Thanh Hóa là một có địa hình phức tạp , gồm nhiều huyện vùng cao. Khi bước vào thực hiện công cuộc đổi mới, Thanh Hóa gặp không ít khó khăn cả về địa hình, khí hậu và xuất phát điểm kinh tế chủ yếu là thuần nông. Trong những năm qua, với quyết tâm cao Thanh Hóa đã từng bước chuyển tư nền kinh tế thuần nông tự cấp tự túc sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá và thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH.
Nhìn lại 10 năm đổi mới, kinh tế Thanh Hóa liên tục phát triển, GDP tăng đều qua các năm, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm đáng kể, cơ sở hạ tầng phát triển.
Một trong những yếu tố góp phần làm nên sự thành công của Thanh Hóa đó chính là hoạt động đầu tư. Sự nỗ lực của tỉnh trong việc gia tăng đầu tư đã đem lại cho kinh tế Thanh Hóa những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt động đầu tư của tỉnh trong những năm qua còn tồn tại nhiều khó khăn bất cập cần phải được khắc phục như: đầu tư toàn xã hội còn thấp, hiệu quả và chất lượng đầu tư một số ngành còn chưa cao, sức cạnh tranh còn yếu, cơ cấu đầu tư chuyển dịch chậm chưa phát huy lợi thế so sánh của từng ngành, từng vùng, năng lực sản xuất và kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Chính vì vậy, việc nâng cao hiệu quả đầu tư, đầy mạnh đầu tư trên địa bàn tỉnh trong những năm tới là vấn đề nổi cộm cần được quan tâm hàng đầu. Vì lý do này, chuyên đề " Đầu tư phát triển bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa thực trạng và giải pháp ” được hoàn thành với mong muốn đóng góp một phần vào việc giải quyết vấn đề trên.
76 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1116 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Đầu tư phát triển bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Thanh Hóa là một có địa hình phức tạp , gồm nhiều huyện vùng cao. Khi bước vào thực hiện công cuộc đổi mới, Thanh Hóa gặp không ít khó khăn cả về địa hình, khí hậu và xuất phát điểm kinh tế chủ yếu là thuần nông. Trong những năm qua, với quyết tâm cao Thanh Hóa đã từng bước chuyển tư nền kinh tế thuần nông tự cấp tự túc sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá và thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH.
Nhìn lại 10 năm đổi mới, kinh tế Thanh Hóa liên tục phát triển, GDP tăng đều qua các năm, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm đáng kể, cơ sở hạ tầng phát triển.
Một trong những yếu tố góp phần làm nên sự thành công của Thanh Hóa đó chính là hoạt động đầu tư. Sự nỗ lực của tỉnh trong việc gia tăng đầu tư đã đem lại cho kinh tế Thanh Hóa những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt động đầu tư của tỉnh trong những năm qua còn tồn tại nhiều khó khăn bất cập cần phải được khắc phục như: đầu tư toàn xã hội còn thấp, hiệu quả và chất lượng đầu tư một số ngành còn chưa cao, sức cạnh tranh còn yếu, cơ cấu đầu tư chuyển dịch chậm chưa phát huy lợi thế so sánh của từng ngành, từng vùng, năng lực sản xuất và kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Chính vì vậy, việc nâng cao hiệu quả đầu tư, đầy mạnh đầu tư trên địa bàn tỉnh trong những năm tới là vấn đề nổi cộm cần được quan tâm hàng đầu. Vì lý do này, chuyên đề " Đầu tư phát triển bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa thực trạng và giải pháp ” được hoàn thành với mong muốn đóng góp một phần vào việc giải quyết vấn đề trên.
