Sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại đòi hỏi rất cao phẩm chất về mọi mặt của mỗi quân nhân, đặc biệt phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ. Bởi vì, đạo đức cách mạng là cái gốc, là cơ sở nền tảng của người cán bộ. Quá trình phát triển đạo đức cách mạng của người cán bộ từ trước tới nay là quá trình tự giác. Trong đó, người cán bộ luôn hướng tới, tiếp nhận và hành động theo những chuẩn mực, giá trị của nền đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta dày công xây dựng .
Học viện chính trị quân sự - trung tâm đào tạo cán bộ chính trị các cấp cho toàn quân. Xuất phát từ nhiệm vụ, mục tiêu yêu cầu đào tạo của nhà trường hiện nay. Đòi hỏi phải đào tạo ra những cán bộ chính trị có kiến thức toàn diện cả về phẩm chất đạo đức cách mạng,
cả về trình độ năng lực, để khi ra trường có đủ khả năng hoàn thành tốt chức trách , nhiệm vụ được giao.
Trong những năm vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ, chỉ huy các cấp, sự cố gắng nỗ lực trong công tác giáo dục, đào tạo của nhà trường và sự tích cực tự giác giáo dục, rèn luyện ở mỗi học viên nên đã tạo được nền tảng đạo đức cách mạng của học viên khá bền vững.
Tuy nhiên, bên cạnh xu hướng tích cực đó do tính chất phức tạp của tình hình kinh tế xã hội thời kỳ quá độ, sự chống phá điên cuồng của các thế lực đối với cách mạng nước ta trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống là mũi nhọn tiến công của chúng, những quan niệm đạo đức, lối sống phương tây thực dụng nảy sinh trong nền kinh tế thị trường và len lỏi vào con đường giao lưu, hợp tác, mở rộng hội nhập từ nhiều hướng làm nảy sinh tiêu cực xã hội. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, Đảng viên và nhân dân có chiều hướng gia tăng. Tình hình trên đã làm ảnh hưởng tới môi trường đạo đức , lối sống như: Thờ ơ với chính trị, giảm sút niềm tin, biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân cơ hội, thực dụng sống buông thả suy giảm về đạo đức . những biểu hiện tiêu cực đó đã cản trở nền tảng đạo đức cách mạng của học viên làm chất lượng đào tạo và ảnh hưởng tới môi trường đạo đức đơn vị, bản chất truyền thống quân đội và ảnh hưởng đến đạo đức cách mạng và xây dựng đạo đức của học viên.
Từ những vấn đề trên, để nhận thức đúng về đạo đức cách mạng và xây dựng đạo đức cho học viên Học viện chính trị quân sự hiện nay cần phải ngăn ngừa các tác động tiêu cực, đấu tranh khắc phục những sai lệch về chuẩn đạo đức là một vấn đề cấp thiết.
65 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Đạo đức cách mạng và xây dựng đạo đức cho học viên ở học viện chính trị quân sự hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại đòi hỏi rất cao phẩm chất về mọi mặt của mỗi quân nhân, đặc biệt phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ. Bởi vì, đạo đức cách mạng là cái gốc, là cơ sở nền tảng của người cán bộ. Quá trình phát triển đạo đức cách mạng của người cán bộ từ trước tới nay là quá trình tự giác. Trong đó, người cán bộ luôn hướng tới, tiếp nhận và hành động theo những chuẩn mực, giá trị của nền đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta dày công xây dựng .
Học viện chính trị quân sự - trung tâm đào tạo cán bộ chính trị các cấp cho toàn quân. Xuất phát từ nhiệm vụ, mục tiêu yêu cầu đào tạo của nhà trường hiện nay. Đòi hỏi phải đào tạo ra những cán bộ chính trị có kiến thức toàn diện cả về phẩm chất đạo đức cách mạng,
cả về trình độ năng lực, để khi ra trường có đủ khả năng hoàn thành tốt chức trách , nhiệm vụ được giao.
Trong những năm vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ, chỉ huy các cấp, sự cố gắng nỗ lực trong công tác giáo dục, đào tạo của nhà trường và sự tích cực tự giác giáo dục, rèn luyện ở mỗi học viên nên đã tạo được nền tảng đạo đức cách mạng của học viên khá bền vững.
