Ngày nay quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang là xu thế chung của nhân loại, không một quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà vẫn có thể phồn vinh được. Trong bối cảnh đó thương mại quốc tế là một lĩnh vực hoạt động đóng vai trò mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy những lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng tiềm năng về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật, kỹ năng quản lý tiên tiến từ bên ngoài, duy trì và phát triển văn hoá dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của văn hoá nhân loại. Báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội lần thứ VIII nhấn mạnh “ Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào các nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. Một trong những thị trường có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển kinh tế thế giới nói chung và kinh tế khu vực nói riêng là Mỹ. Đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này chẳng những tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập, mà còn gia tăng sự phát triển và nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
Đề tài này tập trung làm rõ những vấn đề liên quan đến thị trường Mỹ như : luật pháp, khả năng tiêu thụ, đối thủ cạnh tranh.nhằm góp phần nhỏ giúp các doanh nghiệp dệt may đạt được mục tiêu kinh doanh của mình.
36 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1095 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Ngày nay quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang là xu thế chung của nhân loại, không một quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà vẫn có thể phồn vinh được. Trong bối cảnh đó thương mại quốc tế là một lĩnh vực hoạt động đóng vai trò mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy những lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng tiềm năng về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật, kỹ năng quản lý tiên tiến từ bên ngoài, duy trì và phát triển văn hoá dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của văn hoá nhân loại. Báo cáo chính trị của ban chấp hành Trung ương Đảng tại đại hội lần thứ VIII nhấn mạnh “ Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào các nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. Một trong những thị trường có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển kinh tế thế giới nói chung và kinh tế khu vực nói riêng là Mỹ. Đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này chẳng những tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập, mà còn gia tăng sự phát triển và nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
Đề tài này tập trung làm rõ những vấn đề liên quan đến thị trường Mỹ như : luật pháp, khả năng tiêu thụ, đối thủ cạnh tranh...nhằm góp phần nhỏ giúp các doanh nghiệp dệt may đạt được mục tiêu kinh doanh của mình.
Nội dung
Phần 1:Cơ sở lý luận chung
1. Khái niệm về thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia. Điều kiện để Thương mại quốc tế sinh ra, tồn tại và phát triển là : thứ nhất, có sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá-tiền tệ, kèm theo đó là sự xuất hiện của tư bản thương nghiệp ; thứ hai, có sự ra đời của nhà nước và sự phát triển của phân công lao động quốc tế giữa các nước.
Thương mại quốc tế là hoạt động kinh tế đã có từ lâu đời : dưới chế độ chiếm hữu nô lệ và tiếp đó là chế độ nhà nước phong kiến. Trong các xã hội nô lệ và phong kiến, do kinh tế tự nhiên còn chiếm địa vị thống trị, nên thương mại quốc tế chỉ phát triển với quy mô nhỏ bé. Lưu thông hàng hoá giữa các quốc gia chỉ dừng lại ở một phần nhỏ sản phẩm sản xuất ra và chủ yếu là để phục vụ cho tiêu dùng cá nhân của giai cấp thống trị đương thời. Thương mại quốc tế chỉ thực sự phát triển trong thời đại tư bản chủ nghĩa và trở thành động lực phát triển quan trọng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Ngày nay sản suất đã được quốc tế hoá. Không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển kinh tế mà lại không tham gia vào phân công lao động quốc tế và trao đổi hàng hoá với bên ngoài. Đồng thời, ngày nay Thương mại quốc tế không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là buôn bán với bên ngoài, mà thực chất là cùng với các quan hệ kinh tế đối ngoại khác tham gia vào phân công lao động quốc tế. Do vậy, cần coi thương mại quốc tế không chỉ là một nhân tố bổ sung cho kinh tế trong nước mà còn phải coi sự phát triển kinh tế trong nước phải thích nghi với lựa chọn phân công lao động quốc tế.
