Lưu chuyển hàng hoá phát triển của sản xuất xã hội đã chứng minh rằng, mỗi phương thức sản xuất của xã hội chỉ có thể được xác lập một cách vững chắc trên một cơ sở vật chất - kỹ thuật thích ứng nhất định, chính cơ sở vật chất - kỹ thuật này là một trong những nhân tố quan trọng nhất, để xác định phương thức sản xuất đó thuộc loại hình xã hội - lịch sử nào và thuộc thời đại kinh tế nào.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của mỗi phương thức sản xuất của xã hội là tổng thể hữu cơ các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất đạt được trong những điều kiện lịch sử nhất định của tiến bộ khoa học và công nghệ, dựa trên đó, lực lượng lao động của xã hội ấy sản xuất ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu của xã hội. Trong lịch sử bao giờ phương thức sản xuất cũng kế thừa cơ sở vật chất - kỹ thuật của phương thức sản xuất trước nó, trên cơ sở đó, cải tạo, phát triển thành cơ sở vật chất - kỹ thuật cho bản thân mình. Chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển cũng phải tuân theo tính quy luật đó.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội một mặt, kế thừa những thành quả đã đạt được trong xã hội trước đó; mặt khác, nó được phát triển và hoàn thiện trên cơ sở những thành tựu của các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và theo nhu cầu của chế độ xã hội mới. Đó chính là nền công nghiệp có công nghệ tiên tiến, trong đó ngành chế tạo cơ khí giữ vị trí then chốt, có đủ khả năng trang bị kỹ thuật hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân, nhằm không ngừng phát triển sản xuất và nâng cao đời sống về mọi mặt cho nhân dân. Trong điều kiện xu hướng quốc tế hoá, sản xuất phát triển ngày càng sâu rộng thì cơ cấu của nền công nghiệp hiện đại có sự kết hợp chặt chẽ phân công và chuyên môn hoá trong nước và quốc tế, nhằm kết hợp tối ưu sức mạnh của quốc gia và quốc tế, của dân tộc và thời đại.
Các nước đã qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội cần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện cơ sở vật chất - kỹ thuật đã đạt được theo yêu cầu của chế độ mới, của các quy luật khách quan tác động trong nền kinh tế có bản chất kinh tế - xã hội mới, và tiếp tục ứng dụng những công nghệ mới nhất, hiện đại nhất.
Các nước có nền kinh tế phát triển chưa cao, các nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ còn phổ biến thì tiến lên chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nhằm thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá và một phần tự động hoá (khi có điều kiện) trong các ngành của nền kinh tế quốc dân; đồng thời trên cơ sở trình độ đã đạt được của cơ sở vật chất - kỹ thuật mới mà cải biến cơ cấu kinh tế lạc hậu, què quặt, thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội, mở rộng thị trường, phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá trong nước và quốc tế. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là con đường tạo ra sức sản xuất mới nhằm khai thác và phát huy tốt nhất các nguồn lực bên trong, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hoá là một bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đồng thời mỗi bước phát triển của cơ sở vật chất - kỹ thuật lại làm cho quan hê sản xuất xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố và hoàn thiện, nền sản xuất xã hội không ngừng được phát triển, đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao.
Thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa không những bắt nguồn từ yêu cầu của sự phát triển kinh tế, mà còn bắt nguồn từ yêu cầu của sự phát triển các mặt khác của đời sống xã hội, của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Với cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày càng cao trong quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân có thêm điều kiện để giúp đỡ nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội; liên minh giữa giai cấp công nhân và nông dân ngày càng được củng cố, làm cơ sở vững chắc cho chế độ xã hội mới. Gắn liền với các giai đoạn phát triển của công nghiệp, giai cấp công nhân trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân ngày càng được nâng cao trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhờ đó, sự giúp đỡ của công nghiệp và thành thị đối với nông nghiệp và nông thôn được tăng cường và có hiệu quả hơn.
