Ở nước ta, cũng giống như các nước xã hội chủ nghĩa trước đây thực hiện mô hình kế hoạch hoá tập trung, lấy việc mở rộng và phát triển khu vực kinh tế Nhà nước bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH. Nhưng thực tế cho thấy chúng ta đã đạt được kết quả như mong muốn. Sau chủ trương đổi mới của Đảng vào năm 1986 nền kinh tế nước ta đã có sự phát triển đáng kể, đời sống nhân dân đã được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần, tốc độ tăng trưởng tăng, và dần dần đi vào ổn định. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được chúng ta còn có những khó khăn cần giải quyết mà trong đó là sự hoạt động kém hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước.
Doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nhưng trong những năm gần đây trong điều kiện kinh tế thị trường các doanh nghiệp Nhà nước đã bộc lộ nhiều yếu kém và tỏ ra không còn phù hợp nữa. Để khắc phục vấn đề này Đảng và Nhà nước đã có chủ trương cổ phần hóa (CPH) một bộ phận các doanh nghiệp Nhà nước. Đây là biện pháp quan trọng và cần thiết nhằm thu hút thêm nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, giải quyết vấn đề sở hữu và việc làm trong các doanh nghiệp Nhà nước.
Hiện nay, CPH không còn là vấn đề quá mới mẻ, nhưng thành công của nó mới bắt đầu được chuẩn bị. Chính vì những lý do trên em đã chọn đề tài “Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam thực trạng và giải pháp” để một lần nữa khẳng định CPH các doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
28 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 827 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
ở nước ta, cũng giống như các nước xã hội chủ nghĩa trước đây thực hiện mô hình kế hoạch hoá tập trung, lấy việc mở rộng và phát triển khu vực kinh tế Nhà nước bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH. Nhưng thực tế cho thấy chúng ta đã đạt được kết quả như mong muốn. Sau chủ trương đổi mới của Đảng vào năm 1986 nền kinh tế nước ta đã có sự phát triển đáng kể, đời sống nhân dân đã được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần, tốc độ tăng trưởng tăng, và dần dần đi vào ổn định. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được chúng ta còn có những khó khăn cần giải quyết mà trong đó là sự hoạt động kém hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước.
Doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nhưng trong những năm gần đây trong điều kiện kinh tế thị trường các doanh nghiệp Nhà nước đã bộc lộ nhiều yếu kém và tỏ ra không còn phù hợp nữa. Để khắc phục vấn đề này Đảng và Nhà nước đã có chủ trương cổ phần hóa (CPH) một bộ phận các doanh nghiệp Nhà nước. Đây là biện pháp quan trọng và cần thiết nhằm thu hút thêm nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, giải quyết vấn đề sở hữu và việc làm trong các doanh nghiệp Nhà nước.
Hiện nay, CPH không còn là vấn đề quá mới mẻ, nhưng thành công của nó mới bắt đầu được chuẩn bị. Chính vì những lý do trên em đã chọn đề tài “Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam thực trạng và giải pháp” để một lần nữa khẳng định CPH các doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
I- Những vấn đề về cổ phần hoá.
1. Tính chất tất yếu của cổ phần hoá.
Để hiểu tại sao cổ phần hoá lại mang tính tất yếu trước hết ta đi xét xem thực chất của công ty cổ phần hoá phần là gì và vai trò của nó đối với nền kinh tế.
Công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ XVI ở các nước phát triển đến nay đã có lịch sử phát triển mấy trăm năm. Công ty cổ phần là sự hình thành một kiểu tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất cứ lực lượng nào mà là một quá trình kinh tế khách quan có thể nói công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông góp vốn kinh doanh và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần góp vốn của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Công ty cổ phần ra đời là một tất yếu bởi vì quá trình hoá tư bản tăng cường tích tụ và tập trung tư bản ngày càng cao. Nó diễn ra một cách mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí và sự tự do cạnh tranh dưới chủ nghĩa tư bản. Từ đó công ty cổ phần trở thành mô hình tổ chức sản xuất phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới và có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế, góp phần hoàn thiện cơ chế thị trường.
Công ty cổ phần là sản phẩm của xã hội hoá sở hữu phản ánh quá trình tích tụ và tập trung tư bản, công ty cổ phần ra đời đã góp phần đẩy nhanh quá trình này về tốc độ và qui mô và làm xuất hiện những xí nghiệp mà với tư bản riêng lẻ không thể nào thiết lập được.
