ở Hà Nội, mặc dù nông nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng dưới 3% GDP trong nền kinh tế, nhưng ngoại thành với hơn 90% diện tích tự nhiên, số dân trên 1.3 triệu người, chiếm hơn 46% dân số toàn thành nên nông nghiệp nông thôn có vị trí đặc biệt quan trong sự thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế, giữ vững sự ổn định chính trị và đảm bảo môi trường sinh thái cho thành phố. Vì vậy trong những năm qua Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân và các cấp, các ngành thành phố Hà Nội đã coi trọng phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn ngoại thành và có nhiều biện pháp để thúc đẩy nông nghiệp nông thôn phát triển. Tuy nhiên hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn vẫn còn nhiều điều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, là thách thức và cản trở lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn ngoại thành. Từ thực trạng này đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực hơn nữa để nhanh chóng khắc phục những mặt yếu kém của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, góp phần vào công cuộc xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân toàn thành phố, thực hiện mục tiêu:"Phát triển nông nghiệp và kinh tế ngoại thành theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái. Thủ đô Hà Nội phải đi đầu trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn"
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn đối với quá trình phát triển kinh tế -xã hội ở nông thôn , tôi chọn đề tài: " Đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp, nông thôn ngoại thành hà Nội "
Trong khuôn khổ đề tài này chỉ đề cập đến hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, có tác động trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp như hệ thống thuỷ lợi, giao thông nông thôn, điện nông thôn,nước sạch nông thôn
Nôi dung của đề tài gồm các vấn đề sau đây:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư phát triển, sản xuất nông nghiệp và hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn.
Chương II: Nêu lên thực trạng đầu tư cho hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật thời gian qua ở ngoại thành Hà Nội và những vấn đề còn tồn tại.
Chương III: Nêu ra những phương hướng, mục tiêu và giải pháp thúc đẩy đầu tư cho nông nghiệp nông thôn ngoại thành
85 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1098 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp, nông thôn ngoại thành Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
lời nói đầu
Chương I: khái quát chung về đầu tư và kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn.
I.Lý luận chung về đầu tư
1. Một số vấn đề cơ bản về đầu tư
2. Vai trò của đầu tư
2.1 đầu tư vừa tác động đến tổng cầu, vừa tác động đến tổng cung
2.2 đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế
2.3đầu tư có tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế
2.4 đầu tư góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
3. Nguồn vốn cho đầu tư
4. Nội dung của vốn đầu tư
5. Kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư.
II. Một số vấn đề cơ bản về nông nghiệp nông thôn
1. Một số vấn đề về nông nghiệp
1.1 Vai trò của nông nghiệp
1.2 Đặc điểm
2. Vai trò và đặc trưng của vùng nông thôn
2.1 đặc trưng của vùng nông thôn
2.2 Vai trò kinh tế của vùng nông thôn
III. Bản chất đặc điểm vai trò của vùng nông thôn
1. Bản chất hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn
2. Vai trò của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn
3. Những đặc điểm chủ yếu của việc xây dựng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn.
4. Đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng ký thuật nông thôn.
4.1 Hệ thống thuỷ lợi
4.2 Hệ thống giao thông
4.3 Hệ thống điện nông thôn
4.4 Hệ thống bưu chính viễn thông
4.5 Các hệ thống khác
Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn ngoại thành Hà Nội
I. Tình hình đầu tư cho nông nghiệp nông thôn
II Thực trạng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông thôn
1. đầu tư cho thuỷ lợi
2. đầu tư cho giao thông nông thôn
3. đầu tư cho điện nông thôn
4. đầu tư cho các lĩnh vực khác
III. Kết quả và hiệu quả đầu tư
1. Kết quả đầu tư
1.1 thuỷ lợi
1.2. giao thông nông thôn
1.3. điện nông thôn
1.4. các lĩnh vực khác
2. Hiệu quả kinh tế xã hội đạt được
3. Những vấn đề còn tồn tại
Chương III: Quan điểm, mục tiêu, phương hướng, giải pháp cho phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn trong những năm tới
I. Quan điểm
2. phương hướng phát triển
3. Dự tính nguồn vốn
II. Các giải pháp tạo vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn
4.1 Tạo vốn bằng thu từ đất công ích
4.2 Huy động sức dân để đóng góp
4.3 Huy động tổng lực với phương châm "nhà nước và nhân dân cùng làm"
4.4 Dựa vào nội lực, phát huy các nguồn lực bên ngoài
III.Các giải pháp đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn giai đoạn 2001-2010.
