Đề tài Đánh giá thiệt hại kinh tế do ngập lụt ở Hà Nội năm 2008

Từ trước đến nay, nếu lũ lụt ở nông thôn vốn không xa lạ gì với người Việt Nam, thì ngập lụt ở đô thị lại là hiện tượng mới, xuất hiện cùng với sự phình to nhanh chóng của các đô thị trong hai chục năm qua. Giới nghiên cứu sẽ còn mổ xẻ những sai lầm và thiếu sót trong quy hoạch đô thị, dự báo khí tượng thuỷ văn, kế hoạch trị thuỷ cho sông Hồng. Nhìn từ góc độ chống lụt, đô thị có ba đặc điểm cơ bản: là nơi tập trung dân cư phi nông nghiệp, có nhà cửa kiên cố và mặt đất được cứng hoá phần lớn. Ba đặc điểm này dẫn đến các đặc thù của úng ngập đô thị so với lũ lụt nông thôn, đòi hỏi các ưu tiên và giải pháp rất khác biệt. Trong trận mưa lịch sử những tháng 10 và 11 năm 2008, tình trạng ngập lụt đã diễn ra gây thiệt hại to lớn cho thành phố Hà Nội, gióng một hồi chuông cảnh báo cho sự tác động ngập lụt tới khu vực đô thị. Trong đề tài “ Đánh giá thiệt hại kinh tế do ngập lụt ở Hà Nội năm 2008 “ , tôi mong rằng sẽ giải được bài toán tính các tổn thất mà thành phố phải gánh chịu.

doc67 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Đánh giá thiệt hại kinh tế do ngập lụt ở Hà Nội năm 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU - Lý do chọn đề tài, tên đề tài Từ trước đến nay, nếu lũ lụt ở nông thôn vốn không xa lạ gì với người Việt Nam, thì ngập lụt ở đô thị lại là hiện tượng mới, xuất hiện cùng với sự phình to nhanh chóng của các đô thị trong hai chục năm qua. Giới nghiên cứu sẽ còn mổ xẻ những sai lầm và thiếu sót trong quy hoạch đô thị, dự báo khí tượng thuỷ văn, kế hoạch trị thuỷ cho sông Hồng. Nhìn từ góc độ chống lụt, đô thị có ba đặc điểm cơ bản: là nơi tập trung dân cư phi nông nghiệp, có nhà cửa kiên cố và mặt đất được cứng hoá phần lớn. Ba đặc điểm này dẫn đến các đặc thù của úng ngập đô thị so với lũ lụt nông thôn, đòi hỏi các ưu tiên và giải pháp rất khác biệt. Trong trận mưa lịch sử những tháng 10 và 11 năm 2008, tình trạng ngập lụt đã diễn ra gây thiệt hại to lớn cho thành phố Hà Nội, gióng một hồi chuông cảnh báo cho sự tác động ngập lụt tới khu vực đô thị. Trong đề tài “ Đánh giá thiệt hại kinh tế do ngập lụt ở Hà Nội năm 2008 “ , tôi mong rằng sẽ giải được bài toán tính các tổn thất mà thành phố phải gánh chịu. - Mục tiêu nghiên cứu Mưa ngập năm 2008 không chỉ gây ra cho Hà Nội những thiệt hại kinh tế có thể tính toán dễ dàng với các diện tích cây cối, hoa màu, thủy sản nuôi trồng bị mất trắng, số vật nuôi bị chết, cơ sở hạ tầng bị phá hỏng, chi phí khám chữa bệnh...mà còn gây ra những tác động khó xác định như các thiệt hại sản phẩm vì người dân phải nghỉ làm do ngập, nghỉ làm do khám chữa bệnh, nghỉ làm do chăm sóc người nhà mắc bệnh, chi phí môi trường...Tính toán con số thiệt hại đầy đủ chính là mục tiêu của đề tài nhằm đưa ra được cái nhìn toàn diện về những tổn thất của thành phố trong trận ngập này. - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Hà Nội dẫn đầu các địa phương bị thiệt hại nặng nề trong đợt mưa tại khu vực miền Bắc những tháng gần cuối năm 2008 về cả số người thiệt mạng và các tổn thất kinh tế. Hơn thế nữa, đời sống của người dân trong thành phố cũng bị ảnh hưởng rất nhiều do phần lớn cuộc sống người dân đô thị đều phụ thuộc vào các dịch vụ công cộng. Khi mưa lớn, ách tắc giao thông, người dân trở nên khó tiếp