Công ty cổ phần còn là kết quả của sự vận động tách biệt hai mặt của sở hữu thể hiện ở mối quan hệ sở hữu và quyền kinh doanh ,nó cho phép mở rộng qui mô sản xuất nhanh chóng mà không bị giới hạn bởi tích luỹ của từng tư bản riêng biệt tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất và để đáp ứng các nhu cầu phát triển của nó, hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán và Nhà nước trở thành bộ máy kinh tế hoạt động và thực hiện các chức năng quản lý mà lâu nay vẫn nằm trong tay các nhà tư bản cá biệt.
Công ty cổ phần ngoài ra còn có vai trò trong việc giảm bớt tổn thất khi bị phá sản, mở rộng sự tham gia của các cổ đông đặc biệt là người lao động...
Với những đặc điểm được trình bày ở trên, công ty cổ phần đã thực sự đóng vai trò tổ chức trong nền kinh tế theo những yêu cầu của thị trường. Điều đó cho phép khẳng định xu hướng phát triển tất yếu của loại hình công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Điều này là cơ sở cần thiết để xác lập việc xây dựng các luận cứ khoa học nhằm phân tích và thực hiện việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Hơn nữa xu hướng phát triển hiện nay của nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng đó là giảm bớt mức độ kiểm soát trực tiếp của Nhà nước, giành sự điều tiết mạnh cho cơ chế thị trường. Sự khắc phục những hiện tượng trì trệ trong nền kinh tế do hoạt động kém hiệu quả của khu vực kinh tế Nhà nước, thâm hụt ngân sách kéo dài và gánh nặng nợ của Nhà nước ngày càng tăng đã buộc thầu hết các Chính phủ có khu vực kinh tế Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tư bản xã hội đều phải tìm cách giảm bớt xuống một tỷ trọng nhất định trong nền kinh tế. Đồng thời để đảm bảo tính cạnh tranh trong cơ chế thị trường thì phải thực hiện tư nhân hoá và cổ phần hoá. Đối với nước ta qua hơn 10 năm đổi mới kinh tế theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, khu vực kinh tế quốc doanh đã được sắp xếp lại một bước. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp Nhà nước còn quá nhiều, lại phân bố dàn trải trên nhiều lĩnh vực, đại bộ phận là thiếu vốn do nguồn vốn ngân sách có hạn. Mặt khác máy móc thiết bị trong các doanh nghiệp này lại lạc hậu, không đồng bộ, năng suất lao động thấp... chính vì vậy tiến trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam không thể không có nội dung cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó có vấn đề thu hẹp sở hữu Nhà nước mà hạn chế sự can thiệt trực tiếp của Nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, coi trọng vai trò điều tiết của cơ chế thị trường. Do đó tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam là một vấn đề không thể bỏ qua, một nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới và cũng là một đòi hỏi khách quan để chuyển sang nền kinh tế thị trường dựa trên các động lực của thị trường và vai trò định hướng của Nhà nước.
2. Thực chất của cổ phần hoá.
Vấn đề tưởng như dễ thống nhất nhưng lại có những nhận thức khác nhau, hiện nay có 3 ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất thì cho rằng cổ phần hoá thực chất là tư nhân hoá. Loại ý kiến thứ hai cho rằng cổ phần hoá là nhằm xác định chủ sở hữu cụ thể đối với doanh nghiệp. Còn loại ý kiến thứ ba cho rằng thực chất của cổ phần là quá trình xã hội hoá doanh nghiệp Nhà nước.
Trước hết ta xem xét cổ phần hoá phải chăng là tư nhân hoá. Tư nhân hoá là quá trình chủ sở hữu Nhà nước sang sở hữu tư nhân bằng cách bán cho tư nhân, cho không cán bộ công nhân viên chức hoặc toàn dân, giải thể và bán đầu giá tài sản, cổ phần hoáv.v... Cổ phần hoá là huy động nhiều chủ thể đầu tư thuộc các thành phần khác nhau và cũng có thể là các chủ thể trong cùng một thành phần kinh tế cùng góp vốn để chuyển đổi từ chủ sở hữu sang đa sở hữu. Do đó cổ phần hoá chưa hẳn và không thể đồng nhất với tư nhân hoá mà cổ phần hoá chỉ là một trong nhiều cách để tư nhân hoá một phần tài sản của các doanh nghiệp Nhà nước. Khái niệm tư nhân hoá mở rộng hơn và quá trình thực hiện khó khăn, phức tạp hơn cổ phần hoá. ý kiến thứ hai cũng không hoàn toàn chính xác. CPH không phải chỉ có nhằm đa dạng hoá quyền sở hữu và cụ thể hoá chủ sở hữu, mà nó còn có rất nhiều chức năng khác.