1. Đẩy mạnh công tác qui hoạch
2.Đổi mới chính sách và giải pháp vốn đầu tư
3. Quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư
4. Khuyến khích chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ
5. Đào tạo nguồn nhân lực
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Lời nói đầu
ở Hà Nội, mặc dù nông nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng dưới 3% GDP trong nền kinh tế, nhưng ngoại thành với hơn 90% diện tích tự nhiên, số dân trên 1.3 triệu người, chiếm hơn 46% dân số toàn thành nên nông nghiệp nông thôn có vị trí đặc biệt quan trong sự thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế, giữ vững sự ổn định chính trị và đảm bảo môi trường sinh thái cho thành phố. Vì vậy trong những năm qua Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân và các cấp, các ngành thành phố Hà Nội đã coi trọng phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn ngoại thành và có nhiều biện pháp để thúc đẩy nông nghiệp nông thôn phát triển. Tuy nhiên hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn vẫn còn nhiều điều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, là thách thức và cản trở lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông thôn ngoại thành. Từ thực trạng này đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực hơn nữa để nhanh chóng khắc phục những mặt yếu kém của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, góp phần vào công cuộc xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân toàn thành phố, thực hiện mục tiêu:"Phát triển nông nghiệp và kinh tế ngoại thành theo hướng nông nghiệp đô thị sinh thái. Thủ đô Hà Nội phải đi đầu trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn"
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn đối với quá trình phát triển kinh tế -xã hội ở nông thôn , tôi chọn đề tài: " Đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp, nông thôn ngoại thành hà Nội "
Trong khuôn khổ đề tài này chỉ đề cập đến hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, có tác động trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp như hệ thống thuỷ lợi, giao thông nông thôn, điện nông thôn,nước sạch nông thôn…
Nôi dung của đề tài gồm các vấn đề sau đây:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư phát triển, sản xuất nông nghiệp và hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn.
Chương II: Nêu lên thực trạng đầu tư cho hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật thời gian qua ở ngoại thành Hà Nội và những vấn đề còn tồn tại.
Chương III: Nêu ra những phương hướng, mục tiêu và giải pháp thúc đẩy đầu tư cho nông nghiệp nông thôn ngoại thành
chương I
Khái quát chung về đầu tư và kết cấu hạ tầng nông nghịêp nông thôn
1. Một số vấn đề cơ bản về đầu tư và đầu tư phát triển
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến
hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định
trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các
kết quả đó.
Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao
động và trí tuệ.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính
(tiền vốn), tài sản vật chất(nhà máy, đường xá…),tài sản trí tuệ
trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và các
nguồn lực có đủ các điều kiện để làm việc có năng suất trong
nền sản xuất xã hội.
Trong những kết quả đã đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy sinh các nguồn lực là các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội được hưởng thụ.
Tuy nhiên, nếu xem xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả các hoạt động đầu tư đều đem lại lợi ích cho nền kinh tế và được coi là đầu tư của nền kinh tế. Các hoạt động như gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần và hàng hoá… thực chất là việc chuyển giao quyền sử dụng từ người này sang người khác còn tài sản của nền kinh tế không có sự thay đổi trực tiếp. Chỉ những hoạt động làm tăng thêm các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực cho nền kinh tế mới được xem là đầu tư phát triển hay đầu tư trên giác độ nền kinh tế.
Mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được những kết quả lớn hơn so với những hy sinh mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Đối với từng cá nhân, đơn vị, đầu tư là điều kiện quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ. Đối với nền kinh tế, đầu tư là yếu tố quyết định sự phát triển nền sản xuất xã hội, là chìa khoá của sự tăng trưởng.
2. Vai trò của đầu tư phát triển
2.1 Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu
Về mặt cầu: đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của nền kinh tế. Theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng kéo sản lượng cân bằng tăng theo và giá cả của các đầu vào đầu tư cũng tăng.
Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng lên do đó giá cả sản phẩm giảm. Sản lượng tăng giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
2.2 Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của hàng hoá có liên quan tăng( giá chi phí vốn, lao động, vật tư) đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan, sản xuất của ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược lại với các tác động trên đây. Vì vậy trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết các tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
2.3 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: Muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức độ trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15-20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
ở các nước phát triển, ICOR thường lớn từ 5-7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR thường thấp từ 2-3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động và thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ.
Kinh nghiệm ở các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của các chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp
ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất. Do đó ở các nước đang phát triển, tỷ lệ đầu tư thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp.
Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến.
Thực vậy, ở nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một "cái hích ban đầu" tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế.
2.4 Đầu tư góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn ( từ 9-10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông -lâm -ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và những khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng 5-6% là rất khó khăn. Như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế về tài nguyên, địa thế, kinh tế chính trị… của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
2.5 Đầu tư góp phần tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và khả năng công nghệ của đất nước ta hiện nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO nếu chia quá trình phát triển công nghệ của thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt nam năm 1990 ở vào giai đoạn 1 và 2. Việt Nam đang là 1 trong 90 nước có trình độ công nghệ kém nhất thế giới. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.
Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phướng án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
3. Nguồn vốn đầu tư
Vốn đầu tư được hình thành từ hai nguồn cơ bản. Đó là vốn huy động từ trong nước và vốn đầu tư nước ngoài.
vốn đầu tư trong nước được huy động từ các nguồn sau đây:
- vốn tích luỹ từ ngân sách
- vốn tích luỹ của các doanh nghiệp
- vốn tiết kiệm của dân cư
Xét về lâu dài thì nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn vinh chắc chắn và không phụ thuộc phải là nguồn vốn đầu tư trong nước.
Các nước ASEAN và NICs Đông á đều nhận thức được rằng nguồn vốn đầu tư chủ yếu dựa vào tích luỹ trong nước và do đó đã thực hiện các chính sách và biện pháp để phát triển kinh tế, nhằm tăng nhanh tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, khuyến khích tiết kiệm.
Khối lượng vốn đầu tư trong nước có thể huy động được phụ thuộc vào các nhân tố sau đây:
- Qui mô và tốc độ tăng GDP
- Quan hệ tích luỹ và tiêu dùng của nhà nước, ở các nước chậm phát triển, tỷ lệ tích luỹ thấp, tỷ lệ tiêu dùng cao
-Tiền tiết kiệm của dân cư, ở nhiều nước tiết kiệm của dân cư chiếm một bộ phận lớn, với một tỷ lệ ngày càng tăng trong tổng các khoản tiết kiệm của nhà nước. Mức tiết kiệm của dân cư một mặt phụ thuộc vào mức thu nhập của họ, mặt khác tuỳ thuộc vào mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm và chính sách ổn định tiền tệ của nhà nước.
Nguồn vốn huy động từ nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp.
+vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý và tham gia quản lý hoặc tham gia quá trình quản lý sử dụng và thu hồi vốn đã bỏ ra.
+ vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới hình thức không hoàn lại, có hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp, vốn viện trợ chính thức của các nước công nghiệp phát triển(ODA)
Đối với các nước nghèo, để phát triển kinh tế và từ đó thoát ra cảnh nghèo thì một vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn gay gắt và từ đó dẫn tới thiếu nhiều thứ khác cần thiết cho sự phát triển như công nghệ, cơ sở hạ tầng… Do đó trong những bước đi ban đầu, để tạo ra được "cái hích" đầu tiên cho sự phát triển, để có được tích luỹ từ ban đầu trong nước cho đầu tư phát triển kinh tế không thể không huy động vốn từ nước ngoài. Không có một nước chậm phát triển nào trên con đường phát triển lại không tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là trong điều kiên kinh tế mở.