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỈNH THANH HÓA
I. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN – KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH THANH HÓA
1. Điều kiện tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý, kinh tế, chính trị
Tỉnh Thanh Hoá thuộc vùng Bắc Trung Bộ, cách Thủ đô Hà Nội khoảng 153 km về phía Nam, có tọa độ địa lý từ 19o18 - 20o00 vĩ độ Bắc và 104o22 - 106o04 kinh độ Đông; phía Bắc giáp 3 tỉnh Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình; phía Nam giáp tỉnh Nghệ An; phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn của nước CHDC nhân dân Lào; phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ. Tỉnh Thanh Hóa có 27 đơn vị hành chính gồm 1 thành phố, 02 thị xã và 24 huyện, với tổng diện tích tự nhiên 11.134,73 km2, dân số trung bình năm 2007 khoảng 3,7 triệu người, chiếm 3,4% diện tích và 4,3% dân số cả nước. Về vị trí địa lý kinh tế, chính trị của Thanh Hóa có những điểm nổi bật sau:
- Nằm ở cửa ngõ giao lưu giữa Bắc Bộ với Trung Bộ và Nam Bộ, giữa Vùng KTTĐ Bắc Bộ với Vùng KTTĐ Trung Bộ, đồng thời nằm trên các tuyến giao lưu quan trọng của hệ thống đường quốc tế và quốc gia như: tuyến đường sắt Thống Nhất, quốc lộ 1A, quốc lộ 10; đường 15A và đường Hồ Chí Minh xuyên suốt vùng Trung du Miền núi của tỉnh; có đường 217 nối Thanh Hóa với tỉnh Hủa Phăn của Lào...nên có nhiều điều kiện để phát triển. Thanh Hoá có đường biên giới chung với nước CHDCND Lào dài trên 190 km; có các cửa khẩu Na Mèo, Tén Tần...Trong đó, tại cửa khẩu Na Mèo được quy hoạch xây dựng thành Khu kinh tế Cửa khẩu thời kỳ 2008-2015 (Quyết định số 52/2005/QĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2008 của Chính phủ); đây là những lợi thế lớn để Thanh Hóa phát triển kinh tế cửa khẩu, mở rộng hợp tác và giao lưu thương mại quốc tế với các tỉnh Bắc Lào, Đông Bắc Thái Lan và các vùng lân cận thông qua hệ thống các tuyến đường xuyên á trong khu vực.
- Trong tương lai Vùng KTTĐ Bắc Bộ có khả năng sẽ được mở rộng không gian về phía Nam (đến Thanh Hóa) tạo cơ hội để Thanh Hóa thu hút đầu tư phát triển nhanh hơn. Đặc biệt Thanh Hóa có Khu kinh tế Nghi Sơn, tại đây ngoài Khu liên hợp lọc hóa dầu (công trình trọng điểm quốc gia), khu cảng Nghi Sơn (tương lai sẽ là cảng nước sâu lớn ở phía Bắc), nhiều công trình kinh tế lớn khác sẽ được xây dựng… mở ra cơ hội phát triển mới, tạo bước đột phá trong tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh cũng như của vùng Bắc Trung Bộ theo hướng CNH, HĐH.
- Thanh Hóa có nhiều dân tộc anh em sinh sống, có nền văn hóa rất đa dạng về ngôn ngữ, phong tục tập quán... Đây là một lợi thế lớn để khai thác phục vụ phát triển du lịch, song cũng đặt ra nhiệm vụ hết sức quan trọng trong vấn đề giữ gìn khối đại đoàn kết các dân tộc và ổn định chính trị xã hội. Vùng núi phía Tây của tỉnh rộng lớn, địa hình phức tạp, giao thông cách trở, kết cấu hạ tầng yếu kém, kinh tế xã hội chậm phát triển… đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết cả về kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng.
1.2. Đặc điểm địa hình
Địa hình ở Thanh Hoá đa dạng, có hướng thấp dần từ Tây sang Đông và chia thành 3 vùng rõ rệt:
* Vùng núi và trung du: gồm 11 huyện (Như Xuân, Như Thanh, Thường xuân, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hoá, Quan Sơn, Mường Lát, Ngọc Lặc, Cẩm Thuỷ và Thạch Thành) với diện tích tự nhiên 7999 km2 (chiếm 71,8% diện tích tự nhiên toàn tỉnh). Đây là vùng nối liền giữa hệ núi cao phía Tây Bắc và hệ núi Trường Sơn phía Nam. Độ cao trung bình ở vùng núi từ 600 - 700 mét, độ dốc trên 25o, vùng trung du có độ cao trung bình 150-200 mét, độ dốc từ 150 đến 200. Vùng có địa hình phức tạp, chia cắt mạnh gây trở ngại lớn cho phát triển kinh tế và xây dựng kết cấu hạ tầng.
* Vùng đồng bằng: gồm 10 huyện (Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Yên Định, Đông Sơn, Vĩnh Lộc, Triệu Sơn, Nông Cống, Hà Trung, TP Thanh Hoá và TX. Bỉm Sơn) với diện tích tự nhiên 1905 km2 (chiếm 17,1% diện tích tự nhiên toàn tỉnh). Đây là vùng được bồi tụ bởi hệ thống sông Mã, sông Yên. Vùng có địa hình xen kẽ giữa vùng đất bằng với các đồi thấp và núi đá vôi độc lập, độ cao trung bình từ 5 - 15 mét, một số nơi trũng như Hà Trung có độ cao chỉ từ 0 - 1 mét. Nhìn chung vùng đồng bằng có địa hình tương đối bằng phẳng thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và công nghiệp.