cận với lương thực, thực phẩm và nguồn nước sạch. Vì vậy đối tượng nghiên cứu của đề tài này bao gồm cả khu vực nội thành và ngoại thành Hà Nội với tất cả các mặt kinh tế, môi trường và đời sống xã hội. - Phương pháp nghiên cứu Do đặc điểm của các thiệt hại do ngập lụt đa số đều có giá thị trường nên phương pháp được sử dụng trong đề tài sẽ là phương pháp đánh giá trực tiếp ( các phương pháp đánh giá thiệt hại vật chất hữu hình ) đó là các phương pháp sau: - Phương pháp thay đổi năng suất - Phương pháp chi phí sức khoẻ - Phương pháp chi phí cơ hội - Phương pháp chi phí phòng ngừa - Phương pháp chi phí thay thế - Giới thiệu kết cấu luận văn Ngoài phần lời mở đầu và kết luận thì nội dung chính gồm 4 chương: Chương 1: Phương pháp luận đánh giá thiệt hại Chương 2: Thực trạng ngập lụt Hà Nội năm 2008 Chương 3: Đánh giá thiệt hại ngập lụt Hà Nội năm 2008 Chương 4: Kiến nghị và đề xuất CHƯƠNG I PHƯƠNG PHÁP LUẬN ĐÁNH GIÁ THIỆT HẠI I – GIỚI THIỆU VỀ NGẬP LỤT ĐÔ THỊ 1.1. Khái niệm ngập lụt đô thị * Khái niệm ngập lụt: Từ trước đến nay vấn đề thiên tai như ngập lụt luôn là bài toán hóc búa với các nhà quản lý. Lụt là hiện tượng nước tràn ngập trên một vùng đất. Người ta cũng dùng cụm từ đại hống thủy để mô tả những trận lụt lớn do nước gây ngập sâu trên một diện tích rộng lớn. Nếu hiểu theo nguyên nhân lụt là do "dòng nước" thì hiện tượng ngập nước do thủy triều cũng có thể được cho là lụt. Lụt có thể do nước từ các sông, hồ tràn ra khu vực lân cận khi lượng nước vượt quá sức chứa của chúng hay do nước từ những dòng sông tràn ra vùng đất lân cận khi cường độ dòng nước quá lớn. * Ảnh hưởng của ngập lụt: - Ảnh hưởng sơ cấp (ảnh hưởng sớm) + Phá hủy: Lụt có thể làm hại, gây hư hỏng hay sập đổ hoàn toàn các công trình giao thông như cầu, cống, đường tàu, hệ thống thoát nước, nhà cửa … + Thương vong: Người và động vật bị chết đuối, bị thương do tai nạn do ngập nước gây ra. - Ảnh hưởng thứ cấp (ảnh hưởng muộn) + Ảnh hưởng đến nước sinh hoạt nói riêng và nguồn nước nói chung: Nước bị ô nhiễm do nước mang theo các chất thải từ cống, rãnh, ao hồ tràn lên đường phố, nhà, khu vực các vòi nước công cộng..., khan hiếm nước uống... + Bệnh cho người và động vật: Do vệ sinh kém, do các bệnh truyền nhiễm dựa vào nước để phán tán. Một ví dụ điển hình là dịch tả. + Thiệt hại trong nông nghiệp: Gây ngập các khu vực trồng trọt nên có thể gây giảm năng suất, nguyên nhân của mất mùa, mất trắng... gây khan hiếm lương thực. Nhiều loài thực vật không có khả năng chịu úng bị chết. - Ảnh hưởng lâu dài Gây khó khăn cho nền kinh tế: Giảm "tức thời" hoạt động du lịch, chi phí cho tái xây dựng, tăng giá các mặt hàng lương thực thực phẩm … * Ngập lụt đô thị: Hiện nay có một khái niệm còn khá mới nhưng cũng đang là một vấn đề được bàn luận nhiều trong những năm gần đây đó là ngập lụt đô thị, hiện tượng ngập tràn nước trong khu vực đô thị. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến ngập lụt đô thị đặc biệt là vấn đề quy hoạch xây dựng và hệ thống thoát nước. Với sự tập trung dân số đông và các ngành nghề đa dạng, ngập lụt đô thị luôn gây ra những hậu quả to lớn hơn so với những tính toán ngập lụt ở những vùng nông thôn. 1.2. Ngập lụt đô thị ở Việt Nam Quá trình đô thị hóa của Việt Nam đang hình thành những “đại đô thị”, đặt chính quyền đối diện với rất nhiều vấn đề phát sinh khó giải quyết: tắc nghẽn giao thông, ngập nước nội thành, thiếu nhà ở, ô nhiễm khói bụi, quá tải dân số... Việc phát triển đô thị mà không tính toán giải quyết triệt để các vấn đề phát sinh thì dù có mang lại hiệu quả kinh tế trước mắt nhưng sẽ là “tăng trưởng âm” nếu tính toán đến những giá trị về văn hóa, tinh thần, môi trường đời sống bị mất đi mà không thể khắc phục được. Trong những hậu quả của quá trình tăng trưởng kinh tế thì ngập lụt trong các khu vực đô thị ở Việt Nam cũng đang dần gia tăng. Các thành phố, thị xã trong cả nước và khu vực ở Việt Nam hầu hết nằm ở trong lưu vực các con sông lớn, có mạng lưới sông rạch chằng chịt. Những năm gần đây, cùng với tốc độ đô thị hóa diễn ra khá nhanh, sự bùng nổ các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và đặc biệt là sự gia tăng dân số cơ học đã làm cho khối lượng chất thải, nước thải vào môi trường ngày một nhiều hơn. Do mặt đất đã bị cứng hoá do xây đường sá, nhà cửa, khả năng thoát úng tự nhiên của đất trong các đô thị thấp hơn hẳn so với nông thôn. Các đô thị với bề mặt đất bị cứng hoá từ 75% đến 100% chỉ có khả năng tự thoát bằng một phần năm so với đất tự nhiên. Hơn một nửa lượng nước mưa sẽ biến thành nước chảy tràn. Đó chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến nạn ngập nước đô thị ngày càng trở nên đáng báo động. Tuy các khu vực đô thị đã được triển khai nhiều giải pháp khắc phục nhưng cũng mới chỉ mang tính cục bộ do chưa nắm vững được bản chất vật lý của khu vực bị ngập nước cũng như tính mất cân bằng của lưu vực trong quá trình đô thị hóa. Những nhà cao tầng được xây mà lại không không xây dựng hồ điều hòa, không căn cứ trên lưu vực trên khoa học lưu vực và giải quyết những vấn đề đô thị ngập triều... 1.3. Ngập lụt Hà Nội Sau khi được mở rộng, với khoảng 6,3 triệu dân và diện tích 3.334 km2, quy hoạch hạ tầng, nhất là các lĩnh vực giao thông, cấp - thoát nước của Hà Nội trở nên quá tải và không còn phù hợp. Trong cơn “đại hồng thủy” năm 2008, Hà Nội đã gây ngập úng trên diện rộng, thiệt hại lớn về người và của. Một nguyên nhân quan trọng dẫn đến trận ngập lụt này là do hệ thống công trình thoát nước đầu tư chưa đồng bộ, chiều dài của cống vẫn còn thấp, mới chỉ đáp ứng được 60% diện tích nền đường, tương đương 0, 2m cống trên một người dân (thế giới là 2m cống trên một người dân), nhiều tuyến cống được xây dựng từ thời thuộc Pháp nên xuống cấp trầm trọng, không tiêu thoát được. Đặc biệt, một số tuyến phố lại có cốt đường thấp hơn nhà dân từ 60 - 80 cm nên mưa xuống nước là gây ngập úng. Với những trận mưa lên đến 600mm, thì không chỉ Hà Nội mà một số thành phố lớn trên thế giới cũng không tránh được ngập... Toàn bộ hệ thống thoát nước trên địa bàn Hà Nội quá yếu kém bởi được sử dụng hỗn hợp cho cả việc thoát nước mưa và nước thải. Mật độ cống thấp, chiều dài cống so với chiều dài đường mới chỉ chiếm 60% trên đường phố và 29% đường ngõ xóm. Thêm vào đó, từ 1995 đến nay, khoảng 30% diện tích kênh, mương, hồ điều hòa bị mất do lấn chiếm. Đáng lẽ các hồ phải phục vụ cho việc thoát nước, thì trên thực tế, chính quyền ở một số nơi lại cho phép các công ty quản lý, khai thác các hồ cho tư nhân thuê để nuôi cá. Chính vì vậy, việc hạ mức nước tại các hồ này gặp nhiều khó khăn, khiến công tác điều tiết, tiêu thoát nước khi mưa xuống bị chậm trễ.  