Bí quyết thành công trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều nước là nhận thức được mối quan hệ hữu cơ giữa kinh tế trong nước và mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài. Vấn đề quan trọng ở đây, một mặt, là phải khai thác được mọi lợi thế của hoàn cảnh chủ quan trong nước phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế. Mặt khác, phải tính toán lợi thế tương đối có thể dành được và so sánh điều đó với cái giá phải trả. Thuận lợi có thể tạo ra được nhờ tham gia vào buôn bán và phân công lao động quốc tế bao giờ cũng tăng thêm khả năng phụ thuộc bên ngoài. Vì vậy nói đến phát triển thương mại quốc tế và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác là nói đến khả năng liên kết kinh tế, hoà nhập với kinh tế bên ngoài, đòi hỏi có khả năng xử lý thành công mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.
2. Lý thuyết “ lợi thế so sánh” của David Ricardo
Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì một lý do cơ bản là ngoại thương mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của một nước. Nó cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước đó nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán.
Tiền đề xuất hiện sự trao đổi là phân công lao động xã hội. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, phạm vi chuyên môn hoá ngày một tăng. Số sản phẩm cùng dịch vụ để thoả mãn nhu cầu của con người ngày một dồi dào. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày một tăng. Nói khác đi, chuyên môn hoá hàm ngụ nhu cầu mậu dịch và một quốc gia không thể chuyên môn hoá sản xuất nếu không trao đổi với nhau. Các nhà kinh tế học sử dụng thuật ngữ lợi ích của ngoại thương để ám chỉ kết quả của cả hai vấn đề đó.
Quan điểm của David Ricardo : lợi ích thương mại vẫn diễn ra ở những nước có lợi thế tuyệt đối về tất cả các sản phẩm vì các nước này cần phải hy sinh sản lượng kém hiệu quả để sản xuất ra sản lượng có hiệu quả hơn. Hay nói cách khác những lợi ích do chuyên môn hoá và ngoại thương mang lại phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không phải lợi thế tuyệt đối.
Khi một nước có lợi thế tuyệt đối so với nước khác về một loại hàng hoá, lợi ích của ngoại thương là rõ ràng. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu một nước có thể sản xuất có hiệu quả hơn nước kia trong hầu hết các mặt hàng? Hoặc những nước không có lợi thế tuyệt đối nào cả thì chỗ đứng của họ trong phân công lao động quốc tế là ở đâu? và ngoại thương diễn ra như thế nào với những nước này.
Trên thực tế đó là câu hỏi mà David Ricardo đưa ra từ hơn 170 năm về trước, và chính ông đã trả lời câu hỏi đó trong tác phẩm nổi tiếng của mình “Những nguyên lý của kinh tế chính trị,1817”. Trong tác phẩm này David Ricardo đã đưa ra một lý thuyết tổng quát chính xác hơn về cơ chế xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế. Đó là lý thuyết về lợi thế so sánh. Theo David Ricardo cơ chế xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế là:
-Mọi nước đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế. Bởi vì ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước: do chỉ chuyên môn hoá vào sản xuất một số sản phẩm nhất dịnh và xuất khẩu hàng hoá của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu của nước khác.
-Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn nước khác, hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối hơn so với nước khác trong việc sản xuất mọi sản phẩm, thì vẫn có thể và vẫn có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế. Bởi vì mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh về một số mặt hàng. Một nước sẽ có lợi hơn nếu tập trung nguồn lực để sản xuất những sản phẩm có hiệu quả nhất và nhập khẩu những sản phẩm mà việc sản xuất ra chúng là tốn kém hơn.
