lệ đó – bằng một
tổ hợp các kỹ năng, chiến lược, và sự phối hợp; bằng những phương tiện công bằng và
đôi khi bằng phương tiện gian dối. Mô hình hóa chiến lược và kỹ năng của đội thể
thao khi nó phát triển là một quá trình tách biệt với việc mô hình hóa sự sáng tạo, tiến
hóa và kết quả của các luật lệ.
Tổ chức bao gồm các đoàn thể chính trị (đảng chính trị, nghị viện, hội đồng
thành phố, cơ quan kiểm soát), các cơ sở kinh tế (doanh nghiệp, nghiệp đoàn, nông trại
gia đình, hợp tác xã), các đoàn thể xã hội (nhà thờ, câu lạc bộ, hội thể thao) và các cơ
quan giáo dục (trường học, trường đại học, các trung tâm đào tạo tay nghề). Tất cả là
những nhóm cá nhân tập họp lại theo một mục đích chung để đạt được mục tiêu. Mô
hình hóa tổ chức là phân tích cấu trúc chủ đạo, kỹ năng, và việc học bằng cách thực
hành sẽ xác định thành công của tổ chức theo thời gian ra sao. Cả hai vấn đề làm thế
nào để các tổ chức trở thành một thực thể và nó tiến hóa như thế nào đều chịu ảnh
hưởng một cách cơ bản bởi khung định chế. Ngược lại, các tổ chức ảnh hưởng đến sự
tiến hóa của khung định chế. Tuy nhiên, như đã lưu ý ở trên, nghiên cứu này nhấn
mạnh nhiều đến các định chế hay những luật lệ cơ sở của cuộc chơi và đối với tổ chức
(hay các nhà điều hành tổ chức) thì tập trung chủ yếu vào vai trò của chúng với tư
cách là những tác nhân của sự thay đổi định chế; vì thế nhấn mạnh vào sự tương tác
giữa định chế vào tổ chức. Tổ chức được tạo ra với mục đích tận dụng và tuân theo tập
hợp các cơ hội sinh ra từ các ràng buộc hiện hữu (các ràng buộc định chế cũng như các
ràng buộc truyền thống của lý thuyết kinh tế) và nỗ lực để đạt các mục tiêu của các tổ
chức và do đó tổ chức là tác nhân chủ yếu của sự thay đổi định chế.
Tách bạch việc phân tích các luật lệ cơ sở khỏi chiến lược của người chơi là
điều kiện tiên quyết để xây dựng lý thuyết định chế. Việc định nghĩa định chế là
những ràng buộc mà con người tự đặt ra cho mình làm cho định nghĩa này bổ sung cho
phương pháp lý thuyết chọn lựa của lý thuyết kinh tế tân cổ điển. Xây dựng một lý
thuyết định chế trên cơ sở tập hợp chọn lựa cho các cá nhân là một bước tiến đến nối
kết giữa kinh tế và những ngành khoa học xã hội khác. Tiếp cận theo hướng lý thuyết
chọn lựa là thiết yếu bởi vì một số giả thuyết phù hợp về mặt logic và có thể kiểm tra
phải được xây dựng trên một lý thuyết về hành vi con người. Sức mạnh của lý thuyết
kinh tế vi mô là nó được xây dựng trên cơ sở những giả định về hành vi cá nhân con
người (mặc dù tôi sẽ tranh cãi và đề nghị thay đổi những giả định này trong chương 3).