Còn về ý kiến thứ 3 cũng chỉ đúng một phần. Xã hội hóa theo nghĩa truyền thống là biến tài sản sở hữu tư nhân thành sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân. Như vậy, quá trình xã hội hoá doanh nghiệp Nhà nước không thể là CPH.
Như vậy để hiểu rõ được thực chất của CPH một số DNNN cần phải xem xét cả 2 phía khách quan và chủ quan.
Về khách quan: CPH một số DNNN là do đòi hỏi khách quan của qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong sự phát triển của xã hội loài người. Kinh tế thị trường với nhiều chủ sở hữu khác nhau đứng đối diện tươi cười nhưng cũng sẵn sàng biến thương trường thành chiến trường. Đa sở hữu thuộc đa thành phần là quan hệ sản xuất đang thúc đẩy lực lượng sản xuất hiện nay. Một người chủ sở hữu không thể tự sản xuất rồi tự bán để thành thị trường được. Bên cạnh qui luật trên các qui luật thị trường đang làm vỡ tung một số DNNN được dựng nên mà đáng ra chưa nên có, buộc chúng ta phải nhận thức lại và hành động lại.
- Về chủ quan: Nhà nước ta không kham nổi, không gánh mãi được các DNNN bằng cách nào đó cho nó sống lay lắt. Gánh nặng bao cấp tín dụng bao cấp để duy trì những xí nghiệp mà đáng ra không nên có đã bức bách chúng ta phải CPH nó bằng cách chuyển thể hình thức sở hữu của nó. Cạnh tranh trong cơ chế thị trường nó có thể tồn tại và phát triển hoặc phá sản để Nhà nước tập trung tiền của vào việc khác xem râ có hiệu quả hơn. Như vậy thực chất của quá trình CPH là nhằm giải quyết 4 vấn đề cơ bản:
- Về sở hữu: Nhằm đa dạng hoá quyền sơ hữu và cụ thể hoá chủ sở hữu.
- Về hoạt động: Nhằm thương mại hoá mọi hoạt động của doanh nghiệp chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính, cắt bỏ sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động doanh nghiệp.
- Về quản lý: Pháp luật hoá tổ chức quản lý theo luật công ty đã ban hành và các luật khác.
- Về hiệu quả: Nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đây chính là mục tiêu cuối cùng của giải pháp cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đang trở nên phổ biến, đem lại hiệu quả rõ rệt ở hầu hết các nước và đang phát triển trên thế giới. Còn ở nước ta CPH các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những quan điểm và giải pháp quan trọng của Đảng và Nhà nước nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước. Tuy vậy hiện nay vẫn còn không ít những ý kiến cho rằng những doanh nghiệp đã thực hiện chế độ cổ phần hoá không còn là doanh nghiệp Nhà nước nữa mà trở thành loại hình kinh doanh hỗn hợp thuộc thành phần kinh tế tư bản Nhà nước. Và việc CPH một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước liệu có đi chệch hướng chủ nghĩa xã hội không? Và về lâu dài nó có tác dụng xấu về mặt chính trị đối với nền kinh tế thị trường với định hướng XHCN ở nước ta không. Đây là vấn đề tư tưởng cần được giải quyết để hưởng ứng chủ trương CPH cũng như góp phần trực tiếp vào chương trình CPH của Chính phủ. Thực ra việc chuyển một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận sang công ty cổ phần chỉ là sự thay đổi về hình thức tổ chức quản lý nhằm huy động thêm vốn để trang bị kỹ thuật đổi mới công nghệ, từ đó tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trên thực tế, tuy các công ty cổ phần của Nhà nước vừa phải hoạt động theo luật công ty, vừa hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước, nhưng những doanh nghiệp ấy do Nhà nước thành lập và quan trọng hơn Nhà nước là chủ sở hữu cơ bản nhất nên Nhà nước nắm quyền quyết địng trong hội đồng quản trị. Như vậy lợi ích của Nhà nước sẽ được đảm bảo, tài sản vốn liếng trong doanh nghiệp Nhà nước không ngừng tăng lên cả về giá trị và hiện vật, ưu thế về vốn, công nghệ được phát huy - điều mà doanh nghiệp Nhà nước truyền thống và doanh nghiệp tư nhân khó có được. Hơn nữa doanh nghiệp Nhà nước CPH có thể tồn tại dưới nhiều hình thức vẫn đảm bảo được kinh doanh có hiệu quả và bảo vệ được lợi ích của cổ đông Nhà nước. Cuối cùng có thể khẳng định các công ty cổ phần trong đó Nhà nước nắm cổ phần khống chế vẫn là doanh nghiệp Nhà nước.