Để thu hút nhanh các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, cần tạo một môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư như cung cấp cơ sở hạ tầng, dịch vụ, có luật đầu tư ưu đãi, lập các khu chế xuất …
4. Nội dung của vốn đầu tư
Nội dung của vốn đầu tư bao gồm các khoản mục chi phí gắn liền với nội dung của hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư phát triển chính là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật và thực hiện các chi phí gắn liền với sự hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tái sản xuất thông qua các hình thức xây dựng nhà cửa, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản khác, thực hiện các chi phí gắn liền với sự ra đời và hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật đó.
Xuất phát từ nội dung hoạt động đầu tư phát triển, để tạo thuận lợi cho công tác quản lý việc sử dụng vốn đầu tư nhằm đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất, có thể phân chia vốn đầu tư thành các khoản mục sau đây:
+Những chi phí tạo tài sản cố định( mà sự biều hiện bằng tiền là vốn cố định)
+Những chi phí tạo tài sản lưu động( mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn lưu động) và các chi phí thường xuyên gắn với một chu kì hoạt động vừa được tạo ra.
+Những chi phí chuẩn bị đầu tư chiếm khoảng 0.3-15% vốn đầu tư
+ Chi phí dự phòng
5.Kết quả và hiệu quả đầu tư
5.1 Kết quả của hoạt động đầu tư
Kết quả của hoạt động đầu tư được thể hiện ở khối lượng vốn đầ tư đã được thực hiện, ở các tài sản cố định được huy động hoặc năng lực sản xuất kinh doanh phục vụ tăng thêm
Khối lượng vốn đầu tư thực hiện bao gồm tổng số tiền đã chi
để tiến hành các hoạt động của công cuộc đầu tư bao gồm các chi phí cho công tác chuẩn bị đầu tư, xây dựng nhà cửa và các cấu trúc hạ tầng, mua sắm thiết bị máy móc, để tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và chi phí khác theo qui định của thiết kế dự toán và được ghi trong dự án đầu tư được duyệt.
Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình đối tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập (làm ra sản phẩm, hàng hoá hoặc tiến hành các dịch vụ cho xã hội đã được ghi trong dự án đầu tư) đã kết thúc quá trình xây dựng mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng, có thể đưa vào hoạt động được ngay.
Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất phục vụ các tài sản cố định đã được huy động vào sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ theo qui định được ghi trong dự án.
5.2 Hiệu quả của hoạt động đầu tư
Hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư(Etc) của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ trên cơ sở vốn đầu tư mà cơ sở đã sử dụng so với các kì khác, các cơ sở khác hoặc so với định mức chung. Chúng ta có thể biểu hiện khái niệm này thông qua công thức sau đây:
Các kết quả mà cơ sở đạt được do thực hiện đầu tư
Etc=--------------------------------------------------------------
Số vốn đầu tư đã thực hiện để tạo ra các kết quả trên
Etc có hiệu quả khi Etc >Etco
Trong đó:
Etco là chỉ tiêu hiệu quả tài chính định mức, hoặc của các kì khác mà cơ sở đã đạt được chọn làm cơ sở so sánh hoặc của đơn vị khác đã đạt tiêu chuẩn hiệu quả.
Các kết quả do hoạt động đầu tư đem lại cho cơ sở rất đa dạng, và là điều tất yếu của quá trình thực hiện đầu tư. Các kết quả đó có thể là lợi nhuận thuần, là mức tăng năng suất lao động, là số lao động có việc làm do hoạt động đầu tư tạo ra, là mức tăng thu nhập cho người lao động của cơ sở hạ tầng sở thực hiện đầu tư.
Do đó để phản ánh hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư người ta phải sử dụng hệ thống các chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của hiệu quả và được sử dụng trong những điều kiện nhất định. Trong đó chỉ tiêu bằng tiền được sử dụng rộng rãi.