Tuy nhiên, bên cạnh xu hướng tích cực đó do tính chất phức tạp của tình hình kinh tế xã hội thời kỳ quá độ, sự chống phá điên cuồng của các thế lực đối với cách mạng nước ta trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống là mũi nhọn tiến công của chúng, những quan niệm đạo đức, lối sống phương tây thực dụng nảy sinh trong nền kinh tế thị trường và len lỏi vào con đường giao lưu, hợp tác, mở rộng hội nhập từ nhiều hướng làm nảy sinh tiêu cực xã hội. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, Đảng viên và nhân dân có chiều hướng gia tăng. Tình hình trên đã làm ảnh hưởng tới môi trường đạo đức , lối sống như: Thờ ơ với chính trị, giảm sút niềm tin, biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân cơ hội, thực dụng sống buông thả suy giảm về đạo đức ... những biểu hiện tiêu cực đó đã cản trở nền tảng đạo đức cách mạng của học viên làm chất lượng đào tạo và ảnh hưởng tới môi trường đạo đức đơn vị, bản chất truyền thống quân đội và ảnh hưởng đến đạo đức cách mạng và xây dựng đạo đức của học viên.
Từ những vấn đề trên, để nhận thức đúng về đạo đức cách mạng và xây dựng đạo đức cho học viên Học viện chính trị quân sự hiện nay cần phải ngăn ngừa các tác động tiêu cực, đấu tranh khắc phục những sai lệch về chuẩn đạo đức là một vấn đề cấp thiết.
2.Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về đạo đức cách mạng của các lãnh tụ, các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài quân đội như: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9 Nxb CTQG, H.1996; “ Sự biến đổi của tháng giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức cho cán bộ quản lý của nước ta” của PGS - PTS Nguyễn Chí Mỳ, Nxb CTQG, H.1999. Hà Huy Thông “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của người cán bộ quân sự - lý luận vận dụng” luận án Phó tiến sỹ khoa học triết học, Hà Nội 1995. Đặng Kim Bôi “Sự tác động của kinh tế thị trường đến xây dựng đạo đức cách mạng của đội ngũ sỹ quan cấp cơ sở trong quân đội ta hiện nay”. Luận văn cao học triết học, Hà Nội 1997. Nguyễn Hùng Oanh “ Phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện nay” Hà Nội 2002.
Tuy nhiên, các công trình trên nghiên cứu dưới góc độ triết học khác nhau, song vấn đề “ Đạo đức cách mạng và xây dựng đạo đức cho học viên ở Học viện chính trị quân sự hiện nay” chưa sâu sắc. Vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề này để luận giải sâu sắc hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn về đạo đức cách mạng và xây dựng đạo đức cho học viên ở Học viện chính trị quân sự hiện nay. Từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản xây dựng đạo đức cho học viên ở Học viện chính trị quân sự hiện nay.
- Nhiệm vụ: Luận giải đặc điểm, đặc trưng đạo đức cách mạng của học viên ở Học viện chính trị quân sự hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản cho học viên ở Học viện chính trị quân sự hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở hệ thống quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị quân sự của Đảng cộng sản Việt Nam , các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng ủy quân sự trung ương, Bộ quốc phòng, Tổng cục chính trị, các bài nói và viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về đạo đức cách mạng và xây dựng đạo đức.
- Phương pháp luận: Chủ yếu sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp lôgíc - lịch sử phân tích - tổng hợp xã hội học...
5. ý nghĩa của đề tài
- Góp phần làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn về đạo đức cách mạng và vấn đề xây dựng đạo đức cho học viên ở Học viện chính trị quân sự hiện nay.
- Có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ học tập, nghiên cứu cho học viên và giáo viên các nhà trường quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Gồm: Mở đầu, 2 chương(4 tiết), phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1
đạo đức cách mạng và đặc điểm đạo đức cách mạng củahọc viên ở Học viện chính trị quân sự hiện nay
1.1. Đặc trưng đạo đức cách mạng
1.1.1. Khái niệm đạo đức cách mạng
Xã hội loài người xuất hiện đồng thời đời sống đạo đức cũng xuất hiện. Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là Mos (movis) - lề thói moralis nghĩa là liên quan với lề thói, đạo nghĩa. Còn “luân lý” được xem như đồng nghĩa với “đạo đức” có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos - lề lối, tập tục. Khi nói đến đạo đức, tức là nói đến những lề thói và tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày.