* Vùng ven biển: gồm 6 huyện chạy dọc bờ biển từ huyện Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Sầm Sơn, Quảng Xương đến Tĩnh Gia, với diện tích hơn 1230,6 km2 (chiếm 11,1% diện tích tự nhiên). Vùng có địa hình bằng phẳng, độ cao trung bình từ 3 - 6 mét, riêng phía Nam huyện Tĩnh Gia địa hình có dạng sống trâu do các dẫy đồi kéo dài ra biển. Đây là vùng có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi gia cầm), đặc biệt là nuôi trồng thủy sản, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cảng và phát triển dịch vụ vận tải sông, biển...
1.3. Đặc điểm khí hậu
Thanh Hoá nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm hai mùa rõ rệt là mùa hạ nóng, ẩm, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa.
Thanh Hoá có chế độ nhiệt tương đối cao, nhiệt độ trung bình 23,7 oC nhưng có sự khác biệt giữa các vùng. Vùng đồng bằng ven biển nhiệt độ cao hơn vùng núi từ 0,5 - 1,5oC. Nhiệt độ trung bình các tháng nóng nhất (tháng 6 - 7) là 30 - 31oC, nhiệt độ trung bình các tháng lạnh nhất (tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau) là 170C. Biên độ nhiệt ngày đêm khá cao, từ 8 - 10oC vào các tháng mùa đông. Tổng tích ôn cả năm khoảng 8.600 - 8.7000C ở vùng đồng bằng ven biển, giảm xuống còn 8.0000C và thấp hơn ở vùng núi phía Tây; số giờ nắng cao, trung bình từ 1310 -1460 giờ/năm. Tháng có số giờ nắng cao nhất (tháng 6) là 225 giờ, tháng có số giờ nắng thấp nhất (tháng 12) là 46 giờ).
Tóm lại, là một tỉnh có diện tích rộng, có đủ các dạng địa hình nên Thanh Hoá có khí hậu khá đa dạng và phân hoá mạnh theo không gian và thời gian. Lượng mưa lớn, nhiệt độ cao, ánh sáng dồi dào… là điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất nông lâm ngư nghiệp. Song các yếu tố khí hậu khắc nghiệt, đặc biệt là hạn hán, bão lụt, gió nóng,… ở đồng bằng ven biển phía Đông và lũ quét, lạnh giá, sương muối… ở vùng núi phía Tây cũng gây trở ngại không nhỏ cho sự phát triển chung, nhất là sản xuất nông nghiệp và đời sống dân cư.
2. Các tài nguyên thiên nhiên chính
2.1. Tài nguyên đất
Theo kết quả phúc tra thổ nhưỡng của FAO- UNESCO, tỉnh Thanh Hoá có 8 nhóm đất chính với 20 loại đất khác nhau và được phân bố như sau:
- Nhóm đất xám: Diện tích 717.245 ha, chiếm 64,6% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, phân bố chủ yếu ở vùng trung du miền núi, thuộc các huyện Quan Hoá, Bá Thước, Như Xuân, Thường Xuân, Cẩm Thuỷ, Ngọc Lặc, Thạch Thành, Lang Chánh... Đất có tầng dầy, dễ thoát nước, thích hợp cho phát triển lâm nghiệp và các cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả như cao su, cà phê, chè, cam, chanh, dứa...
- Nhóm đất đỏ: Diện tích 37.829 ha, chiếm 3,4% diện tích tự nhiên, phân bố ở độ cao trên 700 mét tại các huyện: Quan Hoá, Lang Chánh, Thường Xuân. Nhóm đất này có tầng dày, thành phần cơ giới từ nhẹ đến trung bình, ít chua nên thích hợp với nhiều loại cây trồng và khoanh nuôi tái sinh rừng. Tuy nhiên, do phân bố ở địa hình cao, chia cắt mạnh và dễ bị rửa trôi nên việc khai thác sử dụng gặp nhiều khó khăn và cần có biện pháp bảo vệ đất.