Ví dụ minh hoạ:
Các giả thiết
Việt nam
Hàn quốc
1. Đơn vị tài nguyên có sẵn
1.000
1.000
2. Đơn vị tài nguyên để sản xuất một tấn lúa gạo
5
4
3. Đơn vị tài nguyên để sản xuất một mét vuông vải
8
5
4. Sử dụng một nửa tài nguyên cho mỗi loại sản phẩm khi không có ngoại thương:
lúa gạo
vải
500
500
500
500
Sản xuất
Vải
Lúa gạo
Không có ngoại thương
Việt Nam
Hàn Quốc
62,5
100
100
125
Tổng cộng
162,5
225
Có ngoại thương( Gia tăng sản xuất vải)
Việt Nam
Hàn Quốc
0
180
200
25
Tổng cộng
180
225
Có ngoại thương( Gia tăng sản xuất lúa gạo)
Việt Nam
Hàn Quốc
0
162,5
200
49,6
Tổng cộng
162,5
249,6
3.Hiệp định thương mại Việt Mỹ
Ngày 13/7/2000, tại Oa-sing-tơn, Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ đã được ký chính thức giữa đại diện thương mại thuộc phủ Tổng thống Hoa Kỳ và Bộ trưởng thương mại Việt Nam. Có thể nói, đây là một Hiệp định thương mại đồ sộ đầu tiên chúng ta tiến hành đàm phán, ký kết với nước ngoài. Ký Hiệp định này là dấu chấm trên chữ “i” trong quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Bởi lẽ Việt Nam và Hoa Kỳ bình thường hoá quan hệ đã 5 năm nhưng chưa hoàn chỉnh. Từ tháng 7/1995 đến nay, quan hệ giữa hai nước với tất cả phức tạp của nó, đã có những bước phát triển ở các lĩnh vực khác nhau, kể cả trong mọi lĩnh vực nhạy cảm như quân sự cũng đã có sự trao đổi. Về thương mại kim ngạch buôn bán từ 222 triệu USD năm 1994 lên 879 triệu USD năm 1999. Đầu tư của Mỹ vào Việt nam đến quý II/2000 đã có 118 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký là 1.479 triệu USD, đứng thứ 9 trong danh sách các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Tuy vậy trong lĩnh vực này còn một điểm khuyết lớn là chưa có hiệp định thương mại, tức là không có một cơ sở pháp lý cho quan hệ kinh tế thương mại. Bây giờ ký Hiệp định thương mại là đã hoàn tất quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, tạo thêm cơ hội mới, thuận lợi mới và cũng đặt ra thách thức mới trong quá trình phát triển kinh tế thương mại của Việt Nam.
Hiệp định thương mại Việt Mỹ khi có hiệu lực thi hành sẽ tác động rất lớn đến khả năng đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Những cơ hội thuận lợi mà hiệp định mang lại là:
*Thuế nhập khẩu bình quân sẽ giảm 30-40% khi Việt Nam đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ.
theo Hiệp định, thuế suất đánh vào hàng hoá của Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ sẽ giảm rất đáng kể, từ mức 40% hiện nay xuống còn 3%. Nhiều chuyên gia kinh tế của Hoa Kỳ và nước ngoài cho rằng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ tăng lên gấp đôi từ mức 500 triệu USD năm 1999 ngay trong năm đầu tiên khi hiệp định được thực hiện, và trong khoảng 2-3 năm tới cứ mỗi năm kim ngạch lại tăng gấp đôi
“ Các bên nỗ lực tìm kiếm nhằm đạt được sự cân bằng thoả đáng về các cơ hội tiếp cận thị trường thông qua việc cùng cắt giảm thoả đáng thuế và các hàng rào phi quan thuế đối với thương mại hàng hoá do đàm phán đa phương mang lại”.
*Môi trường kinh doanh và đầu tư được cải thiện, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư chẳng những của các doanh nghiệp Mỹ, mà còn thu hút vốn đầu tư từ các quốc gia khác
Vì trước khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực, hàng hoá của Việt Nam đưa vào thị trường Mỹ không được hưởng quy chế MFN. Cho nên, nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn sản xuất hàng hoá để xuất khẩu sang Mỹ không muốn đầu tư vào Việt Nam. Nay nếu Hiệp định thương mại được thông qua thì hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Mỹ được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc ( MFN ), thì vấn đề còn lại ở đây là tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư mà ta đã cam kết thực hiện theo tinh thần của Hiệp định là:
-Tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng để đồng vốn đầu tư của các thành phần kinh tế có điều kiện sinh lời như nhau.