Những thành tựu đạt được trong quá trình công nghiệp hoá còn tạo ra nhiều điều kiện để thực hiện sự bình đẳng về kinh tế giữa các dân tộc, giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng trong nước. Điều đó đưa đến sự thống nhất ngày càng cao về chính trị và tinh thần trong xã hội.
Tiến hành công nghiệp hoá để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi trình độ giác ngộ cách mạng, trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật của người lao động ngày càng cao, trong đó có sự đóng góp tích cực, to lớn của đội ngũ trí thức. Đồng thời, mỗi bước phát triển mới của cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội do quá trình công nghiệp hoá đem lại, sẽ tạo ra những điều kiện mới cho việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa phát triển toàn diện.
Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa còn là yêu cầu khách quan của quốc phòng, của sự thống nhất giữa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa còn là yêu cầu khách quan của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường tham gia vào phân công và hợp tác kinh tế quốc tế với các nước trên thế giới.
Từ tính tất yếu khách quan nói trên, có thể khẳng định rằng, thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhân tố quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Chính vì thế, qua các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, IV, V, VI, VII, VIII của Đảng luôn luôn khẳng định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng thời, qua mỗi lần đại hội, Đảng ta lại nhận thức và cụ thể hoá thêm nhiệm vụ này cho thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh của đất nước ta trong từng thời kỳ. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã xác định lại: "xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ"1 và "giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước"
33 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1165 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I
Một số nhận thức chủ yếu về Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
I. Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp công nghiệp hoá
Lưu chuyển hàng hoá phát triển của sản xuất xã hội đã chứng minh rằng, mỗi phương thức sản xuất của xã hội chỉ có thể được xác lập một cách vững chắc trên một cơ sở vật chất - kỹ thuật thích ứng nhất định, chính cơ sở vật chất - kỹ thuật này là một trong những nhân tố quan trọng nhất, để xác định phương thức sản xuất đó thuộc loại hình xã hội - lịch sử nào và thuộc thời đại kinh tế nào.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của mỗi phương thức sản xuất của xã hội là tổng thể hữu cơ các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất đạt được trong những điều kiện lịch sử nhất định của tiến bộ khoa học và công nghệ, dựa trên đó, lực lượng lao động của xã hội ấy sản xuất ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu của xã hội. Trong lịch sử bao giờ phương thức sản xuất cũng kế thừa cơ sở vật chất - kỹ thuật của phương thức sản xuất trước nó, trên cơ sở đó, cải tạo, phát triển thành cơ sở vật chất - kỹ thuật cho bản thân mình. Chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển cũng phải tuân theo tính quy luật đó.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội một mặt, kế thừa những thành quả đã đạt được trong xã hội trước đó; mặt khác, nó được phát triển và hoàn thiện trên cơ sở những thành tựu của các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và theo nhu cầu của chế độ xã hội mới. Đó chính là nền công nghiệp có công nghệ tiên tiến, trong đó ngành chế tạo cơ khí giữ vị trí then chốt, có đủ khả năng trang bị kỹ thuật hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân, nhằm không ngừng phát triển sản xuất và nâng cao đời sống về mọi mặt cho nhân dân. Trong điều kiện xu hướng quốc tế hoá, sản xuất phát triển ngày càng sâu rộng thì cơ cấu của nền công nghiệp hiện đại có sự kết hợp chặt chẽ phân công và chuyên môn hoá trong nước và quốc tế, nhằm kết hợp tối ưu sức mạnh của quốc gia và quốc tế, của dân tộc và thời đại.
Các nước đã qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội cần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện cơ sở vật chất - kỹ thuật đã đạt được theo yêu cầu của chế độ mới, của các quy luật khách quan tác động trong nền kinh tế có bản chất kinh tế - xã hội mới, và tiếp tục ứng dụng những công nghệ mới nhất, hiện đại nhất.