Thuật ngữ “đạo đức” (moral) xuất hiện vào thế kỷ thứ IV trước công nguyên. ở Phương Tây nó gắn liền với tên tuổi của Arixtốt (384-322 TCN), ở phương Đông và gắn liền với tên tuổi của Khổng Tử (551- 479 TCN)
Đạo đức ngay từ khi ra đời luôn được coi là những giá trị cơ bản thể hiện trong mối quan hệ trực tiếp của con người với các đối tượng giao tiếp đồng thời đạo đức là đời sống tinh thần là phẩm chất nhân cách đặc trưng của ý thức và hành vi của chủ thể giao tiếp. Vì lẽ đó, đạo đức được quan niệm là một hiện tượng xã hội, phản ánh mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ bản thân cuộc sống con người.
Xuất hiện từ thế kỷ VI (TCN), đạo đức học Nho gia là một học thuyết đạo đức lớn của phương Đông cổ đại, đặt con người vào cuộc sống của chính bản thân mình, thấy được ý nghĩa và giá trị đích thực, thấy được trách nhiệm của mình trước cộng đồng. Về đạo đức xã hội, nho gia chủ trương lập lại kỷ cương xã hội bằng thuyết Chính danh, đó là sự thống nhất giữa danh và thực. Đòi hỏi cái danh của mỗi người phải phản ánh cái thực của người ấy, mỗi người phải xứng đáng với cái danh của mình. Danh phải chính xã hội mới yên ổn, trật tự, nếu danh bất chính thì thiên hạ tất sẽ loạn. Đây là một xã hội lấy đức để trị, dùng đạo đức để ổn định trật tự xã hội. Song, nho gia không chỉ ra được cơ sở xét đến cùng quyết định đạo đức là phương thức sản xuất cùng với những quan hệ chính trị- giai cấp xã hội.
Xuất hiện từ thế kỷ IV (TCN) đạo đức học Arixtốt cho rằng ý nghĩa cuộc sống hạnh phúc của con người là ở trần gian, ở cuộc sống hiện thực, đạo đức được thể hiện trong lao động. Ông cho rằng con người chỉ biểu hiện phẩm hạnh của mình thông qua hoạt động. Ai làm việc thiện thì con người trở thành chính nghĩa, ai hành động đúng mực thì trở thành người đúng mực, ai hành động dũng cảm thì trở thành con người dũng cảm. Tuy nhiên, do lập trường giai cấp mà Arixtốt cho rằng đạo đức, phẩm hạnh chỉ có ở giai cấp chủ nô. Nô lệ chỉ là công cụ biết nói nên không có đạo đức, phẩm hạnh, chuẩn mực đạo đức phải phù hợp với mức của cải, tuỳ theo mức độ giàu có mà tự do có mức độ phẩm hạnh khác nhau.
Mặc dù có những cống hiến quan trọng nhưng do bị ảnh hưởng bởi lập trường giai cấp hoặc do hạn chế của trình độ nhận thức mà các quan điểm trước Mác không luận giải một cách đúng đắn, khoa học về đạo đức.
Đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời thì đời sống đạo đức mới được luận giải một cách đúng đắn, khoa học. Theo quan điểm Mác - Lênin, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực xã hội nhằm đánh giá và điều chỉnh hành vi của con người vì lợi ích của xã hội, của cộng đồng được thực hiện trên sức mạnh của phong tục tập quán, dư luận xã hội và lương tâm.