-Đơn giản hoá thủ tục và theo lộ trình thì bỏ giấy phép đầu tư, các doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp FDI chỉ đăng ký kinh doanh đầu tư.
-ổn định và đảm bảo tính minh bạch hệ thống pháp lý để xây dựng một môi trường kinh doanh có thể dự đoán trước.
-Tiến tới thực hiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư theo các chuẩn mực quốc tế
*Các rào cản thương mại quốc tế giảm bớt
-“ Ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực và phù hợp với các hạn chế được quy định, tất cả các doanh nghiệp trong nước được phép kinh doanh xuất nhập khẩu mọi hàng hoá”
-“ Các bên sẽ loại bỏ tất cả các hạn chế, hạn ngạch, yêu cầu cấp giấp phép, kiểm soát xuất khẩu và nhập khẩu đối với mọi hàng hoá và dịch vụ”
-Xây dựng cơ chế quản lý xuất nhập khẩu mang tính dài hạn và công khai hoá các chính sách cơ chế để giúp cho các doanh nghiệp xây dựng chiến lược dài hạn thâm nhập thị trường thế giới trong đó có Mỹ.
*Mở rộng và thúc đẩy thương mại
“ Mỗi bên khuyến khích và tạo thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại như hội chợ, triển lãm, trao đổi các phái đoàn và hội thảo thương mại tại lãnh thổ nước mình và lãnh thổ của bên kia. Tương tự, mỗi bên khuyến khích và tạo thuận lợi cho các công dân và công ty của nước mình tham gia vào các hoạt động đó. Tuỳ thuộc vào luật pháp hiện hành tại lãnh thổ của mình, các bên đồng ý cho phép hàng hoá sử dụng trong các hoạt động xúc tiến đó được nhập khẩu và tái xuất khẩu mà không phải nộp thuế xuất nhập khẩu, với điều kiện hàng hoá đó không được bán hoặc chuyển nhượng dưới hình thức khác.
*Hiệp định thương mại Việt Mỹ có hiệu lực, Quyền sở hữu trí tuệ được coi trọng và được bảo vệ
“ Mỗi bên dành cho công dân của bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà bên đó dành cho công dân của mình trong việc xác lập bảo hộ, hưởng và thực thi tất cả các quyền sở hữu trí tuệ và mọi lợi ích có được từ các quyền đó”. Điều này sẽ tạo ra động lực kích thích mỗi doanh nghiệp Việt Nam đầu tư để tạo lập những thương hiệu nổi tiếng, đây là cơ sở để hàng hoá Việt Nam có chỗ đứng vững chắc và tạo thói quen tiêu dùng hàng Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Phần II: Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may
Vào thị trường mỹ
Chương I
Khái quát về nước mỹ
I.Nước Mỹ
Mỹ là một quốc gia có lịch sử hình thành non trẻ. Nước Mỹ có diện tích khoảng 9,3 triệu km2 , là nước có diện tích lớn thứ 4 trên thế giới. Mỹ nằm ở trung tâm chau lục Bắc Mỹ: phía bắc giáp Canada, phía nam giáp Mêhicô, phía đông giáp Đại Tây Dương và phía tây giáp Thái Bình Dương.
Dân số của Mỹ vào khoảng 280 triệu người chiếm khoảng 5% dân số thế giới, mật dộ dân số khoảng 30 người/km2. Đây là nước đông dân thứ ba trên thế giới, có nền văn hoá đa dạng phong phú, đại đa số là dân da trắng ( chiếm gần 80% dân số ), số còn lại là da màu.
Về tôn giáo: 61% dân Mỹ theo đạo tin lành, 25% Thiên Chúa Giáo, 2% Do Thái, 5% các tôn giáo khác, 7% không theo đạo.
Về ngôn ngữ: chủ yếu nói tiếng Anh , một số ít nói tiếng Tây Ba Nha.