Các nước có nền kinh tế phát triển chưa cao, các nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ còn phổ biến thì tiến lên chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nhằm thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá và một phần tự động hoá (khi có điều kiện) trong các ngành của nền kinh tế quốc dân; đồng thời trên cơ sở trình độ đã đạt được của cơ sở vật chất - kỹ thuật mới mà cải biến cơ cấu kinh tế lạc hậu, què quặt, thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội, mở rộng thị trường, phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá trong nước và quốc tế. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là con đường tạo ra sức sản xuất mới nhằm khai thác và phát huy tốt nhất các nguồn lực bên trong, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hoá là một bước tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đồng thời mỗi bước phát triển của cơ sở vật chất - kỹ thuật lại làm cho quan hê sản xuất xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố và hoàn thiện, nền sản xuất xã hội không ngừng được phát triển, đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao.
Thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa không những bắt nguồn từ yêu cầu của sự phát triển kinh tế, mà còn bắt nguồn từ yêu cầu của sự phát triển các mặt khác của đời sống xã hội, của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Với cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày càng cao trong quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân có thêm điều kiện để giúp đỡ nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội; liên minh giữa giai cấp công nhân và nông dân ngày càng được củng cố, làm cơ sở vững chắc cho chế độ xã hội mới. Gắn liền với các giai đoạn phát triển của công nghiệp, giai cấp công nhân trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân ngày càng được nâng cao trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhờ đó, sự giúp đỡ của công nghiệp và thành thị đối với nông nghiệp và nông thôn được tăng cường và có hiệu quả hơn.
Những thành tựu đạt được trong quá trình công nghiệp hoá còn tạo ra nhiều điều kiện để thực hiện sự bình đẳng về kinh tế giữa các dân tộc, giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng trong nước. Điều đó đưa đến sự thống nhất ngày càng cao về chính trị và tinh thần trong xã hội.
Tiến hành công nghiệp hoá để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi trình độ giác ngộ cách mạng, trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật của người lao động ngày càng cao, trong đó có sự đóng góp tích cực, to lớn của đội ngũ trí thức. Đồng thời, mỗi bước phát triển mới của cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội do quá trình công nghiệp hoá đem lại, sẽ tạo ra những điều kiện mới cho việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa phát triển toàn diện.
Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa còn là yêu cầu khách quan của quốc phòng, của sự thống nhất giữa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa còn là yêu cầu khách quan của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường tham gia vào phân công và hợp tác kinh tế quốc tế với các nước trên thế giới.
Từ tính tất yếu khách quan nói trên, có thể khẳng định rằng, thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhân tố quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Chính vì thế, qua các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, IV, V, VI, VII, VIII của Đảng luôn luôn khẳng định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng thời, qua mỗi lần đại hội, Đảng ta lại nhận thức và cụ thể hoá thêm nhiệm vụ này cho thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh của đất nước ta trong từng thời kỳ. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã xác định lại: "xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ"1 và "giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước"
II. Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa ở nước ta
1. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện cơ khí hoá nền sản xuất xã hội và ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ.
Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và cách mạng kỹ thuật (ngày nay gọi là cách mạng khoa học - công nghệ) là hai khái niệm khác nhau. Công nghiệp hoá chỉ tiến hành ở những nước kinh tế phát triển chưa cao.
Cách mạng kỹ thuật không những được tiến hành ở các nước kinh tế kém phát triển, mà còn được thực hiện ở các nước có nền công nghiệp hoàn chỉnh, phát triển cao và sẽ được tiến hành không ngừng với tình độ ngày càng cao. Tuy nhiên, trong điều kiện một nước sản xuất nhỏ, lao động thủ công còn phổ biến tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như nước ta thì cả công nghiệp hoá và cách mạng khoa học - kỹ thuật đều có một nội dung quan trọng, giống nhau về cơ bản. Đó là thực hiện cơ khí hoá nền kinh tế quốc dân, thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.
Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) đã nêu rõ nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đó là "quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao".
