Bàn về Phát triển bền vững, Hội nghị môi trường toàn cầu Rio de Janerio (6/1992) đưa ra thuyết phát triển bền vững; cho rằng phát triển bền vững là sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường một cách khoa học đồng thời với sự phát triển kinh tế.
Theo Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển (World Commission and Environment and Development, WCED) thì “phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại khả năng của các thế hệ tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ”.
Tựu chung lại, phát triển bền vững là đảm bảo phát triển hài hòa các mục tiêu kinh tế - xã hội và môi trường. Mỗi mục tiêu phát triển có vị trí riêng của nó, song nó được gắn với mục tiêu khác. Sự hoà nhập hài hoà hữu cơ này tạo nên sự phát triển tối ưu cho cả nhu cầu hiện tại và tương lai vì xã hội loài người.
Thế giới hiện nay đã và đang chứng kiến những hậu quả để lại do chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà không quan tâm tới vấn đề tài nguyên - môi trường. Hiện tượng ấm lên của trái đất, kèm theo đó là những thảm họa thiên ta như bão lũ, sóng thần ; tình trạng sa mạc hóa, suy giảm đa dạng sinh học, suy giảm tầng Ozon, ô nhiễm đất, ô nhiễm nước Điều này đã buộc các quốc gia phải chú ý hơn tới những biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ môi trường. Nhiều biện pháp kinh tế, xã hội được triển khai nhằm thực hiện bảo vệ môi trường có hiệu quả. Nhiều quốc gia đã thực hiện giảm hoặc miễn thuế đối với kinh doanh trồng rừng, miễn thuế đối với các chi phí đầu tư vào các biện pháp bảo vệ môi trường, thực hiện đóng cửa rừng, khoanh vùng khu bảo tồn thiên nhiên, lập vườn quốc gia Nhiều trung tâm nghiên cứu được thành lập để nghiên cứu các tác động của môi trường và các biện pháp đối phó nhằm giảm thiểu những hậu quả tiêu cực mà sự trả thù của môi trường có thể mang lạị. Sự hợp tác quốc tế trong việc đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm bảo vệ môi trường toàn cầu cũng được thiết lập. Các công ước quốc tê đa phương, các định chế tổ chức quốc tế đã được hình thành nhằm tạo ra sự phát triển bền vững toàn cầu.WTO, UNCSD, WCED là những ví dụ quan trọng. Thế giới đã đưa ra những hành động thiết thực và cụ thể vì sự phát triển bền vững.
Việt Nam là một quốc gia đông dân tại khu vực Đông Nam Á, kinh tế đang ở mức đang phát triển. Tăng trường và phát triển bền vững cũng trở thành quan điểm, đường lối, chính sách và mục tiêu phát triển quốc gia “ Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, “Phát triển kinh tế xã hội gắn chặt với bảo vệ, cải thiện môi trường, đảm bảo sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học” (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX).
Để đạt được mục tiêu lâu dài ấy, đòi hỏi sự chung tay hành động của cả cá nhân, cộng đồng, đặc biệt là các tổ chức doanh nghiệp, các đơn vị hoạt động sản xuất. Thực tế hiện nay, nhiều vấn đề môi trường nổi cộm phát sinh từ hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp. Đơn cử như vụ việc công ty Vedan, Miwon, nước thải từ quá trình sản xuất xả thẳng ra môi trường, gây ô nhiễm nghiêm trọng dòng sông Thị Vải, ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân sống dọc hai bên bờ sông.
Việt Nam hiện nay đã trở thành một thành viên mới của WTO, với một nền chính trị ổn định, cơ chế cải tổ, thị trường Việt Nam đang trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư . Do vậy, hoạt động chuyển giao công nghệ cũng diễn ra hết sức tấp nập. Và thực tế trong thời gian qua, Việt Nam đã thu nhận quá nhiều công nghệ “bẩn” và nếu không “thức tỉnh” sẽ là nơi chứa rác thải cho thế giới. Ví như, ngành cán thép, tốn nhiều tài nguyên như đất, nước, năng lượng nguy hại đến môi trường. Trong khi lĩnh vực này lại không mang lại giá trị gia tăng cao, chuyển giao công nghệ lớn, môi trường làm việc gây nhiều độc hại cho người lao động. Trong khi đó, Việt Nam lại đang “chào mời” những dự án thép lớn, mà nếu không xuất khẩu, đến năm 2060, Việt Nam cũng không sử dụng hết . Tương tự như vậy, vừa qua, các nhà máy sản xuất xi măng cũng đã ồ ạt ra đời, dư thừa lớn, phá hoại nguồn đá vôi, trong khi đá vôi là phễu lọc cho nguồn nước ngầm. Và nếu Việt Nam không dừng việc cấp phép mới các dự án xi măng, nguồn nước ngầm sẽ đe dọa bị ô nhiễm nghiêm trọng Một vấn đề cấp bách hiện nay là làm thế nào để lựa chọn được dự án đầu tư khả thi, phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam, vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế, vừa thân thiện với môi trường. Điều đó được thực hiện thông qua việc áp dụng các công cụ đánh giá hiệu quả các dự án đầu tư, hỗ trợ các nhà đầu tư, Chính phủ đưa ra được những quyết sách phù hợp.