Nước Mỹ là một liên bang gồm 50 bang và một nhóm các đảo nằm ở Thái Bình Dương.
II.Nền kinh tế Mỹ
Đầu và khoảng giữa thế kỷ thứ 20, nền kinh tế Châu Âu, Châu á trong đó có Nhật Bản bị tàn phá nặng nề do hậu quả của hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai. Trong khi đó nền kinh tế Mỹ lại phát triển mạnh, giàu có lên nhờ chiến tranh: do bán vũ khí , lương thực, thực phẩm, do được tư bản của cải ở các châu lục khác chuyển tới cất dấu trong chiến tranh...kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai năm 1945, GNP của nước Mỹ chiếm đến 42% GNP của toàn cầu, lúc bấy giờ trong thế giới tư bản Mỹ chiếm 54,6% tổng sản lượng công nghiệp, 24% xuất khẩu và 74% dự trữ vàng. Với sức mạnh tuyệt đối về kinh tế sau chiến tranh Mỹ bỏ vốn lớn để thành lập các tổ chức tài chính tiền tệ như Quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF); Ngân hàng tái kiến thiết và phát triển quốc tế ( Ngân hàng thế giới-WB ). Ngoài ra nhiều tổ chức kinh tế như WTO, UNDP, UNIDO...cũng được sự tài trợ và chịu sự khống chế của Mỹ. Do đó Mỹ có sức chi phối rất lớn đối với nền kinh tế toàn cầu.
1. Về tài chính:
Nửa thế kỷ qua, nước Mỹ duy trì sức mạnh và khả năng tự do chuyển đổi của đồng đô la Mỹ: gần 50% tổng lưu lượng thanh toán và đầu tư quốc tế thực hiện qua đồng tiền này. Ngoài ra Mỹ duy trì sự thống trị thị trường tài chính tiền tệ thế giới thông qua sự phát triển nhanh thị trường chứng khoán: trị giá giao dịch qua thị trường chứng khoán Mỹ năm 2000 khoảng 14000 tỷ USD so với 2,5 ngàn tỷ của các nước NICs. Cùng với EU, Nhật, Mỹ là một trong ba chủ đầu tư lớn nhất toàn cầu. Tất cả các yếu tố trên cho phép Mỹ nắm và ảnh hưởng đến hoạt động tài chính của toàn cầu.
2. Về công nghiệp:
*Công nghiệp năng lượng
Đây là thế mạnh của Mỹ, có sức phát triển hàng đầu thế giới, chủ yếu là dầu mỏ, khí đốt, than, t huỷ điện, uranium. Dầu mỏ khai thác chủ yếu ở các bang Texas, California, Louisana. Lượng dầu khai thác trong nước dấp ứng 50% nhu cầu. Khí đốt khai thác ở các bang miền nam và California. Các mỏ than có dự trữ lớn nằm ở Apalaches cung cấp gần 2/5 sản lượng than dùng trong cả nước. Ngoài ra Mỹ còn là nước sản xuất nhiều điện nhất thế giới ( khoảng 2800 tỷ kwh, trong đó 1/2 là nhiệt điện ).
+Thuỷ điện: Mỹ đứng thứ hai thế giới sau Canada. Các nhà máy thuỷ điện trước đây phát triển dọc theo các thác nước ở sườn đông dãy Appalache với quy mô trung bình, nay đã nhường chỗ cho các đập thuỷ điện ở miền Tây lưu vực sông Colarado và Columbia.
+Năng lượng nguyên tử: Mỹ đứng đầu thế giới với công suất khoảng 67,1 triệu kw( bằng 1/10 công suất của toàn bộ các nguồn điện năng ). Ngoài ra còn có năng lượng mặt trời, gió.