Đối tượng cơ khí hoá là tất cả các ngành kinh tế quốc dân, bao gồm công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng cơ bản v.v.. Việc cơ khí hoá trước các ngành nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm có vị trí quan trọng. Vì lao động trong các ngành này được cơ giới hoá cao, năng suất lao động càng tăng lên thì lao động tất yếu của xã hội càng giảm, lao động thặng dư - nguồn gốc giàu mạnh của đất nước càng nhiều. Từ đó, có vốn đầu tư sang công nghiệp nặng. Cơ khí hoá các ngành công nghiệp, nông nghiệp đòi hỏi phải cơ khí hoá tương ứng, đồng bộ các ngành kết cấu hạ tầng (giao thông vận tải, xây dựng cơ bản v.v..) và tất cả các ngành kinh tế khác. bảo đảm tính tương ứng và đồng bộ trong việc cơ khí hoá các ngành, các khâu là điều kiện cho nền sản xuất xã hội phát triển thuận lợi với tốc độ nhanh, đồng thời mới phát huy được hiệu quả của chính quá trình cơ khí hoá.
Sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Cơ khí hoá toàn bộ nền kinh tế quốc dân là một quá trình lâu dài, phải được thực hiện từng bước, có trọng tâm, trọng điểm. Trong bối cảnh quốc tế hoá đời sống kinh tế, do trình độ lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp, lao động dư thừa còn nhiều, vốn đầu tư còn hạn chế, do đó Đảng ta chủ trương:
- Kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội "đi tắt', "đón đầu", hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học - công nghệ thế giới.
- Mức độ và tốc độ tiến hành cơ khí hoá, trang bị lại kỹ thuật không giống nhau giữa các ngành, các vùng, các khâu trong quá trình sản xuất. Tuỳ theo điều kiện, yêu cầu và khả năng của từng thời kỳ mà lựa chọn ngành, vùng, khâu cần ưu tiên, lựa chọn hướng kỹ thuật, công nghệ phát triển. Do đó, ở nước ta hiện nay cần giải quyết đúng đắn, sáng tạo các mối quan hệ sau đây:
Một là, quan hệ giữa ứng dụng công nghệ hiện đại và cải tiến công nghệ hiện có.
Thực hiện cơ cấu công nghệ kết hợp nhiều trình độ, khai thác tối đa năng lực sản xuất và công nghệ hiện có, tranh thủ đổi mới, hiện đại hoá công nghệ, trước hết ở những khâu có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, nhất là đối với hàng xuất khẩu, những ngành tác động trực tiếp tới việc nâng cao trình độ công nghệ của nhiều ngành khác. Kết hợp công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại, ưu tiên loại công nghệ tốn ít vốn, thu hồi vốn nhanh, tạo nhiều việc làm, ưu tiên ứng dụng và phát triển các công nghệ tiên tiến như công nghệ thông tin, sinh học, chế tạo, gia công vật liệu...
Hai là, quan hệ giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu.
Kết hợp phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, bảo đảm vừa mở rộng xây dựng cơ sở mới cần thiết, vừa nâng cao và hiện đại hoá các cơ sở hiện có. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực hiện có, thực hiện mối quan hệ này càng về sau càng hướng mạnh vào phát triển theo chiều sâu.
Ba là, mối quan hệ giữa các loại quy mô của các đơn vị cơ sở.
Kết hợp xây dựng các loại quy mô. Trong phát triển mới, cần ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, thu hồi vốn nhanh, đồng thời chỉ xây dựng những công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả.
Việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật mới, thực hiện cơ khí hoá các ngành của nền kinh tế quốc dân, phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề như: xây mới phải đi đôi với quản lý, sử dụng để phát huy hiệu quả; kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức lại sản xuất với phân công lao động trong từng đơn vị kinh tế trong phạm vi toàn xã hội; giữa tổ chức sản xuất và phương thức hoạt động của nền kinh tế được cơ khí hoá với cơ chế quản lý và hệ thống các chính sách, pháp luật, giữa sản xuất cơ giới hoá với kết cấu hạ tầng sản xuất và các điều kiện khác liên quan đến sản xuất; giữa đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh với đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nhân lành nghề.