Quảng Ninh là một “vựa than khổng lồ” ờ châu Á. Hoạt động khai thác than ở đây đang diễn ra từng ngày,và kèm theo đó là sự hủy hoại môi trường nghiêm trọng. Sự quan tâm đầu tư tới vấn đề xử lý ô nhiễm ở đây là cần thiết. Theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 20/4/2003 ban hành danh mục các cơ sở yêu cầu phải giải quyết triệt để về mặt môi trường vùng than, trong đó có nước thải mỏ than Cọc Sáu. Việc xây dựng trạm xử lý nước thải mỏ than Cọc Sáu đã được tiến hành. Tuy nhiên, vấn đề xử lý nước thải mỏ than còn khá mới ở nước ta, mới chỉ có hai hệ thống mang tính thử nghiệm (Na Dương 600m3/h, Hà Lầm 300m3/h) được nghiên cứu, xây dựng. Tuy nhiên công nghệ của 02 Trạm xử lý nước thải trên khá thô sơ, xử lý chưa triệt để, việc kiểm soát chất lượng nước thải còn thủ công, chưa có tính công nghiệp, nước sau khi xử lý thải ra môi trường không tái sử dụng. Việc xây dựng Trạm xử lý nước thải mỏ than Cọc Sáu như một công trình thử nghiệm cho việc xử lý ô nhiễm môi trường kết hợp với tái sử dụng chất thải nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường trong ngành mỏ cũng như phát triển ngành kinh tế môi trường. Vì vậy, việc phân tích, đánh giá hiệu quả dự án để thấy được đóng góp của dự án đối với bản thân doanh nghiệp cũng như môi trường vùng than là hết sức quan trọng. Đó chính là lý do tôi lựa chọn đề tài:
“ Đánh giá hiệu quả dự án đầu tư xây dựng Trạm xử lý nước thải mỏ than Cọc Sáu”
102 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1453 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả dự án đầu tư xây dựng Trạm xử lý nước thải mỏ than Cọc Sáu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG TRẠM XỬ LÝ NƯỚC THẢI MỎ THAN CỌC SÁU
PHẦN PHỤ LỤC............................................................................................95
GIẢI THÍCH CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
Chữ viết tắt
Nội dung
NPV
Net Present Value – Giá trị hiện tại ròng
BCR
Benefit Cost Rate – Tỷ lệ lợi ích chi phí
IRR
Internal Rate of Return - Hệ số hoàn vốn nội bộ.
CBA
Cost Benefit Analysis – Phân tích chi phí lợi ích
WTO
World Trade Organization - Tổ chức Thương mại Thế giới
UNCSD
United Nations Commission on Sustainable Development - Ủy ban Liên hợp quốc về phát triển bền vững.
WCED
World Commission and Environment and Development - Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển.
TĐ
Tập đoàn
UBND
UBND: Ủy ban nhân dân
QĐ
Quyết định
TT
Thủ tướng
DCS
Hệ thống điều khiển
DAS
Hệ thống thu thập và xử lý số liệu
MCS
Hệ thống điều khiển lượng mô phỏng
SCS
Hệ thống điều khiển trình tự
CBCNV
Cán bộ công nhân viên
PCCC
Phòng cháy chữa cháy
TKV
Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam
VITE
Công ty cổ phần tin học, công nghệ, môi trường Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam.