Các định chế là một sự sáng tạo của con người. Chúng tiến hóa và bị thay đổi bởi con
người; vì thế lý thuyết của chúng ta phải bắt đầu từ cá nhân con người. Đồng thời,
những ràng buộc mà định chế áp đặt lên sự chọn lựa của cá nhân là ở khắp nơi. Kết
hợp những chọn lựa cá nhân với những ràng buộc mà định chế áp đặt lên tập hợp chọn
lựa là một bước chủ yếu để thống nhất những nghiên cứu khoa học xã hội.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Kinh tế phát triển
Bài đọc
Định chế
Ch. 1 Giới thiệu về định chế
và sự thay đổi định chế
Douglass C. North 4 Biên dịch: Kim Chi/Cao Hào Thi
Hiệu Đính: Xinh Xinh
Các định chế ảnh hưởng lên thành quả của nền kinh tế bằng cách ảnh hưởng lên
chi phí trao đổi và chuyển đổi (sản xuất). Cùng với công nghệ sử dụng, các định chế
xác định chi phí giao dịch và sản xuất và là thành phần của tổng chi phí. Mục tiêu ban
đầu của nghiên cứu này (Phần I) là để giải thích sự hiện hữu và bản chất của định chế
để thấy con đường định chế đi vào các hàm về chi phí của một nền kinh tế.
II
Vai trò chính của các định chế trong một xã hội là làm giảm tính bất trắc (tính
không chắc chắn) bằng cách hình thành một cấu trúc ổn định cho sự tương tác giữa
người và người (nhưng không nhất thiết là hữu hiệu). Nhưng sự ổn định của các định
chế không hề phủ nhận thực tế là định chế đang thay đổi. Từ những tục lệ, quy tắc đạo
đức, quy tắc đối xử tới luật thành văn, luật tập tục và hợp đồng giữa các cá nhân, định
chế đang tiến hóa và do đó, liên tục thay đổi tập hợp chọn lựa có sẵn đối với chúng ta.
Những thay đổi ở cận biên có thể từ từ và lạnh lùng đến nỗi chúng ta phải lùi lại như
các nhà sử học mới nhận thức được chúng, dù chúng ta sống trong một thế giới trong đó
định chế thay đổi thật nhanh chóng.
Thay đổi định chế là một quá trình phức tạp bởi vì các thay đổi cận biên có thể
là một kết quả của những thay đổi về luật lệ, về những ràng buộc không chính thức, về
các loại hình cùng hiệu quả của việc thực thi. Hơn nữa, định chế thường thay đổi dần
dần chứ không theo kiểu gián đoạn. Làm thế nào và tại sao chúng thay đổi dần dần và
tại sao ngay cả những thay đổi gián đoạn (như cách mạng và xâm chiếm) không bao
giờ mang tính bất liên tục hoàn toàn là do kết quả của nhiều ràng buộc không chính
thức có sẵn trong xã hội. Dù những luật lệ chính thức có thể thay đổi chỉ trong một
đêm do kết quả của những quyết định chính trị hay của quan tòa, nhưng những ràng
buộc không chính thức tượng trưng bởi phong tục, truyền thống và cả những quy tắc
đạo đức rất khó bị ảnh hưởng bởi các chính sách có tính toán. Những ràng buộc về văn
hóa này không chỉ kết nối quá khứ với hiện tại và tương lai mà còn cung cấp cho chúng
ta một chìa khóa để giải thích con đường thay đổi lịch sử.
Vấn đề hóc búa chính của lịch sử nhân loại là làm sao giải thích các con đường
thay đổi lịch sử hết sức khác nhau. Các xã hội đã phân hóa như thế nào? Điều gì giải
thích cho những đặc tính về thành quả hoạt động khác hẳn nhau của các xã hội? Nói
cho cùng, chúng ta đều là con cháu của những đoàn người nguyên thủy chỉ biết săn bắn
và thu lượm. Sự phân hóa này càng mang tính rắc rối hơn xét theo lý thuyết mậu dịch
quốc tế và lý thuyết tân cổ điển chuẩn vốn cho rằng các nền kinh tế khi buôn bán hàng
hóa, dịch vụ, và các yếu tố sản xuất theo thời gian sẽ dần dần hôïi tụ. Dù chúng ta thực
sự có thấy một sự hội tụ nào đó giữa những nước công nghiệp hàng đầu có ngoại
thương với nhau nhưng một nét nổi bật của mười ngàn năm qua là chúng ta đã tiến hóa
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Kinh tế phát triển
Bài đọc
Định chế
Ch. 1 Giới thiệu về định chế
và sự thay đổi định chế
Douglass C. North 5 Biên dịch: Kim Chi/Cao Hào Thi
Hiệu Đính: Xinh Xinh
thành những xã hội khác nhau cơ bản về kinh tế, chính trị, văn hóa, chủng tộc, tôn giáo
và khoảng cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa nước phát triển và những nước
kém phát triển vẫn còn lớn như trước đây và có lẽ còn lớn hơn nhiều so với trước đây.
