Công cuộc đổi mới của đất nước đã mang lại cho bộ mặt kinh tế - văn hoá - xã hội những khởi sắc to lớn. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã dẫn tới những biến đổi mạnh mẽ làm thay đổi bộ mặt của nông thôn và đô thị Việt Nam. Tuy nhiên ở một bộ phận dân cư còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế nhất là ở vùng xa, vùng sâu. Sự phát triển kinh tế ở cả nông thôn và thành thị trong những năm gần đây không những đã thúc đẩy sự phát triển ở nông thôn Việt Nam mà còn đặt ra nhiều vấn đề và thách thức. Năng suất nông nghiệp tăng cao trong thời gian qua, một mặt đã giúp đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước, mặt khác tạo ra sự dôi dư lao động ở nông thôn. Trong điều kiện khan hiếm đất ở nông thôn, đặc biệt là đất nông nghiệp, và mức tăng dân số cao so với khu vực thành thị, dư thừa lao động đang là vấn đề nổi cộm ở nông thôn và ngày càng trở nên nghiêm trọng. Thất nghiệp và bán thất nghiệp đã và đang trở thành vấn đề lớn vì khả năng tạo ra việc làm cho lao động nông thôn còn rất hạn chế. Tất cả các nhân tố này cùng với khoảng cách về thu nhập giữa thành thị và nông thôn đã sinh ra các dòng di cư từ nông thôn ra thành thị. Cùng với quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá đang tiếp diễn ỏ Việt Nam, khu vực thành thị sẽ tiếp tục được mở rộng, trong khi nông thôn ngày càng bị thu hẹp. Việc xuất hiện các dòng di cư lao động lớn từ nông thôn ra thành thị, vì vậy là điều không tránh khỏi.
Ở thập niên 90 (thế kỷ XX), nước ta đã chứng kiến các dòng di dân, đặc biệt là di dân nông thôn – đô thị diễn ra hết sức mạnh mẽ và phức tạp. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế cùng với quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá cũng như sức ép về dân số, việc làm, đất đai, nghề nghiệp làm cho di dân nông thôn – đô thị có chiều hướng ngày càng gia tăng, đặc biệt là tập trung vào các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Thực tiễn này đặt ra những bức xúc cần được giải đáp về di dân, nó thu hút được sự chú ý của xã hội, nhất là giới nghiên cứu khoa học xã hội.
Trước đây, hầu hết các nghiên cứu về di dân tập trung vào loại hình di dân có tổ chức với mục tiêu chủ yếu là đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hình thức di dân này. Dưới góc độ xã hội học chưa có nhiều các nghiên cứu về di dân tự do, di dân tạm thời nông thôn – đô thị. Mặt khác các nghiên cứu này chủ yếu tập trung quan tâm đến ảnh hưởng tiêu cực; mặt tích cực, những lợi ích từ di dân mang lại chưa đề cập phân tích một cách cặn kẽ và thoả đáng.
Thực tế, di dân nông thôn – đô thị, trong đó có di dân tạm thời là nhân tố tích cực trong việc giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế hộ gia đình và góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Ngoài lợi ích kinh tế, di dân tạm thời nông thôn – đô thị còn mang về những tri thức mới, kinh nghiệm mới trong đó có năng lực tư duy, sự năng động, ý thức làm giàu và những yếu tố giá trị mới, tiến bộ. Để kiểm nghiệm và đánh giá được một cách khách quan những tác động tích cực trên, cần có những nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu.
Trong luồng di cư nông thôn – đô thị hiện nay, đã xuất hiện xu hướng nữ hoá trong di cư do các ngành công nghiệp dệt may, dịch vụ tuyển lao động nữ là chủ yếu. Đây là một xu hướng tất yếu do cấu trúc của cơ cấu kinh tế quyết định. Bên cạnh những khía cạnh tích cực do di cư lao động nữ mang lại như giải quyết việc làm cho lao động nữ nông thôn, tăng thu nhập, phát triển kinh tế gia đình. Mặt khác tình trạng phụ nữ di cư đi làm xa nhà đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực lâi dài và quan trọng đến gia đình và xã hội. Đó là việc tổ chức cuộc sống gia đình bị đảo lộn, vai trò tham gia công việc lao động sản xuất, nội trợ, chăm sóc giáo dục con cái, chăm sóc người cao tuổi , mối quan hệ trong gia đình lỏng lẻo ảnh hưởng đến cuộc sống ổn đinh và hạnh phúc gia đình. Người phụ nữ vốn được coi là trụ cột quan trọng thứ 2 trong việc tổ chức cuộc sống gia đình, quán xuyến nhà cửa, tay hòn chìa khoá, thực hiện các chức năng tâm lý, tình cảm Họ là trung tâm của đời sống tình cảm gắn kết các thành viên trong gia đình, là người góp phần quan trọng điều chỉnh các quan hệ gia đình và xã hội, bảo vệ gia đình và góp phần cơ bản vào việc phòng chống tệ nạn xã hội từ gia đình. Nhưng khi người phụ nữ di cư, tuy kinh tế có phần được cải thiện nhưng cuộc sống gia đình thiếu đi sự đầm ấm, yên vui, nhiều trẻ em không được chăm sóc đầy đủ, học hành sa sút, bị buông lỏng giáo dục. Cuộc sống của nhiều nam giới cũng trở nên bất ổn. Từ đó, nhiều trẻ em và nam giới dễ bị rơi vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, mại dâm. Một số cặp vợ chồng rơi vào tình trạng quan hệ phức tạp hoặc lỏng lẻo, hạnh phúc gia đình không đảm bảo dẫn đến ly hôn.