Đạo đức là một hiện tượng tinh thần, một hình thái ý thức xã hội, là một hệ thống các nguyên tắc, những tiêu chuẩn nhằm quy định, điều chỉnh đánh giá hành vi của con người trong quan hệ ứng xử xã hội. Do vậy, đạo đức phát sinh, phát triển và chuyển hoá về mặt nội dung tuỳ thuộc vào sự quy định của tồn tại xã hội. Mỗi xã hội, mỗi giai đoạn, mỗi cộng đồng khác nhau thì những tiêu chuẩn, những nguyên tắc đạo đức ấy cũng khác nhau. Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: “tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, nó quyết định cả nguồn gốc, nội dung và sự biến đổi của ý thức xã hội”. Mác - Ăngghen khẳng định: “Ngay từ đầu ý thức đã là sản phẩm của xã hội và vẫn như vậy chừng nào con người còn tồn tại”[13;38]. Như vậy, có thể khẳng định đạo đức mang tính lịch sử rõ rệt. Khi xã hội thay đổi, đạo đức cũng thay đổi theo song không phải là toàn bộ, mà nó giữ lại những tinh hoa của đạo đức còn phù hợp với xã hội mới.
Lịch sử phát triển xã hội loài người từ khi xuất hiện giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức là biểu hiện đặc thù của bản chất xã hội mà bản chất xã hội chứa đựng bản chất của giai cấp. Mỗi một giai cấp đều có quan niệm đạo đức khác nhau, phù hợp với bản chất của giai cấp đó không có đạo đức nào vĩnh cửu, chung chung cho mọi giai cấp, mọi thời đại.
Đạo đức không những mang tính lịch sử, tính giai cấp và tính kế thừa, mà đạo đức còn mang tính chuẩn mực và tính tự nguyện. Mặc dù có những nguyên tắc, những chuẩn mực quy định thành văn hoặc không thành văn, song vẫn được mọi người tự giác, chấp hành nghiêm chỉnh. Những quan điểm, nguyên tắc của đạo đức chính là những chuẩn mực tốt đẹp của xã hội được mọi người tự nguyện tuân theo và vươn tới.
Đạo đức cách mạng là kiểu lịch sử cao nhất trong lịch sử loài người, là tổng hợp các quan điểm, quy tắc, chuẩn mực trong xã hội chủ nghĩa, nhờ đó con người tự điều chỉnh hành vi của mình vì lợi ích của xã hội vì hạnh phúc của con người trong mối quan hệ giữa người với người, giữa các cá nhân, tập thể và toàn xã hội trong chế độ chủ nghĩa xã hội.
Đạo đức cách mạng xoá bỏ những chuẩn mực đạo đức phong kiến, vốn luôn trói buộc nhân dân lao động và những lễ giáo hủ tục, phục vụ cho chế độ đẳng cấp nô dịch của xã hội phong kiến. Đạo đức cách mạng hoàn toàn đối lập với cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ, cực đoan của giai cấp tư sản, nó cũng xa lạ với đạo đức con người tiểu tư sản kìm hãm con người trong lợi ích riêng tư, cục bộ, hẹp hòi cũng như trong vòng gia trưởng nhỏ bé. Nó càng xa lạ với đạo đức tôn giáo, khuyên con người ta cam chịu, chấp nhận số phận và hướng cuộc sống tốt đẹp hơn sau khi thoát khỏi “kiếp” trần gian, chế độ xã hội chủ nghĩa, những quan niệm, quan hệ chuẩn mực đạo đức là sự kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc và đạo đức nhân loại. Đồng thời, đạo đức xã hội chủ nghĩa làm phong phú thêm, phát triển những giá trị mới. Đạo đức xã hội chủ nghĩa là đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng thể hiện sự phù hợp giữa các chế định xã hội với ý thức tự nguyện, tự giác của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đó là sự quan tâm của bản thân mỗi người đối với những người xung quanh, với gia đình quê hương, đất nước, là phương thức điều chỉnh hành vi của con người trong lao động sản xuất, trong chiến đấu và điều hoà mối quan hệ xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Đạo đức cách mạng là một căn cứ để đánh giá đúng thái độ, hành vi con người trong xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “...Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm”, “đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”[16;152].