Mặt khác một số ý kiến ngộ nhân, đem đồng hoá chế độ CPH với chủ nghĩa tư bản là không đúng. Chế độ CPH là một phương thức tổ chức sản xuất, một hình thức tổ chức kinh doanh. Mặc dù kinh tế cổ phần ra đời trong CNTB nhưng nó ra đời cùng với sự phát triển của nên sản xuất lớn xã hội hoá vàcủa nền kinh tế hàng hoá. Kết quả tích cực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá và sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Đối với nước ta chế độ cổ phần vẫn đảm bảo đi đúng hương XHCN phục vụ dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Vì vậy, CPH một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là phù hợp với nền kinh tế thị trường, nhằm giảm gánh nặng đầu tư bao cấp tràn lan kém hiệu quả, tập trung vốn vào các ngành trọng điểm chiến lược, phục vụ sản xuất lớn. Do đó có thể kết luận rằng CPH một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước là phù hợp với định hướng XHCN với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh mà Đảng và Nhà nước đã vạch ra cho nhu cầu xây dựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
3. Mục tiêu của cổ phần hoá.
Cổ phần hoá nếu thực hiện thành công sẽ làm tăng nguồn tài chính, đồng thời còn trở thành phương tiện để thay đổi bộ mặt kinh tế vĩ mô và xã hội. Để đạt được điều đó trước hết phải đặt mục tiêu cho quá trình này. Xuất phát từ thực chất CPH ở nước ta (khác hẳn với CPH mà các nước trên thế giới đã tiến hành) là nhằm cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước cho hợp lý và hiệu quả mà ta cần phải nghiên cứu kỹ đặc điểm chung của nền kinh tế quốc doanh và đặc điểm riêng của từng loại doanh nghiệp Nhà nước để định ra mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể để CPH. Và trong từng điều kiện cụ thể có thể điều chỉnh thứ tự ưu tiên của các mục tiêu cho phù hợp với yêu cầu và khả năng thực hiện.
ở nước ta xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay: Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/98-NĐ-CP ngày 28/06/1998 thay thế cho Nghị định 28/CP về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần với hai mục tiêu.
Một là: Huy động vốn trong toàn xã hội của cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước.
Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đó cũng là điều kiện tối quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. hiện nay các doanh nghiệp Nhà nước đang thiếu vốn nghiêm trọng để đầu tư phát triển. Nhưng lấy ở đâu? Nhà nước (ngân sách + ngân hàng) không thể và không nên tiếp tục cấp vốn cho một khu vực làm ăn kém hiệu quả. Dân chúng sẽ không bao giờ cho doanh nghiệp Nhà nước vay nếu doanh nghiệp Nhà nước không đạt được cải tổ và có phương án làm ăn tốt, có sức thuyết phục. Còn nước ngoài thì không bao giờ cho doanh nghiệp Nhà nước vay nếu giữ nguyên trạng. Họ chỉ có thể làm ăn với doanh nghiệp Nhà nước thông qua các hình thức mua, thuê, liên doanh, mua cổ phần. Vậy muốn có vốn để đầu tư cho phát triển doanh nghiệp Nhà nước chỉ có thể huy động được thông qua hình thức bán cổ phần. Việc bán cổ phần cho bên nước ngoài là rất cần thiết và có thể làm được bởi vì: Chúng ta đang thiếu vốn mà họ lại đang thừa vốn, đang cần thị trường để đầu tư. Ta đang thiếu kỹ thuật và thiết bị hiện đại, còn họ thì có “thừa”, tuy nhiên ta phải lựa chọn cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng loại doanh nghiệp tránh việc nhập đồ “bãi rác”. Ta đang thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý đối với nền kinh tế thị trường, òn họ thì không thiếu và sẵn sàng truyền lại cho ta. Nhưng cũng cần phải nhấn mạnh rằng kiến thức và kinh nghiệm của người khác bao giờ cũng cần, cũng quý nhưng không thể bê “nguyên xi” vào áp dụng ở Việt Nam, càng không thể thay thế sự sáng tạo của chúng ta.