Điều gì có thể giải thích cho sự phân hóa đó? Và có lẽ cũng quan trọng không kém là
vấn đề những điều kiện nào dẫn đến những sự phân hóa mạnh hơn nữa hay tạo ra sự
hội tụ?
Còn có thể có nhiều câu hỏi cần trả lời nữa. Điều gì giải thích cho những xã hội
đình trệ một thời gian dài hoặc một sự giảm sút tuyệt đối phúc lợi của một nền kinh tế?
Giả thuyết tiến hóa được Alchian đưa ra năm 1950 cho rằng cạnh tranh triệt để sẽ loại
bỏ những định chế yếu kém và giữ lại những định chế có thể giải quyết vấn đề của con
người tốt hơn.
Để tôi tóm tắt các bước khi thảo luận vấn đề trung tâm này. Theo North và
Thomas (1973), chúng ta đã tạo ra những định chế để xác định hoạt động kinh tế và để
thay đổi giá tương đối - nguồn gốc của thay đổi định chế. Nhưng chúng ta đã có một sự
giải thích rất hữu hiệu; những thay đổi trong giá tương đối tạo ra những động cơ
khuyến khích xây dựng những định chế hữu hiệu hơn. Việc duy trì những định chế
không hữu hiệu, được minh họa trong trường hợp của Tây Ban Nha, là do nhu cầu thu
chi ngân sách của những người cầm quyền, đã dẫn tới rút ngắn thời gian hoạch định và
do đó đã tách rời giữa những động cơ cá nhân và phúc lợi xã hội. Trường hợp đặc biệt
như thế không phù hợp với khung lý thuyết của chúng ta.
Trong Cấu Trúc và Thay đổi trong Lịch sử Kinh tế (Structure and Changes in
Economic Theory, North, 1981) tôi đã từ bỏ quan điểm hữu hiệu về định chế. Những
người cầm quyền đã đặt ra các quyền sở hữu tài sản theo lợi ích của họ và chi phí giao
dịch sẽ bị tăng lên trong khi những quyền sở hữu tài sản không hữu hiệu đó phổ biến.
Kết quả là có thể giải thích việc tồn tại các quyền sở hữu tài sản phổ biến rộng rãi
trong suốt lịch sử và hiện tại vốn đã không thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong nghiên
cứu đó, tôi đã nêu ra một câu hỏi theo tranh luận về sự tiến hóa của Alchian, nhưng
chưa có câu trả lời. Có thể giải thích sự hiện hữu của các định chế không hữu hiệu,
nhưng tại sao những áp lực cạnh tranh không dẫn đến loại bỏ chúng? Tại sao những
nhà doanh nghiệp chính trị trong những nền kinh tế đình trệ không nhanh chóng bắt
chước theo những chính sách thành công hơn? Làm thế nào chúng ta có thể giải thích
thành tích hoạt động hết sức khác nhau của các nền kinh tế trong những khoảng thời
gian dài?