Ngoài ra, đối với bản thân lao động nữ nông thôn di cư thường có trình độ văn hoá, học vấn, hiểu biết về xã hội thấp Điều kiện sống và làm các công việc nặng nhọc, nguy hiểm tại thành phố lại đầy khó khăn, cạm bẫy, khả năng tự bảo vệ hạn chế nên họ cũng dễ bị lạm dụng thể chất và tinh thần.
Trước những thực trạng nêu trên, để góp phần làm rõ thêm tác động tích cực của di dân lao động nữ nông thôn – đô thị, đặc biệt là vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế hộ gia đình nông thôn, tác giả lựa chọn và tiến hành nghiên cứu đề tài: Di cư mùa vụ của lao động nữ nông thôn - Thực trạng và những tác động (Nghiên cứu trường hợp tại huyện Giao Thuỷ, huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định)
93 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1431 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Di cư mùa vụ của lao động nữ nông thôn - Thực trạng và những tác động (nghiên cứu trường hợp tại huyện Giao Thủy, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
5. Khung lý thuyết, giả thuyết nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
7. Kết cấu của luận văn
NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lý luận của nghiên cứu
1. Các khái niệm liên quan
2. Lý thuyết, cách tiếp cận
Chương I: Thực trạng di cư mùa vụ của lao động nữ nông thôn
1. Mô tả địa bàn nghiên cứu
2. Đặc điểm của lao động di cư
Chương II: Tác động kinh tế - xã hội của di cư
1. Tác động kinh tế
2. Tác động xã hội
KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ĐKH: Đã kết hôn
CKH: Chưa kết hôn
HN: Hà Nội
TP.HCM: thành phố Hồ Chí Minh
LC: Lào Cai
QN: Quảng NinhDANH MỤC BẢNG
Nội dung
Trang
Bảng 2.1
Mô tả tình hình kinh tế xã hội của các xã nghiên cứu
29
Bảng 2.2
Số người di cư năm 2008
30
Bảng 2.3
Đặc trưng của người di cư và gia đình người di cư
31
Bảng 2.4
Thời gian mỗi lần di cư
38
Bảng 2.5
Thời gian ở nhà gần đây nhất (ngày)
40
Bảng 2.6
Nơi thường đến mỗi lần di cư
42
Bảng 2.7
Việc làm của người di cư có được từ nguồn
44
Bảng 2.8
Tổ chức nào tiến hành đào tạo
45
Bảng 2.9
Nơi ở của phụ nữ di cư
48
Bảng 3.1
Tài sản trong gia đình và sự đóng góp của phụ nữ
51
Bảng 3.2
Sự thay đổi lực học của con cái trong trong gia đình có PN di cư
57
Bảng 3.3
Mức độ tham gia của trẻ em vào công việc gia đình
59
Bảng 3.4
Ý kiến của phụ nữ di cư về những nhận định liên quan đến quan hệ gia đình
61
Bảng 3.5
Vấn đề hài lòng nhất trong quá trình chị di cư kiếm việc làm
65
Bảng 3.6
Thay đổi của nam giới khi phụ nữ đi làm ăn xa
66
Bảng 3.7
Sự thay đổi những suy nghĩ, quan niệm của phụ nữ di cư về các vấn đề xã hội từ khi đi làm ăn xa
69
Bảng 3.7
Sự thay đổi những suy nghĩ, quan niệm của phụ nữ di cư về các vấn đề xã hội từ khi đi làm ăn xa
70
Bảng 3.8
Nguyên nhân của những rủi ro mà phụ nữ di cư gặp phải
76
DANH MỤC BIỂU
Nội dung
Trang
Biểu đồ 1
Số lần di cư của phụ nữ
37
Biểu đồ 2
Số lần di cư trong 12 tháng vừa qua
39
Biểu đồ 3
Hình thức di cư khi đi làm ăn xa
41
Biểu đồ 4
Nghề nghiệp của người di cư
43
Biểu đồ 5
Mức độ trả lời được trang bị kiến thức, kỹ năng liên quan đến công việc chuẩn bị làm
45
Biểu đồ 6
Đánh giá về điều kiện nơi sinh sống
48
Biểu đồ 7
Lý do thu nhập cao hơn trước đây
51
Biểu đồ 8
Tiền do phụ nữ gửi về được sử dụng vào mục đích
53
Biểu đồ 9
Lí do của những thay đổi về lực học kém hơn
58
Biểu đồ 10
Việc di cư ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình
63
Biểu đồ 11
Những lo lắng của phụ nữ về gia đình trong quá trình di cư
68
Biểu đồ 12
Những thiệt thòi của phụ nữ di cư
74
Biểu đồ 13
Những rủi ro khi phụ nữ gặp phải khi di cư
75
MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới của đất nước đã mang lại cho bộ mặt kinh tế - văn hoá - xã hội những khởi sắc to lớn. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã dẫn tới những biến đổi mạnh mẽ làm thay đổi bộ mặt của nông thôn và đô thị Việt Nam. Tuy nhiên ở một bộ phận dân cư còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế nhất là ở vùng xa, vùng sâu. Sự phát triển kinh tế ở cả nông thôn và thành thị trong những năm gần đây không những đã thúc đẩy sự phát triển ở nông thôn Việt Nam mà còn đặt ra nhiều vấn đề và thách thức. Năng suất nông nghiệp tăng cao trong thời gian qua, một mặt đã giúp đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước, mặt khác tạo ra sự dôi dư lao động ở nông thôn. Trong điều kiện khan hiếm đất ở nông thôn, đặc biệt là đất nông nghiệp, và mức tăng dân số cao so với khu vực thành thị, dư thừa lao động đang là vấn đề nổi cộm ở nông thôn và ngày càng trở nên nghiêm trọng. Thất nghiệp và bán thất nghiệp đã và đang trở thành vấn đề lớn vì khả năng tạo ra việc làm cho lao động nông thôn còn rất hạn chế. Tất cả các nhân tố này cùng với khoảng cách về thu nhập giữa thành thị và nông thôn đã sinh ra các dòng di cư từ nông thôn ra thành thị. Cùng với quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá đang tiếp diễn ỏ Việt Nam, khu vực thành thị sẽ tiếp tục được mở rộng, trong khi nông thôn ngày càng bị thu hẹp. Việc xuất hiện các dòng di cư lao động lớn từ nông thôn ra thành thị, vì vậy là điều không tránh khỏi.
Ở thập niên 90 (thế kỷ XX), nước ta đã chứng kiến các dòng di dân, đặc biệt là di dân nông thôn – đô thị diễn ra hết sức mạnh mẽ và phức tạp. Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế cùng với quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá cũng như sức ép về dân số, việc làm, đất đai, nghề nghiệp… làm cho di dân nông thôn – đô thị có chiều hướng ngày càng gia tăng, đặc biệt là tập trung vào các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Thực tiễn này đặt ra những bức xúc cần được giải đáp về di dân, nó thu hút được sự chú ý của xã hội, nhất là giới nghiên cứu khoa học xã hội.
Trước đây, hầu hết các nghiên cứu về di dân tập trung vào loại hình di dân có tổ chức với mục tiêu chủ yếu là đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hình thức di dân này. Dưới góc độ xã hội học chưa có nhiều các nghiên cứu về di dân tự do, di dân tạm thời nông thôn – đô thị. Mặt khác các nghiên cứu này chủ yếu tập trung quan tâm đến ảnh hưởng tiêu cực; mặt tích cực, những lợi ích từ di dân mang lại chưa đề cập phân tích một cách cặn kẽ và thoả đáng.
Thực tế, di dân nông thôn – đô thị, trong đó có di dân tạm thời là nhân tố tích cực trong việc giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế hộ gia đình và góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Ngoài lợi ích kinh tế, di dân tạm thời nông thôn – đô thị còn mang về những tri thức mới, kinh nghiệm mới trong đó có năng lực tư duy, sự năng động, ý thức làm giàu và những yếu tố giá trị mới, tiến bộ. Để kiểm nghiệm và đánh giá được một cách khách quan những tác động tích cực trên, cần có những nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu.