*Công nghiệp chế tạo
Giá trị của khu vực công nghiệp này khoảng 1000 tỷ USD/năm. Nếu tính cả các công ty Mỹ đầu tư ở nước ngoài thì tổng sản phẩm của ngành công nghiệp chế tạo lên đến ẵ tổng sản phẩm công nghiệp toàn thế giới. Ngành chế tạo hàng không, điện tử, tin học, nguyên tử, vũ trụ, hoá chất...là các ngành công nghiệp mũi nhọn của Mỹ. Ngoài ra còn công nghiệp luyện kim, công nghiệp dệt, xe hơi...vi điện tử ở Texas, chế tạo ô tô ở Tennessee, máy bay ở Seattle, Los Angeles, tàu vũ trụ ở Houston.
3. Về nông nghiệp:
Nước Mỹ có nền nông nghiệp rất phát triển: Nhờ có diện tích lãnh thổ rộng lớn, có nhiều miền khí hậu thuận lợi, công nghệ sinh học phát triển khả năng ứng dụng cao; Chính phủ Mỹ hàng năm giành trên 10 tỷ USD tài trợ cho phát triển nông nghiệp. Chính vì vậy tất cả các ngành nông nghiệp của Mỹ: Trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, chế biến nông sản đều rất phát triển; Xuất khẩu nông sản năm 2000 mang về cho nước Mỹ trên 46 tỷ USD, Mỹ đứng đầu thế giới về xuất khẩu lúa mỳ, bắp, thịt các loại...đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu gạo, thuỷ sản, nước trái cây..
4. Về các loại dịch vụ:
Ngoài dịch vụ tài chính, Mỹ cũng chi phối các loại hình dịch vụ khác trên thế giới như: dịch vụ điện tử thương mại, dịch vụ du lịch, dịch vụ vận tải hàng không, dịch vụ vận tải biển...Mỗi loại hình dịch vụ chiếm từ 7-22% thị phần dịch vụ quốc tế, hàng năm mang lại doanh thu cho đất nước hàng ngàn tỷ USD. Theo dự đoán, đến năm 2010 thu nhập từ dịch vụ chiếm đến 93% GDP của Mỹ.
5. Về chính sách đối ngoại:
Chính phủ Mỹ không chủ trương ưu tiên thúc đẩy nhanh tiến trình toàn cầu hoá và tự do hoá trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng thương mại, dịch vụ...bằng cách xây dựng Hệ thống thương mại và thị trường thế giới trên cơ sở các nguyên tắc, sáng kiến của Mỹ. Các nguyeen tắc và sáng kiến này được thể chế hoá bằng các Hiệp định của WTO. Mỹ dùng cơ chế của WTO để buộc các nước thực hiện các cam kết song phương và đa phương. Mở cửa thị trường của mình, đặc biệt mở cửa các lĩnh vực Mỹ có lợi thế cạnh tranh hoặc Mỹ độc quyền. Cho đến thời điểm này tháng 3/2001, Mỹ đã ký khoảng 280 Hiệp định thương mại song phương, đa phương và các Hiệp định chuyên ngành. Việc thực hiện các Hiệp định này đảm bảo sự thuận lợi hơn cho sự bành trướng và duy trì vị trí số 1 của nền kinh tế Mỹ trên thế giới.
Chương II:
Cơ chế và các bộ phận của cơ chế quản lý
hàng nhập khẩu dệt may của Mỹ
Hoạt động nhập khẩu hàng hoá vào Mỹ chịu sự điều tiết bởi hệ thống luật chặt chẽ, chi tiết. Chính phủ Mỹ thông qua 5 cơ quan cơ bản để điều tiết nền ngoại thương của Mỹ, đó là:
1.Hệ thống luật cơ bản điều tiết hoạt động nhập khẩu vào Mỹ
*Luật thuế suất năm 1930: Luật này ra đời nhằm điều tiết hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ, bảo vệ chống lại việc nhập khẩu hàng hoágiả, luật này quy định mức thuế rất cao đối với hàng nhập khẩu. Đến nay nhiều điều khoản của luật này vẫn còn hiệu lực song thuế suất đã được sửa đổi nhiều lần và hạ xuống nhiều.