2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa là quá trình tạo lập cơ cấu kinh tế mới
Sự phát triển của cơ sở vật chất - kỹ thuật trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền một cách hữu cơ với quá trình phát triển phân công lao động xã hội; quá trình hình thành các ngành kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội... Các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế tồn tại và hoạt động trong tổng thể nền kinh tế thống nhất. Chúng có mối liên hệ tất yếu khách quan dưới những hình thức tổ chức sản xuất nhất định, hình thàn nên cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế quốc dân như một chỉnh thể.
Giữa các ngành, các vùng và giữa các thành phần kinh tế có các mối quan hệ có tính cơ cấu, tạo nên hệ thống các cơ cấu nhỏ nằm trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân. Nói cách khác, cơ cấu kinh tế quốc dân là tổng thể các cơ cấu ngành, vùng và các thành phần kinh tế... Trong hệ thống các cơ cấu đó, cơ cấu ngành là quan trọng nhất.
Cơ cấu kinh tế hợp lý đòi hỏi những ngành giao thông vận tải, xây dựng cơ bản và các ngành trong lĩnh vực phân phối, lưu thông phát triển tương ứng với nó, đủ sức phục vụ cho công nghiệp, nông nghiệp phát triển thuận lợi.
Xây dựng cơ cấu kinh tế quốc dân tương ứng với cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại của chủ nghĩa xã hội là một quá trình cần được kế hoạch hoá với chiến lược cụ thể, trên cơ sở điều tra cơ bản tình hình tài nguyên, khí hậu, thời tiết, thuỷ văn của cả nước cũng như từng vùng, tính toán đầy đủ các mối quan hệ giữa kinh tế trong nước với kinh tế đối ngoại, giữa kinh tế với quốc phòng, giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa yêu cầu và điều kiện thực hiện v.v.. Chiến lược đó sẽ được bổ sung và hoàn thiện dần dựa trên những phát hiện mới và những biến đổi mới về các nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài.
Quá trình hình thành và hoàn thiện cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế quốc dân diễn ra từng bước gắn liền với các giai đoạn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá và mỗi bước tiến của cơ sở vật chất - kỹ thuật. Nói cách khác, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lạc hậu, què quặt, ít hiệu quả sang cơ cấu hợp lý, tối ưu, có hiệu quả cao, gắn liền với các bước tăng trưởng cơ sở vật chất - kỹ thuật do quá trìn công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra. Đảng ta cho rằng, trong những năm 90, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta được tiến hành theo hướng: phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến là nhiệm vụ quá trình hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội; đồng thời, tăng tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp, mở rộng kinh tế dịch vụ để huy động triệt để các khả năng sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; đẩy mạnh thăm dò và khai thác, chế biến dầu khí và một số loại khoáng sản; phát triển có chọn lựa một số ngành công nghiệp tư liệu sản xuất khác và các cơ sở thuộc kết cấu hạ tầng, trong đó ưu tiên phát triển điện, giao thông, thuỷ lợi và thông tin liên lạc. Thực hiện chuyên môn hoá và liên kết kinh tế giữa các vùng, các địa phương. Xây dựng các trung tâm kinh tế của vùng, để tạo điều kiện liên kết công nghiệp và nông nghiệp, thành thị với nông thôn, phát triển giao lưu hàng hoá.
Như vậy, xét về cơ cấu ngành và các lĩnh vực kinh tế, nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thập kỷ 90 là xây dựng một cơ cấu kinh tế đa dạng:
- Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến; phát triển toàn diện kinh tế nông thôn cùng với xây dựng nông thôn mới, nhằm khai thác mọi tiềm năng về lao động, đất đai và các nguồn tài nguyên khác để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
- Phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu trên cơ sở phát huy khả năng của các thành phần kinh tế với nhiều hình thức, quy mô và công nghệ thích hợp.
- Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trong những ngành trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách và có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường để phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả.