Song việc bán cổ phần cho người nước ngoài không hoàn toàn là biện pháp tốt nhất bởi sự ràng buộc luật ở Việt Nam, cả hai luật luật công ty và luật đầu tư của nước ngoài chưa đủ để điều chỉnh các hoạt động của người nước ngoài trong công ty cổ phần, nhất là về mặt tài chính. Kinh nghiệm thực tế những năm qua cho chúng ta thấy tiềm năng vốn trong dân là khá phong phú. Do đó bên cạnh việc bán cổ phần cho nước ngoài chúng ta còn đầy mạnh việc bán cổ phần trong nước. Việc thu hút vốn đầu tư trong dân là rất quan trọng vừa bổ sung nguồn vốn hoạt động cho các đơn vị kinh tế, đưa vốn nhà rỗi có tính bất động của nhân dân vào vòng quay của cả nền kinh tế để “tiền đẻ ra tiền” tăng lượng tiền lưu thông, khắc phục tình trạng khan hiếm tiền mặt giả tạo, đồng thời tạo sức mạnh về vốn cho các đơn vị kinh tế, các tập đoàn kinh tế trong việc hợp tác và cạnh tranh với các tập đoàn kinh tế thế giới.
Hai là: Tạo điều kiện cho những người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Chúng ta đã trải qua một thời kỳ tìm kiếm lâu dài và cứ loay hoay mãi mà chưa đưa lại cho người lao động một sự làm chủ thực sự: Trong khi đó người lao động đã giác ngộ ra rằng nếu không làm chủ được về kinh tế thì mọi sự làm chủ khác đều vô nghĩa, chỉ là hình thức. Và chỉ khi có vốn để mua cổ phiếu, tham gia chọn các thành viên trong hội đồng quan trị (là cơ quan thay mặt mình để quản lý doanh nghiệp) thì lúc đó người lao động mới có quyền thực sự không bị một sự o ép nào. Nhưng khi đó lại nảy sinh vấn đề khác, đó là quyền làm chủ của mỗi người không giống nhau, người giàu (mua nhiều cổ phiếu) có quyền hơn người nghèo (mua ít cổ phiếu). Nếu như theo quan niệm cũ thì đây là điều không thể chấp nhận được, là sự không công bằng, là phi XHCN ... Nhưng thực ra chưa có một chế độ nào, thậm chí cả CNXH, có công bằng tuyệt đối. Nhà nước ta chỉ có thể và cần phải làm cho một bộ phận dân chúng giàu lên trước, đồng thời có biện pháp để hạn chế người nghèo, thu hẹp khoảng cách giữa ngơừi giàu và người nghèo. Chỉ có cách đó dân ta mới giàu có lên được, nước ta mới có phồn vinh được.
Ngoài hai mục tiêu trên, CPH còn có thể nhằm vào mục tiêu thứba là tạo mối dây liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp có quyền lợi chung thông qua sự tham gia đồng sở hữu cổ phần trong một doanh nghiệp.
4. Điều kiện và qui trình tiến hành cổ phần hoá.