Trong luồng di cư nông thôn – đô thị hiện nay, đã xuất hiện xu hướng nữ hoá trong di cư do các ngành công nghiệp dệt may, dịch vụ … tuyển lao động nữ là chủ yếu. Đây là một xu hướng tất yếu do cấu trúc của cơ cấu kinh tế quyết định. Bên cạnh những khía cạnh tích cực do di cư lao động nữ mang lại như giải quyết việc làm cho lao động nữ nông thôn, tăng thu nhập, phát triển kinh tế gia đình. Mặt khác tình trạng phụ nữ di cư đi làm xa nhà đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực lâi dài và quan trọng đến gia đình và xã hội. Đó là việc tổ chức cuộc sống gia đình bị đảo lộn, vai trò tham gia công việc lao động sản xuất, nội trợ, chăm sóc giáo dục con cái, chăm sóc người cao tuổi , mối quan hệ trong gia đình lỏng lẻo ảnh hưởng đến cuộc sống ổn đinh và hạnh phúc gia đình. Người phụ nữ vốn được coi là trụ cột quan trọng thứ 2 trong việc tổ chức cuộc sống gia đình, quán xuyến nhà cửa, tay hòn chìa khoá, thực hiện các chức năng tâm lý, tình cảm… Họ là trung tâm của đời sống tình cảm gắn kết các thành viên trong gia đình, là người góp phần quan trọng điều chỉnh các quan hệ gia đình và xã hội, bảo vệ gia đình và góp phần cơ bản vào việc phòng chống tệ nạn xã hội từ gia đình. Nhưng khi người phụ nữ di cư, tuy kinh tế có phần được cải thiện nhưng cuộc sống gia đình thiếu đi sự đầm ấm, yên vui, nhiều trẻ em không được chăm sóc đầy đủ, học hành sa sút, bị buông lỏng giáo dục. Cuộc sống của nhiều nam giới cũng trở nên bất ổn. Từ đó, nhiều trẻ em và nam giới dễ bị rơi vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, mại dâm. Một số cặp vợ chồng rơi vào tình trạng quan hệ phức tạp hoặc lỏng lẻo, hạnh phúc gia đình không đảm bảo dẫn đến ly hôn.
Ngoài ra, đối với bản thân lao động nữ nông thôn di cư thường có trình độ văn hoá, học vấn, hiểu biết về xã hội thấp Điều kiện sống và làm các công việc nặng nhọc, nguy hiểm tại thành phố lại đầy khó khăn, cạm bẫy, khả năng tự bảo vệ hạn chế nên họ cũng dễ bị lạm dụng thể chất và tinh thần.
Trước những thực trạng nêu trên, để góp phần làm rõ thêm tác động tích cực của di dân lao động nữ nông thôn – đô thị, đặc biệt là vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế hộ gia đình nông thôn, tác giả lựa chọn và tiến hành nghiên cứu đề tài: Di cư mùa vụ của lao động nữ nông thôn - Thực trạng và những tác động (Nghiên cứu trường hợp tại huyện Giao Thuỷ, huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định)
2- Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác, di dân ở Việt Nam là một hiện tượng kinh tế xã hội mang tính quy luật, một cấu thành gắn liền với quá trình phát triển. Di dân là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường, là biểu hiện rõ nét nhất của sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền lãnh thổ, giữa các quốc gia. Dưới tác động của toàn cầu hoá những khác biệt mức sống, chênh lệch thu nhập, cơ hội việc làm, tiếp cận dịch vụ xã hội là các nguyên nhân cơ bản tạo nên các dòng di cư trong và ngoài nước hiện nay. Di cư được các gia đình nông thôn sử dụng như một chiến lược sống để đối phó với cảnh nghèo nàn, tạo thêm thu nhập trong thời kỳ nông nhàn.
Trong những năm vừa qua, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu di dân nội địa bao gồm những nghiên cứu ở cấp độ lý thuyết và cấp độ thực nghiệm. Trong số các nghiên cứu về lao động nữ di cư ở cấp độ lý thuyết, đáng chú ý hơn cả là công trình nghiên cứu về phụ nữ di cư ở nông thôn – đô thị ở thành phố Hồ Chí Minh [39]. Đây là những công trình nghiên cứu trên phạm vi quốc gia, khách thể nghiên cứu là phụ nữ nói chung trong độ tuổi lao động (từ 18 đến 55 tuổi) và chủ yếu hướng vào những vấn đề liên quan đến đời sống kinh tế của lao động nhập cư.