Kế thừa chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa nhân đạo cao cả của nhân loại, Hồ Chí Minh đã phát triển lên một bước mới về chất cho phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và đặc điểm xã hội Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức cộng sản là “đạo đức mới, đạo đức cách mạng” hoàn toàn khác đạo đức trước kia. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như hai chân đứng vững được xuống đất, đầu ngẩng lên trời”[16;320-321]. Bác giải thích rõ hơn; đạo đức mới là giai đoạn phát triển cao của đạo đức con người, nó phù hợp với tiến hoá lịch sử, phục vụ cho mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội và bản thân con người. Nó khơi dậy ở mỗi con người lòng tự hào với Đảng, với giai cấp và dân tộc, lòng tin tưởng và phẩm chất tinh thần của chính bản thân mình, Người khẳng định: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo đó có lợi cho nước, cho dân”[17;321]
Đạo đức cách mạng được Đảng ta xác định: Là lòng trung thành tuyệt đối với đường lối, quan điểm của Đảng, có lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế: “Tiêu chuẩn số một của người cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”[19;258]. Đồng thời, người cách mạng phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng, tôn trọng tình nghĩa đạo lý, có lối sống trong sạch lành mạnh, văn minh, trung thực nhân nghĩa tôn trọng kỷ cương phép nước. Có ý thức bảo vệ của công, lao động chân chính với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất lao động cao. Vì lợi ích của bản thân, gia đình và cộng đồng xã hội không ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức, nâng cao hiểu biết về chuyên môn nghiệp vụ, trình độ thẩm mỹ, văn hoá, sáng tạo trong lao động, tinh thế trong ứng xử, luôn nêu cao ý thức tập thể và của xã hội.
Ngày nay, trước yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Trung ương 3 đã xác định những tiêu chuẩn phẩm chất đạo đức của người cách mạng luôn có là:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tình phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có hiệu quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết lý luận chính trị, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, có trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Là một hoạt động đặc thù, người quân nhân được học tập và rèn luyện trong môi trường quân sự. Vì vậy, đạo đức cách mạng của người quân nhân là đạo đức của người cách mạng nói chung. Đồng thời, mang những nét đặc thù phù hợp với hoạt động quân sự , được tập trung trong 10 lời thề danh dự của quân nhân, 12 điều kỷ luật và được tập trung cao độ ở lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”[14;350].
Đạo đức cách mạng của người học viên Học viện chính trị quân sự là tổng hợp các quy tắc, quan điểm, quan niệm, những nguyên tắc giá trị, chuẩn mực đạo đức mới được kết hợp giữa truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa đạo đức của nhân loại, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng của người học viên được biểu hiện thông qua hoạt động học tập, rèn luyện và trong giải quyết các mối quan hệ với chỉ huy, đồng đội trong đơn vị với nhân dân, đạo đức cách mạng của người học viên Học viện chính trị quân sự góp phần vào việc định hướng, điều chỉnh nhận thức, hành vi hoạt động của họ cho phù hợp với mục tiêu yêu cầu đào tạo của học viện, phù hợp với môi trường hoạt động quân sự. Đạo đức cách mạng của người học viên Học viện chính trị quân sự không phải tự nhiên mà có mà nó là kết quả của quá trình giáo dục, rèn luyện và tự giáo dục, rèn luyện của học viên nhằm biến những giá trị, chuẩn mực đạo đức mới của xã hội, xã hội chủ nghĩa thành đạo đức cách mạng của mỗi quân nhân.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội đạo đức cách mạng có vai trò hết sức to lớn với tồn tại xã hội. Đạo đức cách mạng là công cụ góp phần cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa. Lênin nói: “Đạo đức cách mạng là cái dùng để phá hủy xã hội cũ, của bọn bóc lột và để đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản sáng tạo ra xã hội mới”[11;378].
Ngay từ khi ra đời, đạo đức cách mạng đã sớm đấu tranh phủ định tàn dư của xã hội cũ, mặt khác đạo đức cách mạng là công cụ tăng cường chính trị và chuyên chính vô sản, giữa đạo đức và chính trị có quan hệ khăng khít, thống nhất chặt chẽ với nhau trên cơ sở cùng hệ tư tưởng chính trị xác định nội dung, phương hướng qui mô và tạo nên động lực cho sự phát triển của đạo đức cách mạng. Nếu chế độ xã hội tiến bộ, tốt đẹp thì những yếu tố đạo đức lành mạnh sẽ phổ biến, phát triển và luôn tác động tích cực trở lại nhằm duy trì khẳng định xã hội đó.