II. Một số vấn đề về nông nghiệp nông thôn
1. Một số vấn đề cơ bản về nông nghiệp
1.1 Vai trò của nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất hết sức quan trọng của nền kinh tế nói chung và của nền kinh tế nông thôn nói riêng.
Nông thôn có phát triển được hay không trước tiên phụ thuộc vào sự phát triển của nông nghiệp, dù đó là nông thôn của nước đang phát triển hay nước phát triển.
Trước tiên nông nghiệp cung cấp những nông sản lương thực, thực phẩm cơ bản và thiết yếu cho con người mà nếu thiếu nó sẽ có ảnh hưởng không chỉ về mặt phát triển kinh tế mà còn ảnh hưởng cả về mặt xã hội và chính trị.
Thứ hai, nông nghiệp sản xuất ra nguyên liệu cho hàng loạt
ngành công nghiệp phát triển như công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp dệt may, công nghiệp chế biến đồ gỗ… mà
nếu không phát triển tốt sẽ ảnh hưởng nhiều đến xuất khẩu và hàng tiêu dùng.
Thứ ba, nông nghiệp góp phần vào tăng thu nhập và tích luỹ của nền kinh tế quốc dân, thông qua cung cấp nông sản phẩm, thuế, xuất khẩu nông sản phẩm. Điều này dặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển, đi lên từ nông nghiệp.
Thứ tư, nông nghiệp và nông thôn là nơi có nguồn lao động dồi dào, mà qua tăng năng suất lao động, có thể giải phóng lao động phục vụ cho các ngành kinh tế khác. Đồng thời đó là thị trường rộng lớn để tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp dịch vụ tạo cho nền kinh tế chung phát triển
Thứ năm, nông nghiệp và nông thôn trải ra trên địa bàn rộng lớn ở các vùng trên đất nước, nếu phát triển tốt sẽ góp phần quan trọng để bảo vệ môi trường sinh thái. Nguợc lại nếu phát triển không tốt sẽ gây ô nhiễm môi trường
1.2 Đặc điểm
Sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
+Sản xuất nông nghiệp gắn với cơ thể sống động vật, thực vật mà sự phát triển của nó phải tuân theo qui luật sinh học và phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên như đất đai, thời tiết, khí hậu thuỷ lợi thuỷ văn… việc bố trí sản xuất trồng cây gì, nuôi con gì để có năng suất cao chất lượng tốt là phải phù hợp với điều kiện tự nhiên và các yếu tố sản xuất đầu vào như: giống, phân bón,nước. Thường nông nghiệp tái sản xuất ra giống, từ đó phải chú ý đến chọn lọc, bồi dục, lai tạo để tạo ra những giống tốt. Việc nhập giống bên ngoài vào phải qua quá trình chọn lọc, thử nghiệm rồi mới đưa vào sản xuất đại trà.
+ Trong nông nghiệp ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được. Ruộng đất thường bị giới hạn bởi diện tích không thể tăng thêm, nhưng độ phì nhiêu của đất có thể tăng nếu biết khai thác sử dụng hợp lý sẽ tạo khả năng tăng năng suất không ngừng. Từ đó một mặt phải bố trí sử dụng ruộng đất hợp lý và tiết kiệm cho phù hợp với điều kiện địa lý của từng vùng địa phương. Hạn chế dùng đất sản xuất nông nghiệp, đặc biệt ruộng đất tốt để xây dựng cơ bản hoặc sử dụng đất cho mục đích phi nông nghiệp.
Mặt khác ruộng đất lại trải ra trên địa bàn rộng lớn cho nên hoạt động của sản xuất nông nghiệp khá phức tạp, tuỳ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên kinh tế của từng vùng, từng tiểu vùng.
+ Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao do hai yếu tố quan trọng. Yếu tố cơ thể sống của động vật thực vật theo qui luật sinh học của qui luật sinh trưởng, phát triển, phát dục và diệt vong làm cho thời gian lao động không trùng khớp với thời gian sản xuất, tạo ra tình hình có khi lao động căng thẳng, có khi nhàn rỗi lao động thiếu việc làm. Gắn liền với tính thời vụ trong lao động là tính thời vụ trong sử dụng cơ sở vật chất và kỹ thuật và trong thu nhập của nông nghiệp.