CPH là một nội dung của đa dạng hoá sở hữu , xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, là quá trình chuyển đổi sở hữu một đơn vị kinh tế quốc dân nhằm đạt tới hiệu quả kinh tế cao hơn. CPH kinh tế quốc doanh hiện nay đang trở thành bức thiết và Nhà nước ta coi đó là chủ trương lớn trong chính sách cải cách kinh tế đất nước. Vấn đề đặt ra hiện nay là cải cách doanh nghiệp nào? Căn cứ vào điều kiện kinh tế nước ta hiện nay với mục tiêu trên để một doanh nghiệp CPH thành công thì phải thoả mãn 3 điều kiện sau:
Thứ nhất: chỉ là những doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ trừ những doanh nghiệp giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu theo qui định chỉ nhằm thu hút thêm để phát triển doanh nghiệp. Tuy nhiên một vấn đề đặt ra là thế nào là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này rất quan trọng bởi vì nếu doanh nghiệp có qui mô quá lớn thì rất khó tìm cổ đông, còn nếu quá nhỏ thì hiệu quả khó có thể cao được. Vận dụng kinh nghiệm của các nước vào nước ta cho thấy để tiến hành CPH có hiệu quả đối với các doanh nghiệp cần bảo đảm dựa trên số vốn thực có của Nhà nước tại doanh nghiệp được xác định bằng số vốn Nhà nước giao cộng lợi nhuận để lại doanh nghiệp, trừ số thua lỗ, mất vốn đang treo nợ, để từ đó đánh giá qui mô gì là hợp lý hơn cả. Có thể coi một doanh nghiệp Nhà nước có số vốn từ 10 tỷ đồng trở xuống là một doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.
Thứ hai: Các doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước cần đầu tư 100% vốn. Các doanh nghiệp Nhà nước thuộc đối tượng CPH, Nhà nước phân loại ra theo những tiêu thức nhất định. Doanh nghiệp Nhà nước mà giai đoạn trước mặt, Nhà nước vẫn nắm giữ 100%. Đó là các doanh nghiệp có qui mô lớn, có vị trí quan trọng chẳng hạn như các doanh nghiệp hoạt động nhằm phục vụ cho công tác an ninh và quốc phòng, các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt của nền kinh tế quốc dân (ngành năng lượng, dầu khí, khai thác vàng và đá quí, xây dựng sân bay, bến cảng, đường sắt...), các doanh nghiệp cần thiết cho nhu cầu cho quốc kế dân sinh. Tất cả các doanh nghiệp trên không được CPH trong điều kiện nước ta hiện nay.
Thứ ba: Các doanh nghiệp đang làm ăn có lãi hay nói cách khác doanh nghiệp có phương án kinh doanh hiệu quả. Về vấn đề này đã có rất nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng Nhà nước cần bán những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ chứ sao lại bán những doanh nghiệp đang làm ăn có lãi.
Thật vậy, chúng ta đều biết rằng, lợi nhuận là chỉ tiêu đánh giá tổng quát nhất về hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì không phải chỉ có một nguyên nhân nào mà thường do nhiều nguyên nhân, bao gồm cả trình độ quản lý và cơ chế quản lý của giám đốc, tay nghề của công nhân... khả năng thích nghi đối với thị trường của doanh nghiệp vì vậy một doanh nghiệp đã có truyền thống làm ăn thua lỗ, sẽ gây ấn tượng không tốt đối với các cổ đông, do đó các doanh nghiệp này rất khó hoặc không thể cổ phần hoá. Thoe như đã phân tích ở trên về thực chất của CPH, về mục tiêu của CPH và đặc biệt CPH các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay là tất yếu đối với nền kinh tế thế giới nói chung và cần thiết và cấp bách đối với nền kinh tế Việt Nam nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Điều đó có nghĩa là chúng ta không thể nói là chúng ta không thực hiện CPH các doanh nghiệp Nhà nước. Mặt khác doanh nghiệp Nhà nước đang làm ăn thua lỗ không thể bán mà chỉ có doanh nghiệp Nhà nước đang làm ăn có lãi mới cầnbán bởi vì cho dù doanh nghiệp Nhà nước đó lâu nay làm ăn có lãi đi chăng nữa, thì một lúc nào đó với điều kiện khách quan biến đổi, doanh nghiệp Nhà nước khó có thể cứ tiếp tục giữ được mức độ đó. Một doanh nghiệp phát triển phải luôn luôn thích ứng được các biến đổi của xã hội và phù hợp với qui luật khách quan của thị trường. Và xét và điều kiện thiết thực của chúng ta hiện nay, doanh nghiệp Nhà nước nhất thiết phải CPH để nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh hơn nữa. Đồng thời để Nhà nước có thể thu hồi vốn nhằm đầu tư cho những nhu cầu thiết yếu khác. Từ đó thực hiện đa dạng hoá sản phẩm.