- Nhóm đất phù sa: Diện tích 191.216 ha, chiếm 17,2% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở các vùng đồng bằng, ven biển. Đất có thành phần cơ giới thường là thịt nhẹ, ít chua, giàu chất dinh dưỡng nên có chất lượng tốt, thích hợp với nhiều loại cây trồng, nhất là các loại cây ngắn ngày như lương thực, hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày khác.
- Nhóm đất tầng mỏng: Diện tích 16.537 ha, chiếm 1,49% diện tích đất tự nhiên, phân bố chủ yếu ở vùng trung du và các dãy núi độc lập ở đồng bằng ven biển như Nông Cống, Thiện Hoá, Yên Định, Hoằng Hoá, Hà Trung, Hậu Lộc, Tĩnh Gia, Đông Sơn...Đặc điểm của nhóm đất này là có tầng mỏng và bị xói mòn trơ sỏi đá, trên cần được đầu tư, cải tạo và đưa vào khai thác.
- Nhóm đất glây: Diện tích 2.583 ha, chiếm 0,23% diện tích đất tự nhiên. Hầu hết đất đã bị bạc màu cần được cải tạo đưa vào sản xuất nông lâm nghiệp.
- Nhóm đất đen: Diện tích 5.903 ha, chiếm 0,53% diện tích tự nhiên. Đất bị lầy thụt và bùn, cần cải tạo đưa vào sản xuất nông lâm nghiệp.
- Nhóm đất mặn: Diện tích 21.456 ha, chiếm 1,93% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở vùng ven biển. Đất thường có độ phì nhiêu khá cao, thành phần cơ giới từ trung bình tới thịt nặng, độ pH từ 6,0 - 7,5... thích hợp cho trồng cói và nuôi trồng thuỷ sản.
- Nhóm đất cát: Diện tích 20.247 ha, chiếm 1,82% diện tích tự nhiên, phân bố tập trung ở các huyện ven biển. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, nghèo chất dinh dưỡng, khả năng giữ nước, giữ màu kém... nên năng suất cây trồng thấp. Song đất có thành phần cơ giới nhẹ nên dễ canh tác, thích hợp cho nhiều loại cây trồng như trồng rừng, hoa màu, cây công nghiệp, cây ăn quả... và nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên trong quá trình canh tác cần tăng cường bón phân cho đất và áp dụng các biện pháp cải tạo đất.
- Đất khác: Diện tích 97.610 ha, chiếm 8,79% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, trong đó núi đá vôi là 37.909 ha và ao, hồ, sông suối là 60.701 ha.
2.2. Tài nguyên rừng
Với hơn 2/3 diện tích tự nhiên là đồi núi, tỉnh Thanh Hoá có tài nguyên rừng khá lớn, đóng vai trò hết sức quan trọng đối với việc phòng hộ đầu nguồn và phát triển kinh tế xã hội. Theo QĐ số 571/QQĐ-UBND ngày 12/3/2008 về việc công bố số liệu hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp năm 2007, diện tích đất có rừng toàn tỉnh là 511785,2 ha; trong đó rừng tự nhiên là 386.245,4 ha, rừng trồng 125.539,8 ha; tỷ lệ che phủ đạt 45,1%, tăng 13% so năm 2000 (năm 2000 là 32,1% và năm 2005 là 43%)
- Rừng phòng hộ có diện tích 158.470,2 ha; chiếm gần 40,0% diện tích có rừng, phân bố chủ yếu ở vùng núi phía Tây và một số ít ở ven biển. Chức năng của rừng là phòng hộ đầu nguồn các sông lớn như sông Chu, sông Mực, sông Bưởi, Hồ Yên Mỹ... và phòng hộ ven biển.
- Rừng đặc dụng bao gồm Vườn quốc gia Bến En, Vườn quốc gia Cúc Phương và các Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, Pù Luông, Xuân Liên, với tổng diện tích 76.457,9 ha, chiếm 14,5% diện tích có rừng. Chức năng của rừng là bảo tồn đa dạng sinh học, hệ động thực vật quí hiếm, nghiên cứu khoa học, du lịch sinh thái và bảo vệ môi trường….
- Rừng sản xuất có diện tích 276.857 ha, chiếm 54,1% diện tích có rừng; tập trung ở vùng đồi núi thấp và vùng trung du.