Yếu tố thứ hai do diễn biến thời tiết, khí hậu thuỷ văn trong các năm khác nhau làm cho mùa vụ sản xuất khác nhau(vụ xuân, vụ đông, hè thu) đòi hỏi chế độ canh tác cũng khác nhau. Ngoài ra thiên tai bất thường(lũ lụt, khô hạn) làm cho việc sản xuất phải thay đổi cho phù hợp để có hiệu quả.
Nền nông nghiệp nước ta còn có đặc điểm riêng đó là một nền nông nghiệp lạc hậu còn mang tính chất độc canh, tự túc, tự cấp sản xuất hàng hoá còn ít, năng suất cây trồng vật nuôi, lâm nghiệp và thuỷ sản, năng suất lao động, năng suất đất đai còn thấp, lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn, thu nhập và đời sống của người lao động nông nghiệp còn thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới
+Nông nghiệp nước ta nằm trong khu vực nhiệt đới và á nhiệt đới có những thuận lợi và khó khăn
Về mặt thuận lợi, lượng mưa hàng năm tương đối lớn, sông ngòi ao hồ có nhiều cung cấp một lượng nước ngọt tương đối lớn phục vụ và sinh hoạt. Nguồn năng lượng mặt trời, ánh sáng nhiều tập đoàn động vật và thực vật khá phong phú có thể phát triển quanh năm, có nhiều cây trồng nhiệt đới và á nhiệt đới, tạo nên một tập đoàn cây con đa dạng
Tuy nhiên nông nghiệp nước ta cũng gặp nhiều khó khăn như: thiên tai(úng, lũ, hạn), khí hậu ẩm nên dễ phát sinh sâu bệnh làm cho mùa màng tổn thất lớn, nếu không có những biện pháp tích cực.
Ruộng đất canh tác bình quân đầu người thấp và có xu hướng giảm dần do dân số tăng và xây dựng cơ sở bản phát triển nhanh.
Những đặc điểm chủ yếu của nông nghiệp trên đây có ảnh hưởng nhiều đến phương hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp nước ta theo hướng tập trung, công nghiệp hoá thâm canh hoá và sản xuất hàng hoá.
2. Đặc trưng và vai trò của vùng nông thôn.
2.1Đặc trưng vùng nông thôn
Nông thôn là vùng đất đai rộng với một cộng đồng dân cư chủ yếu làm nông nghiệp(nông lâm như nghiệp), có mật độ dân cư thấp, cơ sở hạ tầng kém phát triển, có trình độ văn hoá khoa học kỹ thuật, trình độ sản xuất hàng hoá thấp và thu nhập mức sống của dân cư thấp hơn thành thị.
Vùng nông thôn có những đặc trưng như sau:
+Nông thôn là vùng sinh sống và làm việc của một cộng đồng dân cư bao gồm chủ yếu là nông dân, là vùng sản xuất nông nghiệp(theo nghĩa rộng) là chủ yếu. Các hoạt động sản xuất và dịch vụ chủ yếu cho nông nghiệp và cho cộng đồng nông thôn. Mật độ dân cư ở vùng nông thôn thấp hơn đô thị.
+ So với đô thị nông thôn có cơ cấu hạ tầng, trình độ tiếp cận thị trường, trình độ sản xuất hàng hoá thấp hơn. Nông thôn chịu sức hút của thành thị về nhiều mặt, dân nông thôn thường tìm cách di chuyển vào các đô thị.
Nông thôn là vùng có trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật thấp hơn đô thị và trong chừng mực nào đó, trình độ dân chủ, tự do và công bằng xã hội cũng thấp hơn đô thị.
+ Nông thôn trải ra trên địa bàn khá rộng, chịu ảnh hưởng bởi nhiều điều kiện tự nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1352.doc