Nghiên cứu này trả lời những câu hỏi đã nêu. Câu trả lời xoay quanh sự khác
nhau giữa định chế và tổ chức và tương tác giữa chúng mà sự tương tác này định hướng
thay đổi định chế. Định chế, cùng với các ràng buộc chuẩn của lý thuyết kinh tế, xác
định các cơ hội trong xã hội. Các tổ chức được tạo ra để tận dụng những cơ hội này và
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Kinh tế phát triển
Bài đọc
Định chế
Ch. 1 Giới thiệu về định chế
và sự thay đổi định chế
Douglass C. North 6 Biên dịch: Kim Chi/Cao Hào Thi
Hiệu Đính: Xinh Xinh
các tổ chức theo đó tiến hóa, và rồi chúng thay đổi các định chế. Con đường tổng hợp
của sự thay đổi định chế được định hình bởi (1) những ràng buộc do quan hệ cộng sinh
giữa định chế và tổ chức và tổ chức đã tiến hóa theo cấu trúc khuyến khích của định
chế và (2) quá trình phản hồi thông qua đó con người nhận thức và phản ứng đối với
những thay đổi trong tập hợp cơ hội.
Các đặc tính sinh lợi gia tăng của một ma trận định chế (ma trận định chế tạo ra
ràng buộc) là do sự phụ thuộc của các tổ chức được tạo ra vào khung định chế đó và
các ngoại tác của hệ thống nảy sinh. Cả hai ràng buộc định chế chính thức và không
chính thức sẽ dẫn đến những tổ chức trao đổi cụ thể, mà các tổ chức này xuất hiện là
do các động cơ khuyến khích nằm trong khung định chế đó và vì thế cho nên các tổ
chức này phụ thuộc vào khung định chế đó trong hoạt động tạo ra lợi nhuận.
Sự thay đổi định chế dần dần là do các nhà doanh nghiệp trong các tổ chức
chính trị và kinh tế nhận thức rằng họ có thể làm tốt hơn bằng cách thay đổi khung định
chế hiện hữu ở một mức độ nào đó. Nhưng những nhận thức này chủ yếu phụ thuộc
vào cả hai: thông tin mà nhà doanh nghiệp nhận được và cách mà họ xử lý thông tin
đó. Nếu thị trường chính trị và kinh tế là hữu hiệu (nghĩa là không có chi phí giao
dịch) thì những chọn lựa sẽ luôn hữu hiệu. Điều đó có nghĩa là các tác nhân luôn có
những mô hình đúng, hoặc giả ban đầu họ có những mô hình sai thì thông tin phản hồi
sẽ sửa chữa chúng. Nhưng phiên bản mô hình tác nhân duy lý đó đã đưa chúng ta đi
lệch hướng. Các nhân vật thường phải hành động dựa vào những thông tin không đầy
đủ và xử lý những thông tin mà họ nhận được thông qua những quá trình nhận thức có
thể tạo ra những con đường không hữu hiệu lâu dài. Chi phí giao dịch trong thị trường
chính trị và kinh tế tượng trưng cho quyền sở hữu không hữu hiệu. Tuy nhiên, khi
người ta cố gắng hiểu sự phức tạp của vấn đề đang đối phó bằng những mô hình chủ
quan không hoàn hảo có thể dẫn tới quyền sở hữu không hữu hiệu lâu dài.
Chúng ta có thể khai triển rộng đặc tính thay đổi định chế này bằng cách tương
phản con đường thành công với con đường thất bại dai dẳng. Trước hết là câu chuyện
quen thuộc trong lịch sử kinh tế Mỹ – sự tăng trưởng của nền kinh tế trong thế kỷ 19.