Rừng của Thanh Hoá chủ yếu là rừng lá rộng với hệ động thực vật khá phong phú, đa dạng về giống loài. Về thực vật có các loại gỗ quý như lát, pơmu, trầm hương, lim, sến, vàng tâm…; các loại thuộc họ tre có luồng, nứa, vầu, giang, bương, tre…; ngoài ra còn có mây, song, dược liệu, cây thả cánh kiến… Tuy nhiên trong những năm cuối thập kỷ trước do bị khai thác quá mức nên chất lượng rừng giảm sút nghiêm trọng, các loại thực vật quí hiếm như lim, lát… chỉ còn rải rác ở một số địa bàn vùng cao, vùng sâu, vùng xa, địa hình hiểm trở và tại các khu bảo tồn, vườn Quốc gia.
Về động vật, có thể nói hệ động vật rừng ở Thanh Hóa trước đây rất phong phú, nhưng do trong nhiều năm bị săn bắt bừa bãi nên đã bị giảm sút nhiều. Tuy nhiên hiện nay vẫn thuộc loại phong phú so với nhiều tỉnh khác ở Bắc Bộ. Trong một số khu rừng còn xuất hiện các loài bò rừng, nai, hoẵng, vượn, khỉ, lợn rừng và nhiều loại chim, thú, bò sát khác… Đặc biệt một số nơi còn có các loài động vật quý như hổ, báo, gấu, gà lôi, công trĩ… Riêng ở Vườn quốc gia Bến En hiện còn hệ động vật rất phong phú gồm 162 loài chim, 53 loài thú, 39 loài bò sát…, trong đó có nhiều loài quý hiếm không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với cả thế giới, do vậy cần được bảo vệ nghiêm ngặt.
Tóm lại, rừng của Thanh Hóa rất phong phú và đa dạng về chủng loại rừng và lâm sản, nhưng chất lượng rừng thấp. Do địa hình phức tạp, giao thông cách trở nên công tác quản lý và bảo vệ rừng gặp nhiều khó khăn; Tình trạng đốt nương làm rẫy và khai thác lâm sản trái phép vẫn còn tái diễn.
2.3. Tài nguyên nước và thủy năng
a/ Nước mặt.
Trên địa bàn Thanh Hoá có 4 hệ thống sông lớn là Sông Mã, sông Yên, sông Hoạt, sông Bạng và 173 sông suối nhỏ, tạo ra một mạng lưới thuỷ văn dày đặc và phân bố khá đều trên địa bàn, bình quân mật độ sông suối đạt 0,5 - 0,6 km/km2. Tổng lượng dòng chảy trung bình hàng năm từ 20 - 21 tỷ m3 năm, trong đó khoảng 10 tỷ m3 lượng dòng chảy sinh ra trong nội tỉnh; cao nhất xấp xỉ 26 tỷ m3, năm nhỏ nhất khoảng 12 tỷ m3.
b/ Tiềm năng thủy điện
Do hệ thống sông suối ở Thanh Hóa khá dầy, trong đó có một số sông lớn, lưu vực rộng (nhất là hệ thống sông Mã) bắt nguồn từ những vùng núi cao, nhiều thác ghềnh… nên Thanh Hóa có tiềm năng thuỷ điện khá lớn. Riêng hệ thống sông Mã có trữ năng lý thuyết tới 12 tỉ KWh với các bậc thang có thể khai thác thủy điện như: Bản Uôn, Bản Mon, Cẩm Hoàng, La Hán (trên sông Mã) và Cửa Đặt (trên sông Chu)… Hiện nay công trình hồ Cửa Đặt đang được xây dung, cùng với hệ thống Bái Thượng cũ tưới cho gần 88.000 ha đất canh tác kết hợp thủy điện (công suất 97 MW).
c/ Nước ngầm
Thanh Hoá có nguồn nước ngầm khá phong phú và đa dạng, thuộc hai dạng chính là nước ngầm lỗ hổng trong các tầng trầm tích và nước trong các tầng chứa khe nứt. Các kết quả thăm dò cho thấy nước ngầm phân bố ở nhiều nơi, từ Thạch Thành tới thị xã Sầm Sơn ở phía Bắc, khu vực Tĩnh Gia ở phía Nam và một phần dọc ven biển.
d/ Nước khoáng
Nước khoáng ở Thanh Hoá chưa được điều tra nghiên cứu nhiều. Theo kết quả điều tra ban đầu cho thấy, toàn tỉnh có 14 điểm có dấu hiệu khác thường về nhiệt độ, thành phần hoá, lý trong nước, nhưng chưa có nguồn nào được nghiên cứu chi tiết. Hiện mới phát hiện nước khoáng ở một số khu vực như: lỗ khoan 12 tại Ga Nghĩa trang thuộc xã Hoằng Trung, huyện Hoằng Hoá; lỗ khoan 31 xã Đông Yên, huyện Đông Sơn và các lỗ khoan UNICEF ở xã Quảng Yên, huyện Quảng Xương...