Ngoài ra cần phải xem xét kỹ: Doanh nghiệp đem cổ phần có phải là doanh nghiệp Nhà nước thuần tuý hay không. Các doanh nghiệp Nhà nước nhưng lại có liên doanh với các đơn vị hoặccá nhân trong nước, ngoài nước hoặc là có bán cổ phần một số bộ phận nào đó không thuộc diện CPH.
Như vậy để lựa chọn được đúng đối tượng phù hợp với mô hình CPH phải kết hợp cả 3 điều kiện trên và trình tự nội dung của các bước tiến hành CPH một doanh nghiệp Nhà nước theo tiến độ sau đây:
- Hội đồng quản trị tổng công ty quyết định thành lập ban cổ phần hoá công ty. Riêng về ban CPH của doanh nghiệp Nhà nước được chọn CPH, thì tổng công ty, hoặc công ty độc lập báo cáo bộ quyết định. Thành phần của ban CPH - DNNN bao gồm: Giám đốc, kế toán trưởng: Uỷ viên thường trực, trưởng phòng tổ chức - lao động: Uỷ viên, bí thư Đảng uỷ (hoặc phó bí thư), chủ tịch (hoặc phó chủ tịch), công đoàn: Uỷ viên Ban này có nhiệm vụ chuẩn bị phương án CPH, xây dựng luận chứng sơ bộ về CPH.
- Căn cứ vào các điều kiện CPH- DNNN đã được qui định và sau khi có sự nhất trí của Đảng uỷ, Tổng công ty, hoặc công ty độc lập trực thuộc bộ, lựa chọn DNNN cổ phần hoá theo 4 hình thức.
+ Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp phát hành cổ phiếu thu thút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp.
+ Bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
+ Tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để CPH.
+ Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần.
- Tổ chức tập huấn cho ban CPH và cán bộ, công nhân viên chức của doanh nghiệp Nhà nước CPH về mục tiêu, đối tượng, nguyên tắc, điều kiện, hình thức CPH, về phương pháp CPH.
- Xử lý các tồn tại về tài chính của DNNN trước khi cổ phần hoá. Về tài sản cố định, tài sản lưu động phải phân tích một cách cụ thể chính xác để có phương pháp xử lý phù hợp.
- Giải quyết các văn bản pháp lý về bản đồ địa chính, giấy cấp đất, giấy phép xây dựng các công trình đã có, diện tích khu vực sản xuất kinh doanh....
- Lập dự toán chi phí thực hiện CPH bao gồm chi in ấn tài liệu chi thuê cơ quan kiểm toán, chi thuê lập phương án CPH...
Toàn bộ chi phí thực hiện CPH được tính vào giá trị doanh nghiệp CPH. Riêng chi mua tờ cổ phiếu do người mua cổ phần chịu.
- Doanh nghiệp CPH phải tiến hành khoá sổ kế toán và lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp CPH.
- Ban cổ phần hoá - doanh nghiệp Nhà nước thành lập ban kiểm kê đánh giá trị doanh nghiệp (hoặc bộ phận) CPH, đối chiếu với số liệu sổ kế toán tính đến thời điểm CPH doanh nghiệp (hoặc bộ phận) và xử lý số liệu chênh lệch kiểm kê tài sản theo đúng qui định hiện hành, sau đó tính giá trị doanh nghiệp CPH theo công thức.
Giá trị doanh nghiệp (hoặc bộ phận) sau kiểm kê đánh giá lại = (giá trị TSCĐ + giá trị TSLĐ + giá trị XDCBDD + vốn liên doanh, liên kết) - (nợ phải trả + nợ phải trả không có chủ trả + lỗ + quĩ PL,KT + vốn nhận liên doanh).
- Đối với doanh nghiệp lớn, phức tạp nếu cần thiết phải kiểm toán thì ký hợp đồng thuê kiểm toán.
- Ban CPH tại doanh nghiệp thành lập hội đồng doanh nghiệp để xác định giá trị doanh nghiệp.
Giá trị DN = Giá trị DN sau khi kiểm kê đánh giá lại + (hoặc -) giá trị lợi thế + chi phí tiến hành CPH.
- Thống kê danh sách lao động của doanh nghiệp.
- Xem xét các nguồn tồn quĩ phúc lợi, quỹ khen th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72339.doc