- Phát triển kinh tế dịch vụ: mở rộng thương nghiệp, du lịch và dịch vụ ở cả thành thị, nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại khác.
- Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng: cải tạo, mở rộng, nâng cấp, xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế ở những khâu ách tắc nhất, đang cản trở sự phát triển. Coi trọng xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội ở cả nông thôn và thành thị.
Về quan hệ giữa các vùng và các địa bàn quan trọng:
- Đồng bằng giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong việc sản xuất lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, chăn nuôi, phát triển công nghiệp nông thôn và mở mang dịch vụ. Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng tập trung sức phát triển lương thực, thực phẩm.
- Trung du, miền núi và Tây Nguyên chuyển mạnh sang kinh tế hàng hoá, phát huy thế mạnh về lâm nghiệp, cây công nghiệp dài ngày, chăn nuôi đại gia súc, khoáng sản. Hình thành các vùng nguyên liệu tập trung và chuyên canh gắn với công nghiệp chế biến. Khai thác đi đôi với bảo vệ, tái tạo nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường. Hình thành các trung tâm công, thương nghiệp và đô thị gắn với các tổ hợp kinh tế lãnh thổ.
- Vùng biển hướng vào khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản, khai thác và chế biến dầu khí và các sa khoáng, phát triển các ngành và sản xuất dịch vụ về hàng hải, mở mang du lịch. Khai thác các tiềm năng kinh tế biển, phát triển kinh tế ở hải đảo.
- Các thành phố, thị xã, thị trấn là những trung tâm kinh tế và văn hoá, chủ yếu là trung tâm công nghiệp và thương mại trên từng vùng lớn, nhỏ. Phương hướng phát triển đô thị là: phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ ở đô thị có cơ cấu phù hợp với vị trí, đặc điểm của mỗi vùng nhằm giải quyết việc làm, tăng nhanh sản phẩm xã hội, làm hạt nhân cho sự phát triển của toàn vùng và cả nước. Cải tạo, mở rộng, nâng cấp các đô thị hiện có, phát triển mạng lưới đô thị nhỏ, không tập trung quá đông dân cư vào các thành phố lớn.
Một số địa bàn có vị trí quan trọng đối với từng vùng lớn và đối với cả nước (Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hoà, Vũng Tàu - Côn Đảo, Đà Nẵng...) thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài để phát huy mạnh mẽ vai trò trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, đầu mối phát triển kinh tế đối ngoại... Hình thành trên các địa bàn này một số khu có quy chế đặc biệt về hành chính - kinh tế thuận lợi cho đầu tư và làm tăng hàng xuất khẩu và buôn bán với nước ngoài.
Cơ cấu kinh tế quốc dân còn phải trải qua nhiều bước chuyển dịch, thay đổi vị trí, vai trò của từng ngành và các quan hệ tỷ lệ giữa các ngành nhằm đạt được yêu cầu khai thác tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá cho xã hội, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cho bước chuyển dịch cơ cấu tiếp theo, theo hướng "hình thành về cơ bản nền kinh tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định lại: "Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong những năm còn lại của thập kỷ 90 là:
Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, thuỷ sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế, trước hết ở những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao. Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ. Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại. Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như chế biến nông, lâm, thuỷ sản, khai thác và chế biến dầu khí, một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, du lịch. Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ".
III. Những tiền đề và điều kiện cần thiết để thực hiện quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp to lớn, đòi hỏi một trình độ nhất định về khoa học - công nghệ cũng như về kinh tế, xã hội. Vì vậy, phải có những tiền đề và điều kiện cần thiết bảo đảm triển khai thuận lợi và thực hiện thành công sự nghiệp to lớn này, cụ thể là:
1. Phải có sự ổn định về chính trị - xã hội. Muốn phát triển kinh tế, muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trước hết phải có môi trường chính trị - xã hội ổn định. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đang đổi mới hệ thống chính trị nhằm củng cố nhà nước của dân, do dân và vì dân, thực hiện dân chủ rộng rãi, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng cương lĩnh, chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Đây là tiền đề chính trị bên trong cho công nghiệp hoá.