Để đảm bảo việc thoát nước, bất kỳ đô thị nào cũng phải có một cao độ chuẩn cho cả đô thị hoặc cho riêng từng khu vực, nhưng Hà Nội chưa có. Cao độ chuẩn này đặc biệt quan trọng vì khi xây dựng hệ thống thoát nước, bao giờ cũng phải dẫn từ cao độ chuẩn với độ dốc từ 5-7%. Đáng tiếc là, trong kiểm tra quy hoạch những năm gần đây, thành phố Hà Nội không xác định được một cao độ chuẩn để từ đó xác định ra hướng thoát nước tự nhiên. Trong điều kiện như vậy, việc tiêu thoát nước chỉ có thể trông chờ vào giải pháp thoát nước cưỡng bức. Nhưng khi thiết kế xây dựng các trạm bơm lại quá thấp, khi nước lên, trạm cũng bị ngập, không thể hoạt động được. Quy hoạch thoát nước Hà Nội hiện là một bài toán lớn, phức tạp bởi thiếu tầm nhìn xa. Do vậy, hệ thống tiêu, thoát nước không được cải thiện bao nhiêu dù được đầu tư lớn. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng cho rằng, trận lũ lịch sử của Hà Nội nằm ngoài tầm kiểm soát của các công trình xả lũ. Với tốc độ đô thị hóa nhanh, công trình dân sinh nhiều nên gây ách tắc, hạn chế dòng chảy. Thực tế ở Hà Nội trước kia có 150 hồ, cho tới năm 1990 thì Hà Nội vẫn còn có 40 hồ. Thế nhưng, đến nay 20 hồ đã biến mất, 150ha mặt nước đã bị lấp cho các dự án phân lô bán nền. Các nhà khoa học cảnh báo do bê tông hóa không khoa học, các hồ tại Hà Nội đang mất đi chức năng điều tiết nước mỗi khi có mưa lớn. Hiện chưa có một bài toán thoát nước thay thế nào khi cho lấp mặt hồ làm nhà và chỉ cần một cơn mưa to là cuộc sống của hàng triệu người dân trở nên bế tắc. Có thể quyền lợi của một số doanh nghiệp, của những người được cấp đất và rất có thể kể cả quyền lợi của những người ký duyệt đã được tính đến khi cho lấp 150ha mặt hồ này nhưng quyền lợi của hàng triệu người dân thủ đô rõ ràng là đã chưa được tính. Một nguyên nhân nữa sẽ dẫn đến ngập lụt là sự hạ thấp bề mặt địa hình Hà Nội. Cụ thể là nền đất bị sụt lún do các công trình, cụm công trình xây dựng do việc khai thác nước ngầm quá mức, sụt lún do vận động của vỏ Trái đất (sụt lún kiến tạo). Hà Nội hiện có một dải đất yếu tập trung ở khu vực đông nam và nam Hà Nội cũ. Khu vực này rất dễ bị sụt lún làm cốt nền đất Hà Nội bị hạ thấp tương đối lớn thường xuyên bị ngập úng khi có mưa lớn. Cụ thể là khu vực quận Hoàng Mai, Hai Bà Trưng, Thanh Trì, Ba Đình và một phần huỵện Từ Liêm...Chính vì thế, đô thị có diện tích xây dựng càng dày đặc như nội thành Hà Nội thì nguy cơ úng ngập càng cao và khả năng tự thoát lụt càng chậm. Đây là lý do khiến tình trạng úng ngập của Hà Nội trầm trọng thêm mỗi khi mùa mưa đến. Đến bây giờ, khả năng ứng phó của hệ thống thoát nước thành phố là câu hỏi lớn nhất, gây nhiều bức xúc nhất. Việc nghiên cứu và đưa ra một mô hình thoát nước hiệu quả, lâu dài cho Hà Nội cần được thực hiện một cách nghiêm túc. Theo kế hoạch thì quy hoạch tổng thể dự án thoát nước Hà Nội, do JICA (Nhật Bản) lập và đã được Chính phủ phê duyệt từ năm 1995 (giai đoạn 1995 - 2010), có phạm vi cho toàn bộ lưu vực sông Tô Lịch và sông Nhuệ (135km2). Giai đoạn một của dự án đã hoàn thành với tổng mức đầu tư 180 triệu USD, giai đoạn 2 sắp sửa tiến hành với số vốn 370 triệu USD. Trong đó, phía Bắc và phía Đông giáp đê sông Hồng; phía Tây giáp sông Nhuệ và phía Nam giáp hạ lưu sông Kim Ngưu, với chu kỳ bảo vệ là 10 năm, ứng với trận mưa có lưu