Nghiên cứu di dân ở Việt Nam thường phân biệt giữa di dân có tổ chức và di dân tự do. Nổi bật trong số nghiên cứu di dân có tổ chức là những công trình nghiên cứu về di dân do Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện kinh tế nông nghiệp, Bộ lao động thương binh xã hội (Cục di dân) tiến hành vào các năm 1996, 1997, 1998. Các nghiên cứu này cho ta thấy từ năm 1960 đến nay đã có hơn 6 triệu người di cư và trên 1,7 triệu ha đất nông nghiệp đã được khai hoang đưa vào sản xuất. Xu thế di dân có tổ chức là các đợt chuyển dịch dân cư lớn đến các vùng kinh tế mới trong thời gian từ 1976 đến 1990. Tuy nhiên, nhiều công trình nghiên cứu về các xu hướng di cư nói chung đã cho thấy, sau những năm 90, di cư tự do có xu hướng gia tăng (Dự án VIE/95/004)[5;6;7].
Nhiều nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng, quá trình di cư không chỉ bị thúc đầy bởi những chính sách di dân trực tiếp mà bởi cả những chính sách kinh tế - xã hội trong quá trình đổi mới [3]. Sự tăng trưởng kinh tế và mở rộng phạm vi đô thị cũng là một trong những nguyên nhân tạo ra luồng di cư nông thôn – đô thị. Để phản ánh tình hình này và tìm hiểu những vấn đề liên quan đến di dân, nguồn nhân lực, việc làm, đô thị hoá… một số cơ quan khoa học, cơ quan chủ quản Việt Nam đã phối hợp với đối tác nước ngoài triển khai những dự án nghiên cứu ở tầm vĩ mô tình trạng di dân tự do vào thành phố Hà Nội (Viện kinh tế nông nghiệp - 1999); thành phố Hồ Chí Minh (Viện kinh tế thành phố Hồ Chí Minh - 1997) v.v…
Ngoài những công trình trên, nhiều đề tài nghiên cứu chuyên sâu về một số cộng đồng di cư cũng đã được công bố. Trong đó, các tác giả đã chú trọng tới ảnh hưởng của di dân đối với cộng đồng gốc và nơi đến của người nhập cư. Đồng thời, một số vấn đề cụ thể có liên quan tới di dân cũng đã được đặt ra. Ví dụ: chiến lược sinh tồn của người nhập cư, những khuôn mẫu đang thay đổi (Nguyễn Văn Chính, 2002); nguồn gốc xã hội và kinh tế của nhập cư (Nguyễn Thị Hoà - 1999); vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di cư (Đặng Nguyên Anh, 1998) v.v…
Theo tác giả Đặng Nguyên Anh trong báo cáo về "Di dân và giảm nghèo ở nông thôn - Một số vấn đề và chính sách" cho rằng: Di dân ở Việt Nam là một hiện tượng kinh tế xã hội mang tính quy luật, một cấu thành gắn liền với quá trình phát triển. Di dân thực tế là sự dịch chuyển của dân số đến nơi đất lành chim đậu. Thông qua khối lượng hàng, tiền mà người lao động mang, chuyển, gửi về cho gia đình, di cư đang góp phần điều chỉnh lại sự chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị, góp phần thực hiện công bằng xã hội. Do đó dưới giác độ nghiên cứu này thì di cư nông thôn - đô thị là nhân tố tích cực trong việc cải thiện cuộc sống, nâng cao thu nhập, tạo tiền đề cho sự tồn tại và phát triển kinh tế hộ gia đình của người di cư, góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.
Những nghiên cứu về di dân ở Việt Nam trên cấp độ thực nghiệm, đa phần là tìm hiểu và phân tích những vấn đề mang tính chất vĩ mô ở quy mô quốc gia. Vì vậy nó đóng góp quan trọng vào việc hoạch định những chính sách phân bố dân cư của Đảng và Nhà nước. Những vấn đề được quan tâm nhiều nhất là đặc trưng cơ bản của người di cư, nguyên nhân di chuyển, đánh giá tác động của di cư vv.... Những nhân tố được quan tâm xử lý là: cơ cấu tuổi, giới tính, lý do di cư, loại hình di cư, các loại hình nghề nghiệp của người nhập cư, khả năng tìm kiếm việc làm và thu nhập, sự tác động và ảnh hưởng của nơi nhập cư, xuất cư... Nhìn chung, những nghiên cứu này đều tập trung phân tích thông tin ở góc độ kinh tế và chỉ ra được các biểu hiện về hành vi. Những tác động của di dân ở khía cạnh ảnh hưởng đến gia đình, con cái, hạnh phúc gia đình, những rủi ro phụ nữ gặp phải … của phụ nữ di cư còn rất ít được đề cập. Đặc biệt phần phân tích các vấn đề liên quan đến nữ lao động di cư gần như chưa có hoặc chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong những nghiên cứu này.