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
STT Tên bảng Trang
2.1 Các thông số cơ bản của các mương và lò thoát nước 45
2.2 Tọa độ công trình 51
2.3 Khối lượng xây lắp chủ yếu 57
2.4 Nhu cầu nước từ các hộ tiêu thụ 63
2.5 Thông số kỹ thuật trạm xử lý nước thải 66
2.6 Các chỉ tiêu kỹ thuật chủ yếu 67
3.1 Tổng hợp chi phí xây dựng chính 72
3.2 Tổng hợp vốn lắp đặt và thiết bị 73
3.3 Tổng hợp chi phí tư vấn đầu tư xây dựng 74
3.4 Tổng hợp các khoản chi phí khác 75
3.5 Tổng hợp chi phí đền bù giải phóng mặt bằng 76
3.6 Tổng hợp vốn đầu tư xây dựng công trình 77
3.7 Số lượng và trình độ lao động vận hành trạm xử lý nước thải 79
3.8 Tổng hợp chi phí vận hành công trình 80
3.9 Nhu cầu tiêu thụ nước sau xử lý 81
3.10 Mức thu phí đối với nước thải tính theo chất gây ô nhiễm 82
3.11 Chất lượng nước trước xử lý 82
3.12 Chất lượng nước sau xử lý 83
3.13 Kết quả tính toán thu được 84
3.14 Phân tích độ nhạy với sự thay đổi của tỷ lệ chiết khấu 85
3.15 Phân tích độ nhạy khi giá bán nước thay đổi 86
3.16 Phân tích độ nhạy khi nhu cầu mua nước của các hộ thay đổi 87
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ SƠ ĐỒ
STT
Tên hình
Trang
1.1
Sơ đồ các bước thực hiện CBA
25
2.1
Bản đồ vị trí thị xã Cẩm Phả
37
2.2
Một số hình ảnh sản xuất của mỏ
48
2.3
Bản đồ vị trí dự án
52
2.4
Bản đồ quy hoạch dự án
55
2.5
Sơ đồ công nghệ xử lý nước thải
64
3.1
Sơ đồ biểu diễn sự biến thiên của NPV qua tỷ lệ chiết khấu
85
3.2
Sơ đồ biểu diễn sự biến thiên của NPV theo giá nước
86
3.3
Sơ đồ biểu diễn sự biến thiên của NPV theo nhu cầu mua nước.
88
PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Bàn về Phát triển bền vững, Hội nghị môi trường toàn cầu Rio de Janerio (6/1992) đưa ra thuyết phát triển bền vững; cho rằng phát triển bền vững là sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường một cách khoa học đồng thời với sự phát triển kinh tế.
Theo Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển (World Commission and Environment and Development, WCED) thì “phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại khả năng của các thế hệ tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ”.
Tựu chung lại, phát triển bền vững là đảm bảo phát triển hài hòa các mục tiêu kinh tế - xã hội và môi trường. Mỗi mục tiêu phát triển có vị trí riêng của nó, song nó được gắn với mục tiêu khác. Sự hoà nhập hài hoà hữu cơ này tạo nên sự phát triển tối ưu cho cả nhu cầu hiện tại và tương lai vì xã hội loài người.
Thế giới hiện nay đã và đang chứng kiến những hậu quả để lại do chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà không quan tâm tới vấn đề tài nguyên - môi trường. Hiện tượng ấm lên của trái đất, kèm theo đó là những thảm họa thiên ta như bão lũ, sóng thần …; tình trạng sa mạc hóa, suy giảm đa dạng sinh học, suy giảm tầng Ozon, ô nhiễm đất, ô nhiễm nước …Điều này đã buộc các quốc gia phải chú ý hơn tới những biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ môi trường. Nhiều biện pháp kinh tế, xã hội được triển khai nhằm thực hiện bảo vệ môi trường có hiệu quả. Nhiều quốc gia đã thực hiện giảm hoặc miễn thuế đối với kinh doanh trồng rừng, miễn thuế đối với các chi phí đầu tư vào các biện pháp bảo vệ môi trường, thực hiện đóng cửa rừng, khoanh vùng khu bảo tồn thiên nhiên, lập vườn quốc gia… Nhiều trung tâm nghiên cứu được thành lập để nghiên cứu các tác động của môi trường và các biện pháp đối phó nhằm giảm thiểu những hậu quả tiêu cực mà sự trả thù của môi trường có thể mang lạị. Sự hợp tác quốc tế trong việc đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm bảo vệ môi trường toàn cầu cũng được thiết lập. Các công ước quốc tê đa phương, các định chế tổ chức quốc tế đã được hình thành nhằm tạo ra sự phát triển bền vững toàn cầu.WTO, UNCSD, WCED là những ví dụ quan trọng. Thế giới đã đưa ra những hành động thiết thực và cụ thể vì sự phát triển bền vững.
Việt Nam là một quốc gia đông dân tại khu vực Đông Nam Á, kinh tế đang ở mức đang phát triển. Tăng trường và phát triển bền vững cũng trở thành quan điểm, đường lối, chính sách và mục tiêu phát triển quốc gia “ Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, “Phát triển kinh tế xã hội gắn chặt với bảo vệ, cải thiện môi trường, đảm bảo sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học” (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX).
Để đạt được mục tiêu lâu dài ấy, đòi hỏi sự chung tay hành động của cả cá nhân, cộng đồng, đặc biệt là các tổ chức doanh nghiệp, các đơn vị hoạt động sản xuất. Thực tế hiện nay, nhiều vấn đề môi trường nổi cộm phát sinh từ hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp. Đơn cử như vụ việc công ty Vedan, Miwon, nước thải từ quá trình sản xuất xả thẳng ra môi trường, gây ô nhiễm nghiêm trọng dòng sông Thị Vải, ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân sống dọc hai bên bờ sông.