lượng 310mm/2 ngày. Tổng mức đầu tư ban đầu của toàn dự án là 1.162 triệu USD, được phân kỳ đầu tư phù hợp với điều kiện kinh tế của từng thời điểm. Dự án thoát nước của Hà Nội được đưa ra cách đây gần 20 năm. Về phạm vi nghiên cứu của dự án thoát nước, tổng lưu vực nghiên cứu khi đó mới tương ứng với diện tích 17.000ha, trong khi Hà Nội mới mở rộng có diện tích gấp 20 lần. Như vậy dự án cấp thoát nước đến nay đã không còn phù hợp. Nước chảy từ nơi cao xuống nơi thấp nên không thể chỉ nghiên cứu quy hoạch trong một vùng nhỏ, mà phải nghiên cứu tổng thể trên cả địa bàn thành phố. Và thực tế là hiện Hà Nội đang tiến hành bơm rút nước bằng hệ thống máy bơm hồ Yên Sở thì ngay lập tức nước ở các nơi khác lại tràn về. Theo dự án thoát nước của Hà Nội thì hiện nước mới chỉ được dồn xuống hồ Yên Sở thông qua sông Tô Lịch và các hệ thống kênh mương khác rồi mới bơm ra sông Hồng. Hoặc dùng đập tràn để tràn nước ra sông Nhuệ. Cũng trong quy hoạch thoát nước cũ thì sông Nhuệ ở phía Tây thành phố, nằm ở vùng ngoại vi. Nhưng nay, khi Hà Nội đã được mở rộng thì sông Nhuệ lại nằm ở giữa, và khu đô thị ở hai bên sông Nhuệ đều đang phát triển quá nhanh khiến sông Nhuệ bị quá tải. Quy hoạch thoát nước đã không còn phù hợp nữa. Cho dù hoàn thành toàn bộ dự án, năng lực thoát nước của Hà Nội cũng chỉ dừng lại ở trận mưa 310 mm trong 2 ngày. Trong khi trận mưa năm 2008 vừa rồi, riêng nội thành mưa trung bình trên 500 mm. Trong khu vực Hà Nội cũng liên tiếp đón nhận hàng loạt trận mưa lớn, cảnh ngập lụt cục bộ diễn ra khắp nơi. Với trận ngập lụt kỷ lục tại Hà Nội và nước triều dâng lịch sử tại TP.HCM thì yêu cầu giải bài toán thoát nước đô thị đã trở nên thực sự cấp thiết. Hiện những người lập quy hoạch đang bắt tay tìm ra hướng giải quyết hiệu quả nhất bắt đầu từ công tác quy hoạch, định hướng phát triển cũng như tất cả vấn đề giải quyết hệ thống thoát nước, hệ thống căn bằng sinh thái để tạo sự phát triển bền vững cho đô thị. Các tham luận của các nhà khoa học Việt Nam và các chuyên gia đến từ Trung Quốc Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore, Bỉ, Anh Quốc đã đưa ra những giải pháp tối ưu, thiết lập hệ cân bằng mới về thoát nước đô thị của lưu vực kết hợp nạo vét kênh rạch đối với vùng cao. Việc giải quyết vấn đề ngập lụt đô thị không đơn giản chỉ có việc thoát nước mà đây thực sự là một bài toán phức tạp về kinh tế, kỹ thuật và xã hội. Để làm tốt vấn đề này hướng tới sự phát triển bền vững thì cần có một cách nhìn toàn diện gắn với các giải pháp đồng bộ và ý thức trách nhiệm của các ngành chức năng. 1.4. Kinh nghiệm đối phó với ngập lụt đô thị trên thế giới Tháng 5-2008, một nhóm tác giả thuộc Hiệp hội Nước của Úc đã tham gia hội thảo “Tai biến địa chất và giải pháp phòng chống” do Hội Địa chất công trình và môi trường Việt Nam phối hợp với Văn phòng Ban chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương tổ chức tại Hà Nội. Ở đó, họ đã trình bày một giải pháp chống lũ bằng rào cản di động. Theo nhóm tác giả này, rào cản di động có thể cứu được cả một thành phố có nguy cơ bị nước lũ nhấn chìm. Những khung thép hình tam giác vuông, cạnh nghiêng hướng về phía có nước lũ được xếp liền nhau thành hàng rào, phủ vải chống thấm, các mép vải chống thấm được chặn lại. Người ta có thể chủ động dựng rào chắn di động này ở dọc bờ sông, những