*Luật buôn bán năm 1974: Luật này định hướng cho các hoạt động buôn bán. Luật có nhiều điều khoản cho phép đền bù tổn thất cho các ngành công nghiệp Mỹ bị cạnh tranh bởi hàng nhập khẩu. Đạo luật này gây ra nhiều bất lợi cho hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ vì hàng hoá của Mỹ đã được chính phủ đứng sau lưng bảo hộ.
*Hiệp định buôn bán năm 1979: Bao gồm các điều khoản về sự bảo hộ của chính phủ về các chướng ngại kỹ thuật trong buôn bán, các sửa đổi thuế bù trừ và thuế chống hàng thừa, ế- một loại thuế đánh vào các loại hàng hoá bị cho là có trợ giá hoặc bán phá giá. Hiệp định này được thông qua nhằm mục đích thực hiện một số bộ luật được thương lượng tại Vòng đàm phán Tokyo của GATT.
*Luật tổng hợp về buôn bán và cạnh tranh năm 1988: Luật này uỷ nhiệm tổng thống Mỹ tham gia Vòng đàm phán Uruguay đồng thời thiết lập thủ tục đặc biệt ( super 301 ) cho phép Mỹ áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với các quyết định không chịu mở cửa cho hàng hoá Mỹ vào và vi phạm Quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ.
2.Một số tổ chức liên quan tới luật thương mại
Luật thương mại của Mỹ được thi hành bởi nhiều tổ chức, cơ quan nhưng chủ yếu là những cơ quan sau:
*Uỷ ban thương mại quốc tế ( ICC ) và phòng thương mại quốc tế (ITA). Đây là cơ quan có liên quan đến việc quy định có đánh thuế hàng thừa, ế hay không. Trong một vụ xử kiện chống hàng thừa,ế, ITA xác định hàng nhập khẩu có bị bán phá giá hay không còn ITC tiến hành giám định sự tổn hại của việc bán phá giá cho công nghiệp bản xứ.
*Đại diện thương mại Mỹ (USTR): Được thành lập theo luật buôn bán năm 1974, là nơi tiếp xúc của những người muốn điều tra về các vi phạm Hiệp định thương mại.
*Cơ quan quản lý thực phẩm và thuốc men ( FDA ): Là cơ quan kiểm tra và bảo đảm chất lượng thực phẩm, thuốc men nhập vào Mỹ.
*Cơ quan bảo vệ moi trường ( EPA ): Là cơ quan thiết lập và giám sát các tiêu chuẩn chất lượng không khí, nước, ban hành các quy định về chất thải...
*Cục Hải quan Mỹ ( USCD ): Là cơ quan thuộc bộ Ngân khố có nhiệm vụ tính thuế và thu lệ phí đánh vào hàng nhập khẩu, thi hành các luật và hiệp ước thương mại, chống buôn lậu và khai gian.
3.Thuế nhập khẩu hàng hoá vào Mỹ
a.Biểu thuế nhập khẩu: [4; 25]
*Thuế quan theo giá: Dựa trên phần trăm giá trị đã xác định của hàng hoá được nhập.
*Thuế theo lượng: Là thuế đánh theo trọng lượng hay dung tích hàng hoá, một số lượng quy định trên trọng lượng đơn vị hoặc các số đo khác về số lượng.
*Thuế hỗn hợp: Là thuế quan theo lượng và theo giá ( đánh trên trọng lượng cộng thêm phần trăm của giá trị ).
b.Hạn ngạch thuế quan:
Mỹ áp dụnh hạn ngạch để kiểm soát về khối lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định. Phần lớn hạn ngạch nhập khẩu do Cục Hải quan quản lý và chia làm hai loại:
*Hạn ngạch thuế quan: quy định số lượng đối với loại hàng nào đó được nhập khẩu vào Mỹ được hưởng mức thuế thấp trong một thời gian nhất định, nếu vượt sẽ bị đánh thuế cao.