Có thể nói di dân đến các thành phố lớn là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trong thời gian vừa qua. Các tác giả thường tập trung tìm nguyên nhân của vấn đề di dân vào thành phố và nhấn mạnh đến những thuận lợi cũng như bất lợi của những người nhập cư và những cư dân tại chỗ dưới tác động của quá trình này (Nguyễn Văn Tài, 1998; Nguyễn Văn Năm, 2002). Những nghiên cứu này tập trung tìm hiểu vì sao người dân ra đi? Vì sao người ta đến nơi này chứ không phải nơi khác? Làm thế nào để quản lý được làn sóng nhập cư đang đổ vào các thành phố lớn như Hà Nội hoặc thành phố Hồ Chí Minh? Làm thế nào để giải được bài toán về lao động trong quá trình đô thị hoá tại các thành phố lớn v.v…
Về khách thể nghiên cứu, nhiều cuộc nghiên cứu coi những người nhập cư như một nhóm người đồng nhất, hoặc lấy hộ gia đình như một đơn vị nghiên cứu để phân tích, bỏ qua những khác biệt về giới tính, tuổi tác và đặc điểm tâm lý, xã hội khác. Một số cuộc nghiên cứu đã tách riêng những người nhập cư nữ để nghiên cứu những đặc điểm của nhóm nhập cư này nhưng không phân biệt giữa nhóm nhập cư là trẻ em và những người nhập cư lớn tuổi (Hà Thị Phương Tiến, Hà Quang Ngọc - 2000). Đã có một số nghiên cứu về di cư lao động nữ nông thôn – thành thị, thường là những nghiên cứu trường hợp, nghiên cứu định tính từ góc độ xã hội học và cả nhân học hoặc là nghiên cứu dưới góc độ gia đình và giới, thậm chí có cả một số tác giả người nước ngoài (nghiên cứu phụ nữ bán hàng rong).
Từ việc phân tích một số nghiên cứu về di dân ở Việt Nam, có thể thấy phần lớn trong số đó là những nghiên cứu thực nghiệm, tập trung vào góc độ kinh tế, việc phân tích giới còn mờ nhạt, những thông tin phân biệt giới chưa được thu thập một cách đầy đủ. Đặc biệt các chỉ báo để đo lường các nguyên nhân xuất cư, sự đóng góp của bản thân những người nhập cư đối với nơi xuất cư, cũng như sự hoà nhập, những nguyện vọng và sự thay đổi vị trí, vai trò của phụ nữ di cư trong gia đình như thế nào cũng chưa được đề cập một cách thoả đáng.
Về phương pháp, đa số các công trình nghiên cứu về di dân ở Việt Nam từ trước đến nay đều sử dụng phương pháp định lượng trong việc thu thập và phân tích thông tin. Những nghiên cứu bằng phương pháp định tính còn khá ít.
Mặc dù đã có những nghiên cứu như vậy, nhưng chúng tôi nhận thấy còn có khoảng trống trong nghiên cứu di dân tại Việt Nam về các khía cạnh xã hội như vấn đề lao động di cư nữ và đặc biệt là những tác động kinh tế - xã hội của nó tới bản thân người phụ nữ di cư, đến gia đình, con cái, hạnh phúc gia đình nói chung và những rủi ro mà phụ nữ gặp phải trong quá trình di cư. Thái độ của người dân nơi đi và nơi đến trong quá trình sử dụng lao động nữ nhập cư…
3- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1- Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng các hình thức di cư của phụ nữ và đề xuất các giải pháp giúp phụ nữ di cư được an toàn
Phân tích ảnh hưởng của việc phụ nữ đi làm ăn xa đối với đời sống, hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con cái
Làm rõ những nguy cơ của vấn đề gia đình khi phụ nữ đi làm ăn xa và các giải pháp khắc phục
3.2- Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc trưng nhân khẩu học của hộ gia đình và cá nhân người di cư mùa vụ.
- Tìm hiểu việc đóng góp kinh tế của người di cư mùa vụ vào thu nhập của hộ gia đình.