khu vực sẽ bị ngập lũ. Khi nước rút có thể dỡ rào chắn xếp lại. Đây là một giải pháp vừa cấp cứu vừa lâu dài có thể giải quyết được tình trạng ngập cục bộ ở nhiều tuyến giao thông lớn, tránh được tình trạng giao thông đình trệ như những ngày qua. Tường rào chắn nước tại Úc Ngoài ra còn có nhiều giải pháp, bài học kinh nghiệm về chống ngập đã được sử dụng ở trên thế giới rất đáng được quan tâm và xem xét cho việc áp dụng tại Việt Nam: - Quy hoạch thành phố trên vùng đất cao, cách xa bờ sông, xây mạng lưới hồ chứa nước đa mục đích (Trung Quốc); - Đánh giá tác động xã hội, tạo điều kiện cho nhà đầu tư tham gia lựa chọn hệ thống thoát nước, thay đổi ý thức cộng đồng dân cư (Thái Lan, Indonesia); - Phối hợp trong công tác quản lý (Philippines)... - Hạn chế phát triển và bắt buộc phải có biện pháp phòng lụt khi cải tạo các công trình, khu đất nằm trong vùng có nguy cơ ngập lụt tại một số thành phố trên thế giới như Calgary (Canada). Dự án chỉ có thể được chấp nhận nếu không làm giảm diện tích mặt nước và giảm thiểu tác động nguồn chảy. - Thành phố Curitiba (Brazil) đã công khai thông tin, bản đồ về vùng có khả năng bị ngập lụt, khiến giá đất tại những nơi đó giảm xuống. Khi đó, chính quyền dễ dàng mua lại đất đai để làm công trình công cộng và du lịch. Vào mùa khô, công viên là nơi nghỉ ngơi, mùa mưa những công viên này với nền đất tự nhiên sẽ là nơi chứa và thẩm thấu một lượng nước đáng kể. Khi công viên này hoàn thành, vùng có nguy cơ ngập không còn ngập nữa và đất đai xung quanh sẽ tăng giá nhờ cảnh quan đẹp. - Ở các nước, cùng với bản đồ sử dụng đất thì bản đồ vùng có nguy cơ ngập lụt là một trong hai bản đồ quan trọng được công bố chi tiết theo quy định của pháp luật. Khu vực có khả năng bị ngập lụt chỉ có thể được cải tạo, chỉnh trang mà không được dùng để phát triển đô thị mới. Liên hệ với Việt Nam, các bản đồ xác định vùng có nguy cơ ngập lụt chưa được công bố rộng rãi. Quan điểm cơ bản của các nhà lập quy hoạch trên thế giới đó là ngập lụt đô thị không phải đơn giản chỉ có việc thoát nước mà thực sự là một bài toán phức tạp về kinh tế, kỹ thuật và xã hội, đòi hỏi tính chiến lược của nhà quản lý, tính ứng dụng cao từ các công trình khoa học và sự đồng thuận của cộng đồng, cùng hướng đến việc phát triển bền vững II - CÁC PHƯƠNG PHÁP LƯỢNG GIÁ THIỆT HẠI Đánh giá kinh tế được xây dựng để tính toán các thiệt hại kinh tế do ô nhiễm gây ra, có rất nhiều phương pháp khác nhau, nhưng được chia thành hai loại chính là các phương pháp đánh giá trực tiếp và các phương pháp đánh giá gián tiếp. 1.5. Đánh giá trực tiếp Các phương pháp trực tiếp được sử dụng để đánh giá thiệt hại vật chất hữu hình và các thiệt hại đó thường có giá thị trường, đó là phương pháp thay đổi năng suất, phương pháp chi phí sức khoẻ, phương pháp chi phí cơ hội, phương pháp chi phí phòng ngừa, phương pháp chi phí thay thế. 1.5.1. Phương pháp thay đổi năng suất Phương pháp này thường sử dụng để tính toán thiệt hại do ô nhiễm trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản…Ô nhiễm không khí và nguồn nước có thể làm giảm sản lượng nông sản thu hoạch ở những nơi bị tác động, nó cũng có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng của rừng trồng lấy gỗ. Chất lượng nước giảm cũng ảnh hưởng xấu đến ngành công nghiệp đánh bắt thuỷ sản. Một sự thay đổi