Khung định chế cơ bản vốn đã tiến hóa vào đầu thế kỷ 19 (Hiến pháp và Sắc Lệnh
Đông Bắc, cũng như những quy tắc đối xử để thưởng cho sự làm việc siêng năng) đã
kích thích rộng rãi sự phát triển các tổ chức kinh tế và chính trị (Quốc hội, các đoàn thể
chính trị địa phương, các nông trại gia đình, các nhà buôn và các doanh nghiệp vận tải
tàu biển) những hoạt động tối đa hóa (lợi nhuận hay độ thỏa dụng) của các tổ chức này
đã làm tăng năng suất và tạo ra tăng trưởng kinh tế cả trực tiếp lẫn gián tiếp bằng cách
kích thích nhu cầu đầu tư cho giáo dục. Đầu tư vào giáo dục không những dẫn đến hệ
thống giáo dục công miễn phí mà còn dẫn đến sự hình thành các trạm thí nghiệm nông
nghiệp để cải tiến năng suất nông nghiệp; Đạo luật Morrill đã tạo ra những trường đại
học công trên đất nhà nước.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Kinh tế phát triển
Bài đọc
Định chế
Ch. 1 Giới thiệu về định chế
và sự thay đổi định chế
Douglass C. North 7 Biên dịch: Kim Chi/Cao Hào Thi
Hiệu Đính: Xinh Xinh
Khi các tổ chức kinh tế tiến hóa để tận dụng những cơ hội này, chúng không chỉ
trở nên hữu hiệu hơn (Xem Chandler, 1977), mà còn dần dần thay đổi khung định chế.
Không chỉ khung định chế về chính trị và pháp lý được thay đổi (Fourteenth
Amendment, Munn v, Illinois) và cấu trúc của quyền sở hữu được thay đổi (Đạo luật
Sherman) vào cuối thế kỷ mười chín, mà nhiều qui tắc đối xử và những ràng buộc
không chính thức khác (phản ánh trong thay đổi thái độ – và quy tắc đối xử – đối với
nô lệ, vai trò của phụ nữ và sự kiêng cử uống rượu chẳng hạn). Cả chi phí giao dịch
chính trị và kinh tế và những nhận thức chủ quan của các tác nhân đã dẫn đến những
chọn lựa chắc chắn không phải lúc nào cũng tối ưu hay đơn hướng đối với năng suất gia
tăng hay phúc lợi kinh tế tốt hơn (dù được định nghĩa như thế nào). Những cơ hội có
thể kiếm lợi nhuận đôi khi do tạo ra hàng rào quan thuế, khai thác nô lệ, hay hình
thành tờ-rớt (trust). Đôi khi, thật ra là rất thường, các chính sách đã có các hậu quả
không dự tính trước được. Hậu quả là, các định chế đã và đang là một túi hỗn hợp
những yếu tố kích thích tăng năng suất và những yếu tố giảm năng suất. Tương tự, sự
thay đổi định chế hầu như luôn tạo ra những cơ hội cho cả hai loại hoạït động. Nhưng
xem xét kỹ có thể thấy lịch sử kinh tế Mỹ thế kỷ 19 là một câu chuyện về tăng trưởng
kinh tế vì khung định chế cơ bản đã tăng cường một cách lâu dài các động cơ khuyến
khích các tổ chức tham gia vào hoạt động sản xuất với năng suất cao hơn cho dù đã
trộn lẫn một vài hậu quả không tốt.
Bây giờ, nếu tôi mô tả khung định chế bằng một tập hợp các động cơ khuyến
khích ngược với các động cơ cho những tổ chức đã đề cập ở đoạn trên, tôi sẽ tiến gần
đến các điều kiện trong nhiều nước thế giới thứ 3 ngày nay cũng như những điều kiện
đặc trưng cho phần lớn lịch sử kinh tế thế giới. Các cơ hội cho các nhà doanh nghiệp
chính trị và kinh tế vẫn là một túi hỗn hợp, nhưng chúng có khuynh hướng ưu đãi một
cách quá mức những hoạt động thúc đẩy tái phân phối hơn hoạt động sản xuất, và
những hoạt động tạo độc quyền hơn những điều kiện cạnh tranh, những hoạt động hạn
chế cơ hội hơn là mở rộng chúng. Các cơ hội ít khi kích thích đầu tư trong giáo dục để
tăng năng suất. Các tổ chức phát triển trong khung định chế này sẽ trở nên hữu hiệu
hơn – nhưng hữu hiệu hơn trong việc làm cho xã hội sản xuất kém đi và làm cho cấu
trúc định chế căn bản thậm chí còn kém thúc đẩy hoạt động sản x
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4451_dinh_che.pdf