Việt Nam hiện nay đã trở thành một thành viên mới của WTO, với một nền chính trị ổn định, cơ chế cải tổ, thị trường Việt Nam đang trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư . Do vậy, hoạt động chuyển giao công nghệ cũng diễn ra hết sức tấp nập. Và thực tế trong thời gian qua, Việt Nam đã thu nhận quá nhiều công nghệ “bẩn” và nếu không “thức tỉnh” sẽ là nơi chứa rác thải cho thế giới. Ví như, ngành cán thép, tốn nhiều tài nguyên như đất, nước, năng lượng… nguy hại đến môi trường. Trong khi lĩnh vực này lại không mang lại giá trị gia tăng cao, chuyển giao công nghệ lớn, môi trường làm việc gây nhiều độc hại cho người lao động. Trong khi đó, Việt Nam lại đang “chào mời” những dự án thép lớn, mà nếu không xuất khẩu, đến năm 2060, Việt Nam cũng không sử dụng hết . Tương tự như vậy, vừa qua, các nhà máy sản xuất xi măng cũng đã ồ ạt ra đời, dư thừa lớn, phá hoại nguồn đá vôi, trong khi đá vôi là phễu lọc cho nguồn nước ngầm. Và nếu Việt Nam không dừng việc cấp phép mới các dự án xi măng, nguồn nước ngầm sẽ đe dọa bị ô nhiễm nghiêm trọng…Một vấn đề cấp bách hiện nay là làm thế nào để lựa chọn được dự án đầu tư khả thi, phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam, vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế, vừa thân thiện với môi trường. Điều đó được thực hiện thông qua việc áp dụng các công cụ đánh giá hiệu quả các dự án đầu tư, hỗ trợ các nhà đầu tư, Chính phủ đưa ra được những quyết sách phù hợp.
Quảng Ninh là một “vựa than khổng lồ” ờ châu Á. Hoạt động khai thác than ở đây đang diễn ra từng ngày,và kèm theo đó là sự hủy hoại môi trường nghiêm trọng. Sự quan tâm đầu tư tới vấn đề xử lý ô nhiễm ở đây là cần thiết. Theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 20/4/2003 ban hành danh mục các cơ sở yêu cầu phải giải quyết triệt để về mặt môi trường vùng than, trong đó có nước thải mỏ than Cọc Sáu. Việc xây dựng trạm xử lý nước thải mỏ than Cọc Sáu đã được tiến hành. Tuy nhiên, vấn đề xử lý nước thải mỏ than còn khá mới ở nước ta, mới chỉ có hai hệ thống mang tính thử nghiệm (Na Dương 600m3/h, Hà Lầm 300m3/h) được nghiên cứu, xây dựng. Tuy nhiên công nghệ của 02 Trạm xử lý nước thải trên khá thô sơ, xử lý chưa triệt để, việc kiểm soát chất lượng nước thải còn thủ công, chưa có tính công nghiệp, nước sau khi xử lý thải ra môi trường không tái sử dụng. Việc xây dựng Trạm xử lý nước thải mỏ than Cọc Sáu như một công trình thử nghiệm cho việc xử lý ô nhiễm môi trường kết hợp với tái sử dụng chất thải nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường trong ngành mỏ cũng như phát triển ngành kinh tế môi trường. Vì vậy, việc phân tích, đánh giá hiệu quả dự án để thấy được đóng góp của dự án đối với bản thân doanh nghiệp cũng như môi trường vùng than là hết sức quan trọng. Đó chính là lý do tôi lựa chọn đề tài:
“ Đánh giá hiệu quả dự án đầu tư xây dựng Trạm xử lý nước thải mỏ than Cọc Sáu”
Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu
Qua phương pháp phân tích chi phí lợi ích, nhằm xác định tính khả thi của dự án, đồng thời cũng thấy được lợi ích mà dự án đem lại, bao gồm cả lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội và lợi ích môi trường.
Nhiệm vụ
Tổng quan cơ sở lí luận về dự án đầu tư, phương pháp đánh giá hiệu quả dự án đầu tư, đặc biệt về phương pháp phân tích chi phí lợi ích để áp dụng vào dự án nghiên cứu.
Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của khu vực dự án triển khai.
Ứng dụng phương pháp phân tích chi phí lợi ích để đánh giá hiệu quả dự án đầu tư xây dựng Trạm xử lý nước thải mỏ than Cọc Sáu
3. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian lãnh thổ: địa bàn nghiên cứu là mỏ than Cọc Sáu, thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh
Về thời gian nghiên cứu: tiếp cận địa bàn vào tháng 3/2009, sử dụng số liệu của dự án từ năm 2008 đến nay.