trong mức độ ô nhiễm sẽ làm thay đổi yếu tố, các hình thái của các khả năng thay thế, làm hạn chế sự lựa chọn sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản và vì thế ảnh hưởng đến quyết định của người nông dân trong việc theo đuổi mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Sở dĩ có thiệt hại là vì ô nhiễm bằng nhiều cách can thiệp vào quá trình sản xuất làm cho sản phẩm làm ra tốn nhiều chi phí hơn. Cách ước lượng lợi ích sản xuất liên quan đến việc giảm ô nhiễm cũng phụ thuộc vào từng hoàn cảnh khác nhau. Người ta thường sử dụng hàm liều lượng – đáp ứng, một hàm số nghiên cứu mối quan hệ giữa biến chất lượng môi trường và mức sản lượng của thị trường hàng hoá, để dự đoán sự thu về hay mất đi của kết quả lợi nhuận từ một sự thay đổi chất lượng môi trường. Sử dụng phương pháp thay đổi năng suất đòi hỏi phải có sự phân tích về quy trình sinh học, khả năng công nghệ và khả năng phân tích sự tác động của các yếu tố môi trường đối với quyết định của nhà sản xuất và ảnh hưởng của sự thay đổi kết quả sản xuất tới chi tiêu phúc lợi xã hội. Trong trận ngập lụt Hà Nội, nhiều diện tích nông nghiệp, thủy hải sản bị ngập trắng gây ra thiệt hại to lớn đối với thu nhập của người dân. Để đánh giá thiệt hại kinh tế của ngành nông nghiệp, ta sử dụng phương pháp chi phí thay đổi năng suất để tính toán sự chênh lệch lợi tức sản xuất nông nghiệp và thủy hải sản trước và sau khi xảy ra ngập lụt. 1.5.2. Phương pháp chi phí sức khoẻ Tất cả các dạng ô nhiễm đều có ảnh hưởng bất lợi đến sức khoẻ đặc biệt là các dạng ô nhiễm không khí và ô nhiễm nước. Do đó đo lường thiệt hại sức khoẻ từ mức độ ô nhiễm là công việc quan trọng của các nhà kinh tế môi trường. Nền tảng của công việc đánh giá này là hàm liều lượng – đáp ứng diễn tả mối quan hệ giữa sức khoẻ con người và quá trình tiếp xúc với chất ô nhiễm môi trường. Có rất nhiều yếu tố tác động đến sức khỏe, hoặc người ta phải đưa vào tất cả các biến số khác hoặc phải chịu rủi ro tính toán tác động của ô nhiễm trong khi thiệt hại sức khỏe thực sự bị các biến số khác tác động. Điều này yêu cầu một số lượng lớn các dữ liệu chính xác liên quan đến các tác động sức khỏe cũng như các biến số tác động khác. Một số số liệu như chất lượng nước hay không khí, thống kê về tử vong…có thể tìm thấy trong các tài liệu thống kê nhưng số liệu thường rất tổng quát , khó đem lại kết quả chính xác. Sau khi nghiên cứu hàm liều lượng - đáp ứng, công việc chính là tính toán cá giá trị có ảnh hưởng tới sức khoẻ người dân. Hậu quả về sức khỏe được chia làm 2 nhóm: Bệnh tật và tử vong. * Chi phí bệnh tật bao gồm sự tính toán các chi phí chữa bệnh, chi phí nghỉ làm hay mất thời gian làm việc và chi phí người thân chăm sóc người bệnh. - Các chi phí để điều trị khỏi bệnh : C 1 = Ni x Ti Trong đó : C 1: Chi phí điều trị khỏi bệnh Ni: Số người bệnh gia tăng Ti : Chi phí khám chữa bệnh, thuốc men, bồi dưỡng - Chi phí cơ hội : + Thiệt hại sản phẩm do người bị bệnh mất khả năng lao động, sản phẩm thuần túy trong thời gian ốm đau của bệnh nhân i: C2 = Ni x W x ( Ii + Hi x Ki ) Trong đó: Ni : Số người bệnh gia tăng W : Tiền lương trung bình một ngày Ii : Số ngày nghỉ trung bình của một người bệnh Hi : Số ngày dưỡng bệnh ( không nghỉ ) của một người bệnh Ki : Khả năng lao động bị giảm của một bệnh nhân mắc bệnh trong thời