- Tác động của vấn đề di cư đối với bản thân người phụ nữ di cư
- Tác động của vấn đề di cư đối với đời sống gia đình của người di cư (ảnh hưởng tích cực và tiêu cực về , giáo dục con cái, các quan hệ gia đình…)
4- Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1- Đối tượng nghiên cứu
Phụ nữ di cư: bao gồm cả phụ nữ hiện đang di cư và phụ nữ đã có thời gian di cư nhưng hiện đã trở về quê hương
Người thân của phụ nữ di cư: Chồng, con, bố mẹ
Chính quyền địa phương nơi xuất cư
4.2- Khách thể nghiên cứu
- Hộ gia đình của người di cư
- Nhóm phụ nữ di cư
- Lãnh đạo địa phương có phụ nữ di cư
4.3- Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại 6 xã thuộc huyện Xuân Trường và huyện Giao Thuỷ. Nghiên cứu tại một số địa điểm tại địa bàn thủ đô Hà Nội nơi có phụ nữ ở các xã nghiên cứu đang làm việc
5- Khung lý thuyết, giả thuyết nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu
5.1- Khung lý thuyết
* Hệ biến số độc lập
- §Æc trng nh©n khÈu, kinh tÕ- x· héi cña gia ®×nh ngêi di d©n:
. Quy m« gia ®×nh
. Sè nh©n khÈu phô thuéc trong gia ®×nh
. Thu nhËp hé gia ®×nh
. C¬ cÊu nghÒ nghiÖp
. Møc sèng cña hé gia ®×nh
. M¹ng líi x· héi cña gia ®×nh
. Tæng sè ngêi di d©n trong gia ®×nh
§Æc trng nh©n khÈu, kinh tÕ- x· héi cña ngêi di d©n
. Tuổi
. Tr×nh ®é häc vÊn
. NghÒ nghiÖp ë n«ng th«n
. T×nh tr¹ng h«n nh©n
* HÖ biÕn sè phô thuéc
- Gia đình
. §ãng gãp của người di cư vµo thu nhËp hé gia ®×nh
. HiÖu qu¶ sö dông phÇn ®ãng gãp cña ngêi di d©n
. Mối quan hệ vợ chồng và cách tổ chức cuộc sống gia đình
. Tác động tới chăm sóc các thành viên trong gia đình và giáo dục con cái
- Bản thân người phụ nữ di cư:
. Nâng cao hiểu biết và vai trò của người phụ nữ trong gia đình
. Những nguy cơ và rủi ro phụ nữ gặp phải trong quá trình di cư lao động của mình
* Biến số can thiệp
- Chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước
- Đô thị hoá
- Thị trường lao động
5.2- Câu hỏi nghiên cứu
Những tác động do việc di cư của phụ nữ mang lại đối với:
- Kinh tế gia đình
- Chăm sóc và giáo dục con cái
- Bản thân người phụ nữ
- Hạnh phúc gia đình
Những nguy cơ, rủi ro người phụ nữ đi làm ăn xa có thể gặp phải?
5.3- Giả thuyết nghiên cứu
- Di d©n mùa vụ của phụ nữ n«ng th«n đóng góp đáng kể vào thu nhập và cải thiện đời sống hộ gia đình.
- Di cư lao động nữ có tác động tiêu cực tới chăm sóc gia đình và giáo dục con cái
6- Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận chung
Đảm bảo nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phân tích hệ thống.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích số liệu định lượng
Xử lý và phân tích thứ cấp dựa trên bộ số liệu nghiên cứu định lượng đã có của cuộc khảo sát “Các hình thức di cư của phụ nữ và thực trạng tác động tới gia đình và bản thân phụ nữ đi làm ăn xa” do Hội LHPN tỉnh Nam Định tiến hành vào tháng 5 năm 2009. Việc sử dụng bộ số liệu này đã được sự đồng ý của thủ trưởng cơ quan Hội LHPN tỉnh Nam Định.
Mẫu nghiên cứu: thực hiện 360 phỏng vấn định lượng, trong đó với 300 bảng hỏi thực hiện phỏng vấn tại 6 xã; Trong đó 3 xã: Xuân Vinh, Xuân Trung, Xuân Châu; thuộc huyện Xuân Trường và 3 xã: Giao Hà, Giao Thanh, Bình Hoà thuộc huyện Giao Thuỷ của Nam Định và 60 bảng hỏi phỏng vấn phụ nữ Nam Định di cư làm ăn tại Hà Nội.
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Luận văn sẽ bổ sung vào các phân tích thứ cấp bằng những phỏng vấn sâu các đối tượng: người di cư, chồng, con, bố mẹ của người phụ nữ di cư để làm rõ hơn cho những phân tích của mình
Số lượng phỏng vấn sâu dự kiến thực hiện: 18 trường hợp phỏng vấn sâu chia đều cho 6 xã.
- Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn: thu thập và phân tích số liệu phát triển kinh tế xã hội và những tài liệu có liên quan tại địa bàn nghiên cứu.
7- Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn bao gồm 3 chương chính:
Chương I: Cơ sở lý luận của nghiên cứu
Chương II: Thực trạng di cư mùa vụ của lao động nữ nông thôn
Chương III: Tác động của di cư
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHIÊN CỨU
1- Các khái niệm có liên quan
1.1- Di cư (Migration) :
Hiện tại, không có một định nghĩa chính xác và cũng không có một mô hình cụ thể nào về di dân trên thế giới. Có quốc gia xác đinh di dân là quá trình con người di chuyển nơi ở và đã đến nơi ở mới từ 5 năm trở lên, quốc gia khác lại cho rằng di cư cần phải chia ra làm hai loại: di cư ngắn hạn và di cư dài hạn. Trong khi một số quốc gia cho rằng phải nhìn nhận di cư như là sự thay đổi nơi cư trú cũng như các đặc trưng kinh tế - văn hoá – xã hội của cả cộng đồng, thì một số quốc gia khác khằng định phải định nghĩa di cư như là quá trình cá nhân thay đổi nơi cư trú và sự biến đổi các giá trị của bản thân để hoà nhập vào một môi trường mới. Hạn chế này là do tính chất phức tạp và sự thay đổi không thể xác định trước của các quá trình biến đổi dân số do di cư gây ra.
Di dân là quá trình phân bố lại lực lượng lao động và dân cư và là nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Có nhiều cách hiểu khác nhau về di dân, tuy nhiên các nhà nghiên cứu thừa nhận rằng:
Theo nghĩa rộng: Di dân là sự chuyển dịch bất kỳ của con người trong một không gian và thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh viễn. Với định nghĩa này di dân đồng nhất với sự di động dân cư.
Theo nghĩa hẹp: Di dân là sự chuyển dịch dân cư từ một vùng lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ khác, nhằm thiết lập một nơi cư trú mới trong một khoảng thời gian nhất định. Định nghĩa này khẳng định mối liên hệ giữa sự di chuyển với việc thiết lập nơi cư trú mới.
Theo Henry S.Shryock, di dân là một hình thức di chuyển về địa lý hay không gian kèm theo sự thay đổi thường xuyên giữa các đơn vị hành chính. Theo ông những thay đổi nơi ở tạm thời, không mang tính lâu dài như thăm viếng, du lịch, buôn bán làm ăn, kể cả qua lại biên giới, không nên phân loại là di dân. Theo tác giả di dân còn phải gắn liền với các quan hệ xã hội của người di chuyển. Tóm lại, di dân là sự di chuyển của người dân theo lãnh thổ với những chuẩn mực về không gian và thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú.
Có nhiều cách phân loại di dân theo các góc độ khác nhau, tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu và những người làm nghiên cứu khác nhau. Cách phân loại chỉ các tính chất tương đối và không tách bạch với nhau. Sau đây là một số cách phân loại cơ bản di dân:
Theo khoảng cách di chuyển: Đây là cách phân loại di dân quan trọng thông qua sự phân biệt di dân xa hay gần giữa nơi đi và nơi đến. Theo địa bàn nơi đi và nơi đến thông thường di dân được chia thành:
. Di dân nông thôn – đô thị
. Di dân nông thôn – nông thôn
. Di dân đô thị - nông thôn
. Di dân đô thị - đô thị
Theo tính chất di dân thì có di dân ép buộc và di dân tự nguyện. Di dân tự nguyện là trường hợp người di chuyển tự nguyện di chuyển theo đúng mong muốn hay nguyện vọng của mình. Trong khi đó, di dân ép buộc diến ra trái với nguyện vọng của người dân.
Theo độ dài thời gian cư trú:
- Di chuyển ổn định: Bao gồm các hình thức thay đổi nơi cư trú thường xuyên và nơi làm việc với mục đích định cư sinh sống lâu dài tại nơi ở mới.
- Di chuyển tạm thời: sự vắng mặt tại nơi ở gốc là không lâu, khả năng quay trở về là chắc chắn.
- Di dân mùa vụ, di chuyển con lắc: là dòng di chuyển của cư dân nông thôn vào thành thị trong những dịp nông nhàn hoặc trong điều kiện thiếu việc làm thường xuyên, việc làm có thu nhập. Hình thái di cư này có xu hướng gia tăng trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển.
Theo đặc trưng di cư: Di cư có tổ chức và di cư tự phát
- Di cư có tổ chức là hình thái di chuyển dân cư được thực hiện theo kế hoạch và các chương trình mục tiêu nhất định do nhà nước, chính quyền các cấp đã vạch ra và tổ chức, chỉ đạo thực hiện với sự tham gia của các tổ chức đoàn thể xã hội.
- Di cư tự phát: hình thái di dân này mang tính cá nhân do bản thân người di chuyển hoặc bộ phận gia đình quyết định, không có và không phụ thuộc vào kế hoạch và sự hỗ trợ của nhà nước và các cấp chính quyền. Di cư tự phát phản ánh tính năng động và vai trò độc lập của cá nhân và hộ gia đình trong việc giải quyết đời sống, tìm công ăn việc làm.
1.2- Gia đình (family):
Gia đình là khái niệm được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở các quan hệ hôn nhân (quan hệ tính giao và quan hệ tình cảm) và quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó (
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUAN VAN NGOC 1.doc