Về giới hạn khoa học: giá trị chất lượng môi trường tại VQG Bạch Mã bao gồm cả giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng. Tuy nhiên, đề tài chỉ nghiên cứu và tính toán giá trị cảnh quan tại vườn.
4. Các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin: tổng hợp tài liệu
Phương pháp thực địa
Phương pháp chuyên gia
Phương pháp xử lí số liệu bằng các phần mềm Excel.
Phương pháp phân tích chi phí lợi ích .
5. Cấu trúc của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, chuyên đề được trình bày trong ba chương:
Chương I: Sử dụng phương pháp phân tích chi phí lợi ích để phân tích hiệu quả dự án đầu tư
Chương II: Dự án đầu tư xây dựng Trạm xử lý nước thải mỏ than Cọc Sáu
Chương III: Đánh giá hiệu quả dự án đầu tư xây dựng Trạm xử lý nước thải mỏ than Cọc Sáu.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH CHI PHÍ LỢI ÍCH ĐỂ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ DỰ ÁN ĐẦU TƯ
I. DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.1. Khái niệm
Theo luật đầu tư thì dự án đầu tư là tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định.
Như vậy dự án đầu tư có thể xem xét từ nhiều góc độ khác nhau:
- Về mặt hình thức nó là một tập hợp hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
- Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý sử dụng vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế - xã hội trong một thời gian dài.
- Trên góc độ kế hoạch, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội, làm tiền đề cho cho các quyết định đầu tư và tài trợ.
- Về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định.
1.2. Yêu cầu của dự án đầu tư
Để đảm bảo tính khả thi, dự án đầu tư phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:
- Tính khoa học: Thể hiện người soạn thảo dự án đầu tư phải có một quá trình nghiên cứu tỷ mỷ kỹ càng, tính toán thận trọng, chính xác từng nội dung của dự án đặc biệt là nội dung về tài chính, nội dung về công nghệ kỹ thuật. Tính khoa học còn thể hiện trong quá trình soạn thảo dự án đầu tư cần có sự tư vấn của các cơ quan chuyên môn
- Tính thực tiễn: các nội dung của dự án đầu tư phải được nghiên cứu, xác định trên cơ sở xem xét, phân tích, đánh giá đúng mức các điều kiện và hoàn cảnh cụ thể liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động đầu tư.
- Tính pháp lý: Dự án đầu tư cần có cơ sở pháp lý vững chắc tức là phù hợp với chính sách và luật pháp của Nhà nước. Muốn vậy phải nghiên cứu kỹ chủ trương, chính sách của Nhà nước, các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động đầu tư.
- Tính đồng nhất: Các dự án đầu tư phải tuân thủ các quy định chung của các cơ quan chức năng về hoạt động đầu tư, kể cả các quy định về thủ tục đầu tư. Với các dự án đầu tư quốc tế còn phải tuân thủ quy định chung mang tính quốc tế.
1.3 Tiêu chuẩn đánh giá dự án đầu tư
Trong quá khứ, có nhiều tiêu chuẩn khác nhau đã được dùng để đánh giá kết quả dự kiến của các dự án đầu tư. Chúng ta sẽ điểm lại bốn trong số các tiêu chuẩn đó. Cụ thể là tiêu chuẩn giá trị hiện tại ròng, tỷ số lợi ích-chi phí, thời gian hoàn vốn, và hệ số hoàn vốn nội bộ. Trong bốn tiêu chuẩn này, tiêu chuẩn lợi ích ròng là tiêu chuẩn thỏa mãn nhất, mặc dù tiêu chuẩn này đôi khi có thể phải điều chỉnh chút ít để tính tới các cưỡng chế đặc biệt.
1.3.1 Tiêu chuẩn giá trị hiện tại ròng (Net Present Value - NPV)
(i) Khi nào thì bác bỏ dự án
Bước đầu tiên để tính giá trị hiện tại ròng của dự án đầu tư là phải trừ tất cả các chi phí ra khỏi tổng lợi ích của mỗi giai đoạn để có được lợi ích ròng. Thứ hai là chọn một tỷ lệ chiết khấu thể hiện được chi phí cơ hội của vốn khi dùng cho những việc khác của nền kinh tế, do đó quy ra một chi phí của vốn cho mỗi dự án bằng với lợi ích phải từ bỏ. Khi giá trị hiện tại ròng của một dự án được tính theo các tiêu chuẩn kinh tế, thì giá trị hiện tại ròng dương có nghĩa là dự án này sẽ làm cho nền kinh tế tốt hơn, giá trị hiện tại ròng âm sẽ làm cho nền kinh tế tệ hơn. Chính ý nghĩa này của tiêu chuẩn giá trị hiện tại ròng đưa chúng ta đến cách diễn tả thứ nhất của tiêu chuẩn này, và điều này luôn luôn đúng trong mọi hoàn cảnh.