gian dưỡng bệnh + Thiệt hại sản phẩm do người thân nghỉ việc chăm sóc bệnh nhân C3 = Ni x W x Vi Ni: số người bệnh (giả định mỗi bệnh nhân chỉ có một người thân chăm sóc ) W : tiền lương trung bình một ngày Vi : Số ngày nghỉ để trông nom người bệnh * Chi phí tử vong có thể được đánh giá bằng cách xem xét những đóng góp kinh tế bị mất đi do không còn sống nữa. Trong suốt cuộc đời làm việc, một người có thể đóng góp vào quá trình sản xuất hàng hóa, dịch vụ mà xã hội tiêu dùng. Khi người đó chết, quá trình sản xuất dừng lại, do dó chúng ta có thể tính giá trị sản xuất người đó có thể tạo ra nếu người đó còn sống. Bằng cách suy luận WTP trung bình trong giảm thiểu rủi ro, ta có thể ước lượng giá trị một cuộc sống theo tính toán giá trị cuộc sống được thống kê ( VSL ) Theo công thức sau: VSL = WTP x 1/10000 Ngập lụt tại Hà Nội làm cho nguồn nước bị ô nhiễm nghiêm trọng. Hơn thế nữa, rác thải và ẩm mốc làm cho chất lượng không khí cũng bị giảm và nguy cơ phát tán bệnh dịch rất cao. Sau ngập lụt, tình hình bệnh dịch gia tăng nhanh chóng mà nhiều nhất là các bệnh liên quan đến nguồn nước: đau mắt hột, sốt xuât huyết, tiêu chảy, viêm da. Ta sẽ dùng phương pháp này để tính thiệt hại kinh tế đối với Hà Nội cho vấn đề chi tiêu sức khỏe. 1.5.3. Phương pháp chi phí cơ hội Phương pháp này không trực tiếp đánh giá lợi ích môi trường. mà thay vào đó người ta ước tính lợi ích của những hoạt động làm suy thoái môi trường. Đây không phải phương pháp xác định giá trị nhưng lại rất hữu ích đối với những nhà ra quyết định. Phương pháp này thường được sử dụng trong việc lựa chọn các dự án mà có liên quan đến môi trường. Phương pháp này thường được sử dụng ở những khu vực có nhiều lựa chọn khác nhau trong việc sử dụng các thành phần môi trường hoặc các phương án bảo tồn, duy trì và phát triển với phương án tiến hành khai thác và sử dụng. Chi phí cơ hội của một hoạt động là lợi ích thực cao nhất có thể có được khi theo đuổi hoạt động đó. Những phương pháp sử dụng nguyên tắc chi phí cơ hội cho chúng ta biết giá trị tối thiểu của môi trường tự nhiên là bao nhiêu. Các bước phải làm cho việc xác định chi phí cơ hội: Bước 1: Lên danh sách các hoạt động có lựa chọn có tể phải làm ở nơi có hoạt động dự án Bước 2: Dự tính lãi ròng của mỗi hoạt động được liệt kê trong danh mục Bước 3: Tính chi phí cơ hội chính là phần lãi ròng cao nhất được dựu tính * Hạn chế: Để đưa tất cả các phương án lựa chọn vào tính toán là một vấn đề không đơn giản bởi nó phụ thuộc vào các nhân tố môi trường tại địa bàn và quy hoạch tổng thể vào chiến lược và khai thác của người dân tại địa bàn đó. Thêm nữa việc tính toán từng phương án về lãi ròng đảm bảo độ chính xác để so sánh cũng không phải dễ dàng đòi hỏi phải đầu tư thời gian và kinh phí. Trong trường hợp ngập lụt ở Hà Nội, phương pháp chi phí cơ hội được sử dụng để tính toán thiệt hại sản phẩm của người mắc các bệnh do các ngập lụt giảm khả năng làm việc, thiệt hại sản phẩm do người nhà bệnh nhân phải chăm sóc bệnh nhân và chi phí tử vong cũng tính theo chi phí cơ hội của vòng đời dự kiến. 1.5.4. Phương pháp chi phí phòng ngừa Đây là phương pháp tính số tiền mà nhân dân phải bỏ ra hàng năm để phòng ngừa ô nhiễm. Cá nhân luôn có hành vi bảo vệ như là một chiến lược chố

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc111238.doc