2.4. Tài nguyên biển
Thanh Hoá có bờ biển dài 102 km (từ cửa Càn, Nga Sơn đến Hà Nẫm, Tĩnh Gia); vùng lãnh hải rộng hơn 1,7 vạn km2. Vùng biển và ven biển Thanh Hoá có tài nguyên khá phong phú, đa dạng, trong đó nổi bật là tài nguyên thuỷ sản, tài nguyên du lịch biển và tiềm năng xây dựng cảng và dịch vụ hàng hải.
* Về tài nguyên thuỷ sản: Vùng biển Thanh Hoá chịu ảnh hưởng của các dòng hải lưu nóng và lạnh tạo thành những bãi cá, tôm có trữ lượng lớn so với các tỉnh phía Bắc. Tại vùng biển Thanh Hoá đã xác định có hơn 120 loài cá, thuộc 82 giống, 58 họ gồm 53 loài cá nổi, 69 loài cá đáy và các loại hải sản khác. Tổng trữ lượng hải sản ước khoảng 140.000 - 165.000 tấn; khả năng khai thác từ 60.000 - 70.000 tấn/năm, trong đó cá nổi chiếm hơn 60% và cá đáy chiếm gần 40%.
* Về tiềm năng xây dựng cảng: Với bờ biển dài và nhiều cửa lạch, Thanh Hoá có tiềm năng rất lớn về xây dựng cảng và phát triển vận tải biển, trong đó đáng chú ý nhất là khu vực Nghi Sơn. Đây là khu vực được đánh giá có điều kiện thuận lợi nhất của vùng ven biển từ Hải Phòng đến Nam Hà Tĩnh. Tại đây trong tương lai sẽ xây dung cụm cảng nước sâu lớn trong vùng (gắn với Khu kinh tế Nghi Sơn) với 3 khu cảng chính là cảng tổng hợp Nghi Sơn, cảng cho Khu liên hợp lọc hóa dầu và các cảng chuyên dùng cho nhà máy xi măng, nhà máy nhiệt điện và nhà máy đóng tầu Nghi Sơn... tạo điều kiện để Thanh Hóa mở rộng giao lưu hàng hoá với các tỉnh trong nước và với thế giới.
Tóm lại, Thanh Hoá có bờ biển dài, có tiềm năng lớn về khai thác, nuôi trồng thuỷ sản, phát triển du lịch, phát triển cảng và vận tải biển... Đây là lợi thế rất lớn để Thanh Hoá phát triển kinh tế nhanh, hội nhập mạnh với khu vực và với thế giới.
2.5. Tài nguyên du lịch
Thanh Hoá có tiềm năng du lịch rất phong phú, đa dạng, gồm cả tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn, là điều kiện thuận lợi để phát triển nhiều loại hình du lịch hấp dẫn như du lịch biển, du lịch mạo hiểm, du lịch văn hóa-lịch sử, du lịch sinh thái…
Về tài nguyên du lịch tự nhiên: Thanh Hoá có bờ biển dài với nhiều bãi biển đẹp như Sầm Sơn, Hải Tiến-Hoằng Hóa, Hải Hoà-Tĩnh Gia,... Các bãi biển này đều có đặc điểm chung là dài, độ dốc thoải, cát trắng mịn, nước trong... rất phù hợp cho tắm biển và các hoạt động vui chơi giải trí. Bên cạnh những bãi tắm đẹp là những thắng cảnh như Hòn Trống Mái, đền Độc Cước, Đền Cô Tiên ở Sầm Sơn... Ngoài khơi có các đảo như Hòn Nẹ, Hòn Mê,... làm cho các tuyến du lịch ven biển thêm phần hấp dẫn. Hiện nay, bãi biển Sầm Sơn đã được khai thác với cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh. Các bãi biển khác hầu như vẫn còn giữ nguyên vẻ hoang sơ với môi trường thoáng đãng, trong lành và đang được đầu tư xây dựng như : Hải Tiến, Hải Hòa… .
Với những tiềm năng và lợi thế trên, trong tương lai việc xây dựng các điểm, các tour du lịch hợp lý, có sự liên kết chặt chẽ của từng địa danh trong tỉnh sẽ tạo cho ngành du lịch ở Thanh Hóa có cơ hội phát triển mạnh, trở thành điểm đến hấp dẫn và lý thú của nhiều du khách.