Quy tắc 1: "không chấp nhận một dự án nào trừ phi dự án này có giá trị hiện tại ròng dương khi được chiết khấu bằng chi phí cơ hội của vốn."
(ii) Hạn chế của ngân sách
Thông thường chính quyền không thể có đủ vốn ở một mức chi phí cố định để thực hiện tất cả các dự án có giá trị hiện tại ròng dương. Khi tình thế như vậy xảy ra, ta cần phải lựa chọn giữa các dự án để quyết định một nhóm các dự án mà sẽ tối đa hóa giá trị hiện tại ròng của các công trình đầu tư nằm trong giới hạn của ngân sách. Như thế, cách diễn tả thứ hai của tiêu chuẩn giá trị hiện tại ròng là:
Quy tắc 2: "Trong giới hạn của một ngân sách đã được ấn định, cần phải chọn trong số các dự án hiện có nhóm dự án nào có thể tối đa hoá giá trị hiện tại ròng."
Bởi vì hạn chế ngân sách không đòi hỏi tất cả kinh phí phải được sử dụng hết, nên quy tắc này ngăn chặn việc thực hiện một dự án có NPV âm. Ngay cả khi tất cả vốn của ngân sách không được sử dụng hết, NPV do số vốn ngân sách này mang lại sẽ tăng lên nếu dự án có NPV âm bị loại bỏ.
(iii) So sánh các dự án loại trừ lẫn nhau
Rất nhiều khi trong công tác thẩm định dự án ta gặp phải những tình huống phải lựa chọn giữa những dự án thay thế nhau có nghĩa là nếu thực hiện dự án này thì phải bỏ dự án kia. Vì lý do kỹ thuật, có thể không thể thực hiện được cả hai dự án. Do đó, vấn đề mà nhà phân tích đầu tư gặp phải là phải lựa chọn trong những dự án loại trừ lẫn nhau một dự án mang lại giá trị hiện tại ròng lớn nhất. Điều này có thể diễn tả dưới dạng quy tắc sau:
Quy tắc ba: "Trong tình huống không bị giới hạn ngân sách, nhưng ta phải chọn một dự án trong số các phương án loại trừ lẫn nhau, ta luôn luôn cần phải chọn dự án sinh ra giá trị hiện tại ròng lớn nhất."
(iv) Giới hạn khi lựa chọn giữa các dự án có thể thay thế nhau khi áp dụng tiêu chuẩn giá trị hiện tại ròng
Giá trị hiện tại ròng của một dự án không chỉ là một chỉ số để xếp hạng các dự án, mà nó còn mang ý nghĩa đáng kể hơn. Nó đo lường giá trị hay thặng dư giá trị do một dự án tạo ra ngoài những gì mà những nguồn vốn này có thể mang lại nếu chúng không được sử dụng trong các dự án đầu tư này của khu vực công.
Trong một số trường hợp, việc đầu tư vào một phương tiện như một con đường có thể được thực hiện thông qua một loạt các dự án ngắn hạn hoặc một hay nhiều dự án dài hạn hơn. Nếu lợi ích thu về từ việc mở rộng phương tiện này trong toàn bộ đời hữu dụng của nó như thể là một cơ hội đầu tư có NPV dương, nó sẽ là không có ý nghĩa gì khi ta đem so sánh NPV của một dự án cung cấp các dịch vụ đường sá trong toàn bộ đời hữu dụng của dự án với NPV của một dự án cung cấp các dịch vụ đường sá chỉ cho một thời gian ngắn nếu ta dự kiến rằng dự án ngắn này sẽ được lặp đi lặp lại.
Trong hầu hết các tình huống thẩm định dự án, người ta không cho rằng sự kết thúc của một dự án ngắn hạn sẽ mang lại cho những dự án tiếp theo đó những cơ hội với suất thu hồi vốn cao hơn bình thường.Trong trường hợp như vậy, cách thích hợp là so sánh các dự án có thời gian hữu dụng khác nhau với các biên dạng lợi ích kinh tế ròng của tất cả các dự án đem chiết khấu theo chi phí cơ hội kinh tế của vốn công quỹ.
Khi người ta cho rằng các dự án với đời hữu dụng ngắn sẽ dẫn tới các dự án kế tiếp có lợi nhuận siêu biên tế, thì việc so sánh các dự án có thể thay thế cho nhau với đời hữu dụng khác nhau mà sẽ cung cấp những dịch vụ như nhau vào một thời điểm nhất định sẽ đòi hỏi chúng ta phải điều chỉnh chiến lược đầu tư của chúng ta để chúng trải dài cùng một khoảng thời gian xấp xỉ bằng nhau. Một trong những hình thức điều chỉnh như thế là xem xét cùng một dự án được lặp lại theo thời gian cho tới khi các chiến lược đầu tư thay thế khác có cùng những khoảng thời gian hữu dụng tương tự.