Đạo đức còn có quan hệ chặt chẽ với nghệ thuật và pháp luật, đạo đức đặt ra tiêu chí để nghệ thuật vươn tới. Thông qua hoạt động nghệ thuật giáo dục, hoàn thiện nhân cách con người, hướng con người đến các giá trị chân, thiện, mỹ. Đồng thời đạo đức và pháp luật đều nhằm mục đích điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với yêu cầu chung của xã hội, hướng con người vào việc hoàn thành tốt nhiệm vụ của xã hội, còn là phương tiện giáo dục đạo đức cho mỗi con người.
Đạo đức cách mạng là công cụ xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng làm cho con người lao động có thái độ hăng say, nghiêm túc với công việc của mình. Lênin nói: đạo đức cách mạng giúp xã hội loài người tiến bộ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động.
Đạo đức cách mạng là một bộ phận quan trọng của văn hoá, góp phần tạo nên nền tảng của xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Với chức năng của mình, đạo đức cách mạng đã điều chỉnh chủ thể hành động tuân theo giá trị văn hoá, văn minh lành mạnh.
Đạo đức cách mạng có vai trò quan trọng trong giáo dục xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có người xã hội chủ nghĩa”[19;23].Theo Người, con người mới xã hội chủ nghĩa là những con người được giác ngộ sâu sắc về chủ nghĩa Mác-Lênin, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tri thức toàn diện, tư duy tiến bộ, có ý chí vươn lên không ngừng học tập.
Hoạt động quân sự là hoạt động đặc biệt mang tính đặc thù cao. Do đó, đạo đức cách mạng có vị trí, vai trò rất quan trọng, đó là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội, của từng đơn vị và của mỗi cá nhân cán bộ, chiến sĩ đạo đức định hướng giá trị đối với thái độ, hành vi của mỗi quân nhân.
Đạo đức cách mạng điều chỉnh lối sống, hành vi của quân nhân cho phù hợp với yêu cầu khách quan của xã hội và quân đội, nhờ đó mà phối hợp hành động của các quân nhân bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất cả về tư tưởng và hành động của bộ đội trong sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng như trong xây dựng đất nước.
Đạo đức cách mạng cổ vũ và trực tiếp hành động của mỗi cán bộ chiến sĩ, học viên góp phần quyết định chất lượng thực hiện các nhiệm vụ tác chiến cũng như sẵn sàng chiến đấu.
Đạo đức cách mạng góp phần đấu tranh chống lại những quan điểm, tư tưởng sai trái đặc biệt là chủ nghĩa cá nhân, bệnh tham lam, lười biếng, bệnh kiêu ngạo, hám danh, ích kỷ...đồng thời là cơ sở để mỗi người học viên phát huy tài năng và các phẩm chất khác, hướng các phẩm chất năng lực của con người vào những hoạt động thực tiễn cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”[19;238].
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của đạo đức cách mạng
Có thể xem xét đạo đức con người học viên Học viện chính trị quân sự từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng chủ yếu bởi hai góc độ cấu trúc và từ các phẩm chất đặc trưng.
Một là: Theo cấu trúc: Đạo đức cách mạng của người học viên Học viện chính trị quân sự bao gồm quan hệ đạo đức, ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức.
Quan hệ đạo đức là hệ thống những quan hệ xác định giữa con người và con người, giữa cá nhân và xã hội về mặt đạo đức.
Theo Mác: “Trong tính hiện thực, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội” nghĩa là, con người bao giờ cũng tồn tại trong những mối quan hệ xã hội, mỗi cá nhân là một thành viên của cộng đồng, hoạt động trong không gian, thời gian, xác định với công việc và ngành nghề cụ thể. Quan hệ đạo đức được biểu hiện rất phong phú trong từng điều kiện hoàn cảnh, nội dung công việc và quan hệ xã hội.
Quan hệ giữa học viên với học viên là quan hệ trên tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, đoàn kết hiệp đồng, đồng cam cộng khổ thương yêu như ruột thịt. Đây là mối quan hệ tôn vinh, một giá trị đạo đức cao đẹp của người học viện Học viện chính trị quân sự và trong quan hệ ấy họ phải thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ.