2.6. Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản ở Thanh Hoá khá phong phú về chủng loại và đa dạng về cấp trữ lượng. Hiện toàn tỉnh có tới 257 mỏ và điểm quặng, với 42 loại khoáng sản, trong đó có một số loại có ý nghĩa quốc tế và khu vực như Crôm, đá ốp lát, đô lô mít, chì kẽm, thiếc, vonfram, antimoan, đá quý. Nhiều mỏ có trữ lượng lớn và phân bố tập trung, cho phép khai thác với quy mô công nghiệp như đá vôi, đất sét làm xi măng. Đây là một lợi thế lớn của tỉnh trong việc phát triển công nghiệp khai khoáng, công nghiệp sản xuất xi măng, công nghiệp vật liệu xây dựng
Ngoài ra, còn có nhiều loại khoáng sản khác như chì kẽm, Ăngtimon, Niken - Coban, đồng, thiếc, thiếc-vonfram, Manhezit, Asen, thuỷ ngân, Barit, Pyrit, Berin, Môlip đen, cát kết (chất trợ dung), sét trắng. Mác sa lít, Fensfat, cát thuỷ tinh, đá xây dựng, đá granit, đá thạch anh và than chì, than đá và than bùn… tuy trữ lượng không lớn nhưng có giá trị cao, có thể khai thác ở quy mô nhỏ phục vụ phát triển công nghiệp địa phương.
3. Đặc điểm kinh tế xã hội
3.1.Về kinh tế:
* Về tốc độ tăng trưởng
Tốc độ tăng trưởng bình quân 2001-2005 là 9,1%/năm và dự kiến 11,5% giai đoạn 2006-2010; trong đó nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,2%/năm, công nghiệp - xây dựng tăng 15,8%/năm và dịch vụ tăng 12,2%/năm. Điều đáng chú ý là tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh có xu hướng tăng dần vào các năm cuối kỳ của kế hoạch 5 năm, tạo đà tăng trưởng thuận lợi cho thời kỳ tiếp theo.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2001 - 2010
Đơn vị: Tỷ đồng, giá CĐ
Chỉ tiêu
2000
2005
DK 2010
Tăng BQ (%/n.)
2001-2010
2001-2005
2006-2010
Tổng GDP
7700.8
11910.0
20.563.0
10,3
9.1
11.5
1. Theo ngành kinh tế
- Nông lâm nghiệp và TS
2925.9
3633.0
4464.0
4,3
4.4
4,2
- Công nghiệp và XD
2243.7
4535.0
9461.0
15,5
15.1
15,8
- Dịch vụ
2531.2
3739.0
6638.0
10,1
8.1
12,2
2. Theo khu vực kinh tế
- Quốc doanh
2087.5
3321.0
4738.0
8,5
9.7
7,4
- Ngoài quốc doanh
5247.0
7826.0
13725.0
10,1
8.3
11,9
- Đầu tư nước ngoài
366.3
763.0
2100.0
19,1
15.8
22,4
Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Thanh Hoá và số liệu Sở KH&ĐT
* Về quy mô nền kinh tế
Bảng 2: Tình hình thu chi ngân sách của tỉnh Thanh Hoá
Đơn vị: Triệu đồng
TT
Chỉ tiêu
2000
2005
DK 2010
I
Tổng thu ngân sách
1.932.608
6.627.791
10.000.000
1
Thu trên địa bàn
789.071
1.968.670
3.400.000
2
Thu bổ sung từ TW
1.017.816
4.246.230
6.600.000
II
Tổng chi trên địa bàn
2.032.504
6.379.102
10.000.000
1
Chi đầu tư phát triển
315.520
1.042.253
6.000.000
Tr.đó: Chi đầu tư XDCB
295.009
1.016.103
6.000.000
2
Chi thường xuyên
1.123.555
2.555.036
4.000.000
Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Thanh Hoá và số liệu Sở KH&Đ
Do xuất phát điểm thấp; nên hiện tại quy mô nền kinh tế chưa tương xứng với quy mô và tiềm năng phát triển của tỉnh; thu nhập dân cư thấp, đời sống dân cư, đặc biệt là ở các vùng cao, vùng xa còn nhiều khó khăn. Thu nhập bình quân đầu người/năm đạt gần 7 triệu đồng (tính theo giá thực tế), chỉ bằng 51% mức trung bình của cả nước. Thu ngân sách trên địa bàn không lớn, chỉ đáp ứng dưới 50% nhu cầu chi thường xuyên của tỉnh.