- Môi trường quốc và xu hướng phát triển mới của thế giới cũng tạo ra tiền đề bên ngoài thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Trước hết, đó là môi trường hoà bình với xu hướng hoà hoãn và hợp tác quốc tế cho phép ta mở rộng quan hệ bạn bè và hợp tác với nhiều nước, nhằm tranh thủ sự viện trợ, giúp đỡ đa phương của quốc tế. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới tạo điều kiện và thời cơ cho những nước kém phát triển, trong đó có Việt Nam có thể sử dụng khoa học, công nghệ mới, nguồn vốn của các nước giàu vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá bằng cách tham gia vào sự phân công và hợp tác quốc tế. Sự lớn mạnh của các lực lượng đấu tranh cho hoà bình, dân chủ và tiến bộ, sự thức tỉnh của nhân loại về một thế giới mới cũng là hoàn cảnh thuận lợi cho các nước kém phát triển đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế. Vài chục năm qua, một số nước đã biết vận dụng hoàn cảnh và tiền đề quốc tế đẩy nhanh quá trình này trong thời gian ngắn, từ một nước lạc hậu kém phát triển trở thành nước công nghiệp.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đã khẳng định: "những thành tựu quan trọng đã và đang tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới"1, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những tiền đề ấy bao gồm một loạt nhân tố cả về thế và lực, cả về chất và tinh thần, về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá, trong nước và nước ngoài.
2. Tích luỹ vốn
Tích luỹ vốn là điều kiện có tầm quan trọng nhất.
Có hai nguồn khả năng để tích luỹ vốn
Một là, tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân.
Hai là, tích luỹ vốn dựa vào sự viện trợ và đi vay nước ngoài và các tổ chức phi chính phủ.
Trong hai nguồn đó, nguồn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, xét về lâu dài, là nguồn chủ yếu. Song, nguồn vốn từ bên ngoài cũng rất quan trọng, nhất là trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế quốc dân được thực hiện trên cơ sở hiệu quả sản xuất: nguồn của nó là lao động thặng dư của người lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích luỹ vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới, hợp lý hoá sản xuất, xoá bỏ cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý cũ, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
ở nước ta hiện nay, để tăng năng suất lao động xã hội, tạo ra nguồn vốn cho tích luỹ, trước hết và chủ yếu là phải khai thác và sử dụng tốt quỹ lao động, tập trung sức phát triển nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu; đẩy mạnh một số ngành công nghiệp khai thác; phát huy năng lực của công nghiệp hiện có và xây dựng mới những cơ sở cần thiết, trực tiếp phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã hoạch định; tích cực thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống xa hoa, lãng phí, triệt để thực hành tiết kiệm sản xuất và tiêu dùng. Cùng với việc tạo ra vốn, vấn đề quan trọng là phải có phương thức huy động, sử dụng và quản lý tối ưu, đem lại hiệu quả cao, làm cho tích luỹ trở thành tích luỹ kép.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ và công nhân
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ, công nhân đủ về số lượng và chất lượng bảo đảm cho việc tổ chức, triển khai và thực hiện thành công những chủ trương, biện pháp xây dựng và phát triển kinh tế.
Cơ cấu đội ngũ này phải đồng bộ, bao gồm cán bộ khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ kinh tế, cán bộ trong các ngành kinh doanh, công nhân kỹ thuật... Những cán bộ và công nhân này phải giỏi về chuyên môn, trung thành với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, tận tuỵ phấn đấu góp phần cho dân giàu nước mạnh.
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ và công nhân phải tiến hành với tốc độ và quy mô thích hợp, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ trong quá trình công nghiệp hoá. Đi đôi với việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ, công nhân, phát huy đầy đủ khả năng, sở trường và nhiệt tình lao động sáng tạo của họ để tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, đóng góp xứng đáng vào
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 62031.doc