*Hạn ngạch tuyệt đối: là hạn ngạch về số lượng cho một chủng loại hàng hoá nào đóđược nhập khẩu vào Mỹ trong một thời gian nhất định, nếu vượt sẽ không được phép nhập khẩu. Có hạn ngạch tuyệt đối mang tính toàn cầu, nhưng có hạn ngạch tuyệt đối chỉ áp dụng đối với từng nước riêng biệt.
c.áp mã thuế nhập khẩu
Luật pháp Mỹ cho chủ hàng được chủ động xếp ngạch thuế cho các mặt hàng nhập và nộp thuế theo kê khai, do đó người nhập hàng cần phải hiểu nguyên tắc xếp loại.
Đối với vải khi xếp loại sẽ áp dụng nguyên tắc cân lượng. Ví dụ, vải được dệt từ hai loại sợi cotton và polyester.
d.Định giá tính thuế hàng nhập khẩu
Nguyên tắc chung là đánh thuế theo giá giao dịch, nhưng giá giao dịch ở đây không phải là giá trên hoá đơn mà phải cộng thêm nhiều chi phí khác như: tiền đónggói; tiền hoa hồng cho trung gian nếu người mua phải trả; tiền lệ phí bản quyền...Ngoài ra giá giao dịch để đánh thuế không tính vận chuyển và phí bảo hiểm lô hàng.
Tuy nhiên có nhiều trường hợp phải dùng các nguyên tắc định giá khác, đó là:
-Định giá theo món hàng giống hệt hoặc tương tự
-Tính giá suy ngược, nghĩa là lấy giá bán lẻ trên thị trường trừ đi các chi phí để tính ra giá nhập khẩu.
-Xác định giá thành, nghĩa là tính toán các chi phí sản xuất ra món hàng để suy ra giá gần với giá nhập khẩu.
-Biện pháp tổng hợp nhiều yếu tố để suy ra giá nhập nhưng ít được sử dụng.
4.Quy định về xuất xứ hàng nhập khẩu đưa vào Mỹ
Việc xác định xuất xứ rất quan trọng vì hàng nhập khẩu ở những nước đang phát triển hoặc những nước đã ký hiệp định thương mại với Mỹ sẽ được hưởng thuế suất thấp hơn.
Xuất xứ của mặt hàng được xác định theo nguyên tắc biến đổi phần lớn về giá trị, và được định nghĩa như sau: sản phẩm được xác định vào nước gốc là nước cuối cùng sản xuất ra sản phẩm với du lịch sản phẩm đã biến dạng để mang tên mới và có đặc tính sử dụng mới. Khi xuất khẩu vào Mỹ, muốn được hưởng thuế suất ưu đãi theo nước bản xứ, luật Mỹ quy định trên sản phẩm phải ghi nhãn của nước xuất xứ. Sản phẩm xuất xứ từ Việt Nam phải ghi Made in Việt Nam. Quy định này chỉ bắt buộc với sản phẩm hoàn chỉnh.
Có một quy định đặc biệt là hàng hoá gốc từ Mỹ đưa sang nước khác để sắp xếp lại, gia công thêm và đóng gói khi nhập khẩu trở lại Mỹ sẽ không phải đóng thuế nhập khẩu cho phần nguyên liệu có gốc từ Mỹ.
5.Quy định về nhãn hiệu hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ
Quy dịnh: mọi hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ ngoại quốc phải ghi rõ ràng, không tẩy xoá được, ở chỗ dễ nhìn thấy được trên bao bì xuất nhập khẩu. Tên người mua cuối cùng ở Mỹ, tên bằng tiếng Anh nước xuất xứ hàng hoá đó. Hàng tới tay người mua cuối cùng thì trên các bao bì, vật dụng chứa đựng bao bì của hàng hoá cũng phải ghi rõ nước xuất xứ của hàng hoá bên trong.
Luật pháp Mỹ quy định: các nhãn hiệu hàng hoá phải được đăng ký tại cục Hải quan Mỹ. Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng ký bản quyền đều bị cấm nhập khẩu vào Mỹ. Bản sao đăng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61320.doc