Những năm gần đây nền kinh tế của tỉnh phát triển khả quan, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và có xu hướng tăng dần vào những năm cuối kỳ; các lĩnh vực văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, an ninh chính trị, trật tự xã hội được đảm bảo, chủ quyền biên giới quốc gia được bảo vệ vững chắc tạo đà cho sự phát triển nhanh hơn trong các giai đoạn tiếp theo.
* Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Biểu 1: Cơ cấu ngành
Cơ cấu kinh tế của Thanh Hoá cũng từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp-xây dựng trong tổng GDP ngày càng tăng lên. Năm 2007, cơ cấu giữa 3 khối ngành nông lâm nghiệp - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ trong tổng GDP của tỉnh là 28,4-36,8-34,8 so với 31,6%-35,1%-33,3% năm 2005 và 39,6%-26,6%-33,8% (năm 2000); dự kiến năm 2010, các con số tương ứng là 24,1%-40,6%-35,3%. Nền kinh tế của tỉnh đang hình thành rõ nét cơ cấu kinh tế: công nghiệp-dịch vụ-nông nghiệp. Đây là một kết quả đáng khích lệ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh
Biểu 2: Cơ cấu thành phần kinh tế
Với chính sách phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và chuyển đổi mô hình quản lý các doanh nghiệp quốc doanh, cơ cấu thành phần kinh tế của tỉnh đã chuyển dịch phù hợp dần với cơ chế thị trường. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được phát triển, chiếm ưu thế trong sản xuất nông nghiệp và các ngành dịch vụ.
* Cơ cấu thành thị và nông thôn: Hiện nay 67,2% số lao động của Thanh Hóa làm việc trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp với gần 90% dân số sống ở khu vực nông thôn, nhưng tổng giá trị gia tăng của khu vực nông lâm nghiệp chỉ chiếm 28,4% trong GDP của tỉnh. Điều đó cho thấy, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông lâm nghiệp sang các lĩnh vực khác diễn ra rất chậm. Mức chênh lệch về thu nhập giữa lao động nông lâm nghiệp với lao động trong các ngành nghề khá cao, khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn cũng ngày càng lớn.
* Cơ cấu vùng: Kinh tế các vùng đều tăng trưởng nhanh, nhưng đang có xu hướng tập trung cao ở vùng đồng bằng và ven biển.
- Vùng ven biển : Kinh tế vùng ven biển liên tục tăng trưởng với tốc độ cao, từ 8,6% giai đoạn 1996 - 2000 lên hơn 12% giai đoạn 2001 - 2010, đứng đầu các vùng về tốc độ tăng trưởng. Tỷ trọng kinh tế của vùng này trong nền kinh tế cũng tăng dần từ 25,6% năm 1995 lên 29,7% năm 2005, khoảng 35% năm 2010. Đây là vùng có nhiều tiềm năng, dự báo trong thời gian tới vùng này còn phát triển với tốc độ cao hơn.
- Vùng Đồng bằng. Có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng nền kinh tế khá phát triển, trong nhiều năm duy trì tốc độ ở mức 8-10%/năm. Tỷ trọng trong GDP toàn tỉnh giữ mức khá cao, trên 50%.
- Vùng Trung du-Miền núi là vùng có nhiều khó khăn so với các vùng khác về nhiều mặt. Tốc độ tăng trưởng bình quân của vùng chỉ đạt 5-6%/năm thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng chung của nền kinh tế cả tỉnh. Tuy nhiên trong những năm gần đây, thực hiện Quyết định 253 của Chính phủ, một số huyện miền núi đã có mức tăng trưởng trên 10%/ năm, như : Thạch Thành, Như Thanh,..
Nhìn chung cơ cấu kinh tế của Thanh Hoá thời gian qua có sự chuyển dịch đúng hướng, phù hợp với lợi thế của tỉnh, góp phần bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh tiến trình CNH, HĐH. Tuy nhiên, tỉnh cần có những chính sách và giải pháp tích cực để tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm dần mức chênh lệch bảo đảm phát triển bền vững giữa các vùng miền trong tỉnh.
3.2.Về xã hội
Sự nghiệp giáo dục-đào tạo của Thanh Hóa đã có sự chuyển biến tích cực và đạt nhiều thành quả cả về số lượng và chất lượng. Niên học 2008-2009 toàn tỉnh có 645 trường mầm non; 1.507 trường phổ thôn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 112080.doc