1.3.2 Tiêu chuẩn tỷ lệ lợi ích-chi phí
Tiêu chuẩn này để xếp hạng các dự án đầu tư là quy tắc được các nhà phân tích đầu tư áp dụng rộng rãi nhất. Nhưng nếu không được sử dụng một cách cẩn thận, tiêu chuẩn này sẽ đưa ra một lời khuyên sai lệch về sự hấp dẫn tương đối của các cơ hội đầu tư. Tỷ lệ lợi ích-chi phí được tính bằng cách đem chia giá trị hiện tại của các lợi ích cho giá trị hiện tại của các chi phí, sử dụng chi phí cơ hội của vốn làm tỷ lệ chiết khấu.
Tỷ lệ lợi ích-chi phí (R) = (Hiện giá của các lợi ích/Hiện giá của các chi phí)
Sử dụng tiêu chuẩn này, ta sẽ đòi hỏi rằng để cho một dự án có thể chấp nhận được, tỷ số R phải lớn hơn 1. Và trong việc lựa chọn các dự án loại trừ lẫn nhau, quy tắc là chọn dự án có tỷ lệ lợi ích-chi phí lớn nhất.
Tuy nhiên, ta có thể dễ dàng nhìn thấy rằng tiêu chuẩn này có thể làm ta xếp hạn sai các dự án, nếu các dự án này khác nhau về qui mô. Vấn đề thứ hai liên quan đến việc sử dụng tỷ số lợi ích-chi phí, và có thể đây là khiếm khuyết nghiêm trọng nhất của cách này, là tỷ lệ này nhạy cảm với cách mà các kế toán viên định nghĩa chi phí khi tính ngân lưu.
1.3.3 Thời gian hoàn vốn
Quy tắc thời gian hoàn vốn đã được sử dụng rộng rãi trong việc quyết định đầu tư. Bởi vì dễ áp dụng và khuyến khích các dự án có thời gian hoàn vốn nhanh, quy tắc này đã trở thành một tiêu chuẩn phổ biến trong việc lựa chọn đầu tư kinh doanh. Nhưng đáng tiếc thay nó có thể dẫn đến những kết quả sai lạc, đặc biệt là những trường hợp các dự án đầu tư có thời gian hoạt động dài và người ta biết khá chắc chắn về các lợi ích và chi phí trong tương lai.
Trong hình thức đơn giản nhất, thời gian hoàn vốn là số năm cần phải có để lợi ích ròng chưa chiết khấu hoàn lại vốn đầu tư. Người ta đưa ra một giới hạn tùy tiện về số năm tối đa có thể cho phép và chỉ những đầu tư có đủ lợi ích để bù lại chi phí đầu tư trong thời gian này mới có thể chấp nhận được.
Một hình thức khác của quy tắc này là đem so sánh các lợi ích đã được chiết khấu trong một số năm trong giai đoạn đầu tư của dự án với chi phí đầu tư cũng được chiết khấu. Tuy nhiên, một giả thiết ngấm ngầm của tiêu chuẩn thời gian hoàn vốn là các lợi ích thu được sau thời gian đã được ấn định cho thời gian hoàn vốn sẽ không chắc chắn đến mức là chúng bị bỏ qua. Cách làm này cũng bỏ qua các chi phí đầu tư có thể xảy ra sau ngày đã được ấn định đó, ví dụ như chi phí làm đẹp quang cảnh và chi phí trồng lại cây phát sinh sau khi kết thúc việc khai thác một vùng mỏ.
Mặc dù không ai tranh cãi với quan điểm rằng tương lai sẽ ít chắc chắn hơn hiện tại, nhưng sẽ là không thực tế khi giả thiết rằng sau một ngày cụ thể nào đó giá trị mong đợi trung bình của các lợi ích ròng là con số không. Điều này rất đúng đối với các dự án đầu tư lâu dài như cầu, đường, cao ốc.
Đối với các tổ chức như các công ty lớn hay chính quyền, không có lý do gì để cho rằng tất cả các dự án mang lợi về nhanh lại tốt hơn đầu tư lâu dài.
1.3.4 Hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR)
Hệ số hoàn vốn nội bộ (Internal Rate of Return, IRR) là con số thống kê đã được các nhà đầu tư của cả hai khu vực tư nhân và nhà nước sử dụng rất nhiều để mô tả sự hấp dẫn của một dự án. Tuy nhiên, nó không phải là một tiêu chuẩn đầu tư có thể tin cậy được, cho dù trong một số trường hợp nó là một con số thống kê hữu ích để tóm tắt khả năng sinh lời của một dự án đầu tư.