Quan hệ của học viên Học viện chính trị quân sự với nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ chính trị của quân đội, là quan hệ của người cán bộ đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, với chế độ xã hội chủ nghĩa, với “lòng tận tâm, tận lực” phục vụ quân đội, phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những mối quan hệ này được hình thành phát triển như một tất yếu của sự nghiệp xây dựng quân đội, xây dựng Học viện chính trị quân sự, nó xác định những nhu cầu khách quan về đạo đức cách mạng của người học viên. Quan hệ ứng xử trong tập thể đơn vị mang tính đạo đức, được xã hội định ra những quy tắc, chuẩn mực được người học viên Học viện chính trị quân sự chấp nhận, tuân theo. Người học viên hết lòng thương yêu nhau, dũng cảm đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực hành tiết kiệm... Những chuẩn mực đạo đức đó phù hợp và đáp ứng các mối quan hệ nhằm củng cố, phát triển nâng cao nhận thức của người học viên. Những quan hệ đạo đức này là một trong những cơ sở để hình thành ý thức đạo đức của người học viên Học viện chính trị quân sự.
ý thức đạo đức là sự phản ánh tồn tại xã hội thông qua những quy tắc, cách cư xử chuẩn mực phù hợp với những quan hệ đạo đức đang tồn tại.
Khi các mối quan hệ của con người được xác lập như một tất yếu khách quan thì xuất hiện nhu cầu xây dựng các nguyên tắc cho sự thiết lập các quan hệ và bảo đảm cho các quan hệ vận hành.
Phản ánh tồn tại xã hội, ý thức đạo đức luôn được gắn liền với tính giai cấp; phản ánh những quan hệ giữa người với người về mặt đạo đức theo những quan điểm thích hợp về những tiêu chuẩn, nguyên tắc về thiện ác, tốt xấu, công bằng và bất công, lương tâm và trách nhiệm... Tất cả những hình thức này của ý thức hợp thành một hệ thống vừa quy định vừa đánh giá những hành động đạo đức. Cho nên, ý thức đạo đức là sự thể hiện thái độ nhận thức và hành vi của mỗi người trước yêu cầu hệ thống chuẩn mực và quy tắc đánh giá, điều chỉnh của xã hội, giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn thành một cách tự giác nghĩa vụ đạo đức. Tương ứng với hình thức hoạt động trong nghề nghiệp, trong cán bộ đảng viên và cán bộ quân đội.
ý thức đạo đức của người học viên Học viện chính trị quân sự biểu hiện ở lập trường giai cấp công nhân kiên định, bản lĩnh vững vàng, lòng tin, sự trung thành với sự nghiệp cách mạng, tinh thần triệt để và tiến công cách mạng. Luôn đề cao trách nhiệm trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức được giá trị đạo đức cao đẹp của nghĩa vụ, tình thương và sự qúy trọng bộ đội, của cần, kiệm, liêm, chính, dũng cảm chiến đấu chống mọi kẻ thù, chống mọi điều ác. Sự cần thiết trong kết hợp hài hoà giữa trách nhiệm nghĩa vụ với lợi ích, lối sống lành mạnh, giản dị với thái độ làm việc sáng tạo khoa học và động cơ học tập phát triển tài năng, nâng cao năng lực hoàn thành nhiệm vụ, giàu lòng nhân ái, đoàn kết, quan tâm người khác.
Thực tiễn đạo đức là quá trình hiện thực hoá ý thức và quan hệ đạo đức trong đời sống. Thực tiễn hoạt động phong phú đa dạng của con người, là điểm xuất phát và cũng là nơi đạo đức thể hiện những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức tiến bộ hay lạc hậu.
Thực tiễn đạo đức có vị trí hết sức quan trọng, nếu thiếu nó thì ý thức đạo đức không có ý nghĩa, rơi vào trừu tượng và không đạt tới giá trị. Cho nên, không có thực tiễn đạo đức thì mọi lý thuyết đạo đức chỉ là lời nói suông và vô nghĩa. ý thức đạo đức, nhất
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3.doc