Tiêu chuẩn hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR) và giá trị hiện tại ròng (NPV) có liên quan với nhau bằng cách thức tính toán ra chúng. Để tính NPV, người ta đưa ra tỷ lệ chiết khấu và dùng nó để tìm hiện giá của chi phí và lợi ích. Trái lại, khi tìm IRR của một dự án cách tính được đảo ngược lại. Thay vì chọn tỷ lệ chiết khấu, người ta quy NPV của dòng lợi ích ròng bằng không; và IRR là tỷ lệ chiết khấu tìm được làm cho NPV bằng không.
Hệ số hoàn vốn nội bộ K của một dự án được tính bằng cách giải phương trình sau:
Hệ số hoàn vốn nội bộ có một lợi thế lớn là nó có thể được tính toán chỉ dựa vào các số liệu của dự án mà thôi. Đặc biệt, việc tính toán này không đòi hỏi số liệu về chi phí cơ hội của vốn. Tuy nhiên, những điểm bất lợi của hệ số hoàn vốn nội bộ lại rất lớn và bắt chúng ta phải vô cùng thận trọng khi sử dụng nó.
Đối với một dự án điển hình mà giai đoạn đầu tư ban đầu, (trong thời gian đó giá trị Bt -Ct là âm) được tiếp tục bởi một giai đoạn trong đó lợi ích ròng luôn luôn dương, thì chỉ có một lời giải duy nhất cho hệ số hoàn vốn nội bộ.
Mặt khác, nếu ta có một dự án mà biên dạng theo thời gian của các lợi ích ròng cắt trục hoành ngang qua vạch số không nhiều hơn một lần, như minh họa trong Hình 4-3, ta có thể không xác định được một hệ số hoàn vốn nội bộ duy nhất. Ví dụ của những dự án như vậy là những trường hợp trong đó các hạng mục thiết bị lớn đôi khi phải thay thế, làm cho lợi ích ròng âm trong những năm tái đầu tư. Các dự án đường sá cũng mang đặc điểm này bởi vì người ta phải thực hiện định kỳ các khoản chi phí lớn phủ lại mặt đường để chúng có thể tiếp tục sử dụng được.
1.4 Lựa chọn phương pháp phân tích hiệu quả dự án đầu tư
Dự án đầu tư được xem như là một tập hợp các quan hệ giao dịch, qua đó các cá nhân hay các tổ chức phải chịu các chi phí khác nhau và nhận được những lợi ích khác nhau. Tuỳ thuộc vào bản chất mối quan hệ của các bên với dự án, mà các bên sẽ có cách nhìn nhận đánh giá lợi ích và chi phí của họ đối với việc tham gia vào dự án. Trên cơ sở mục tiêu của các bên khi tham gia vào dự án, cũng như vai trò vị trí của các bên trong tổng hoà mối quan hệ tổng thể kinh tế, xã hội, nhằm đưa ra một khung phân tích chuẩn trong thẩm định dự án, người ra đưa ra một số phương pháp phân tích dự án, trong đó có phương pháp phân tích tài chính và phân tích kinh tế.
Phân tích tài chính
Phân tích tài chính được thực hiện theo quan điểm của một bộ phận dân cư của một quốc gia, như: một sở ngành, một doanh nghiệp, một cá nhân hoặc bất cứ nhóm người nào khác. Tiền mặt hoặc các hình thức của cải khác mà dự án tạo ra cho nhóm người cụ thể này được tính như là những lợi ích tài chính, trong khi các khoản chi tiền mặt hoặc tổn thất của cải dưới những hình thức khác đối với nhóm này thì được tính vào các chi phí tài chính.
Phân tích kinh tế
Mục tiêu của phân tích kinh tế là nhằm đánh giá dự án từ quan điểm của toàn bộ nền kinh tế để xác định xem việc thực hiện dự án có cải thiện được phúc lợi kinh tế quốc gia hay không.
Sự khác biệt chủ yếu giữa phân tích kinh tế và phân tích tài chính là ở chỗ: Phân tích kinh tế gộp chung lợi ích và chi phí trên tất cả dân cư quốc gia để xác định xem dự án có cải thiện được mức phúc lợi kinh tế quốc gia như là một tổng thể hay không, trong khi phân tích tài chính xem xét dự án từ quan điểm phúc lợi của một nhóm nhỏ dân cư. Chính vì điểm khác nhau căn bản của phân tích kinh tế so với phân tích tài chính nêu trên, nên đối tượng quan tâm tới phân tích kinh tế thường là: Chính phủ, chính quyền địa phương nơi đặt dự án, các cơ quan quản lý nhà nước; đôi khi các tổ chức tín dụng và chủ đầu tư cũng quan tâm tới kết quả phân tích kinh tế của dự án.
Xem xét sự khác nhau giữa phân tích tài chính và phân tích kinh tế ta nhận thấy, đối với hoạt động của cá nhân, người ta không tính tới
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111281.doc