Hiện nay việc thực hiện CSLS nói riêng, CSTT nói chung còn tồn tại nhiều mâu
thuẫn và thiếu đồng bộ với chính sách tài khóa gây cản trở lớn cho việc thực hiện mục
tiêu chung của các chính sách kinh tế vĩ mô là thúc đẩy tăng trường kinh tế và kiềm
chế lạm phát. Tình trạng CSLS thì thắt chặt trong khi chính sách tài khóa lại nới lỏng
như đã từng xảy ra không những làm tính hiệu quả của công tác điều hành mà thậm
chí còn gây nên những hiệu ứng tiêu cực đối với nền kinh tế. Các giải pháp thực thi
chính sách tài khóa nếu được cân nhắc và phối hợp kịp thời với CSTT nói chung,
CSLS nói riêng thì các mục tiêu chính sách tài khóa đạt được sẽ là bước đệm tạo điều
kiện hỗ trợ tích cực cho việc thực thi CSLS.
36 trang |
Chia sẻ: NamTDH | Lượt xem: 1708 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài : Chính sách lãi suất của ngân hàng nhà nước Việt Nam từ 2007 – nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
13% lên 14% và đỉnh điểm là việc NH
Techcombank công bố lãi suất huy động lên tới 17% trong ngày 8/12/2010.
Bên cạnh đó ngày 26/02/2010 NHNN đã ban hành thông tư 07/2010/TT-NHNN
cho phép các ngân hàng thương mại được thực hiện lãi suất thỏa thuận đối với các
khoản vay trung dài hạn. Cơ chế này cũng áp dụng với các khoản vay ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn để trực tiếp phục vụ đời sống của cá nhân
và hộ gia đình của khách hàng vay; các hoạt động cho vay tiêu dùng thông qua
4
2
6
Đề tài: Chính sách lãi suất của NHNNVN từ 2007 – nay GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
SVTH: Ngô Thị Phương Dung – Lớp: 37K07.2 Trang: 26
nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
Đối với tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Tiếp nối mục tiêu kích thích nền kinh tế, cuối năm 2009, NHNN tiếp tục duy trì
tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn bằng VND dưới 12 tháng ở
mức 3%, kỳ hạn 12-24 tháng là 1%. Đến hết năm 2009, lãi suất tiền gửi DTBB cũng
được duy trì ở mức 1,2%/năm. Ngoài ra, lãi suất tiền gửi vượt DTBB bằng ngoại
tệ đối với các TCTD và của kho bạc nhà nước tại NHNN cũng duy trì ở 0,1% /năm.
Ngày 18/1/2010, NHNN đã điều chỉnh DTBB bằng ngoại tệ đối với các TCTD.
Theo đó, tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn có kỳ hạn dưới 12 tháng và tỷ lệ
DTBB đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên bằng ngoại tệ áp dụng cho các NHTM nhà
nước (không bao gồm NHNN&PTNT), NHTMCP, ngân hàng 100% vốn nước ngoài,
ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tương ứng từ 7% và 3% xuống
còn 4% và 2% trên tổng số dư tiền gửi phải DTBB.
Nghiệp vụ thị trường mở
Trong 9 tháng đầu năm 2010, nghiệp vụ thị trường mở được điều hành nhằm hỗ
trợ vốn thanh toán VND cho các TCTD, ổn định TTTT và hỗ trợ các TCTD giảm mặt
bằng lãi suất huy động vốn: Thực hiện chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 7, 14, 28
ngày; lãi suất được điều chỉnh giảm (lãi suất kỳ hạn 7 ngày giảm từ 7,8%/năm xuống
7,5%/năm và xuống 7%/năm, lãi suất kỳ hạn 14 ngày từ 8%/năm xuống 7,5%/năm, 28
ngày là 8%/năm); khối lượng chào mua bình quân khoảng 5.400 tỷ đồng/phiên, khối
lượng trúng thầu bình quân khoảng 3.200 tỷ đồng/phiên.
Ba tháng cuối năm, trong bối cảnh áp lực lạm phát tăng cao, tín dụng và tổng
phương tiện thanh toán vượt mục tiêu, nghiệp vụ thị trường mở được điều hành chặt
chẽ hơn nhưng đảm bảo ổn định TTTT thông qua việc giảm dần kỳ hạn chào mua từ
dài nhất là 28 ngày xuống chỉ thực hiện chào mua với kỳ hạn 7 ngày (từ ngày
10/11/2010); lãi suất chào mua kỳ hạn 7 ngày tăng từ 7,0-8,75-9,0-10%/năm; khối
lượng chào mua bình quân khoảng 7.160 tỷ đồng/phiên, khối lượng trúng thầu bình
quân khoảng 6.970 tỷ đồng/phiên.
2.2.4. Giai đoạn 2011 – nay:
Bước sang năm 2011, kinh tế toàn cầu bắt đầu le lói phục hồi nhưng còn nhiều
khó khăn, tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế trong nước. Trong 6 tháng đầu năm,
4
2
7
Đề tài: Chính sách lãi suất của NHNNVN từ 2007 – nay GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
SVTH: Ngô Thị Phương Dung – Lớp: 37K07.2 Trang: 27
lạm phát tăng 13,29% so với đầu năm và tăng 20% so cùng kỳ năm trước, gây khó
khăn cho nỗ lực kiềm chế lạm phát dưới 15% theo mục tiêu đề ra, thị trường bất động
sản và chứng khoán sụt giảm mạnh.
Giai đoạn 2011 – nay, NHNN Việt Nam đã điều hành CSTT chặt chẽ, thận trọng
để kiểm soát lạm phát và hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn hệ thống, thực
hiện mạnh mẽ các biện pháp điều hành nhằm kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng và
điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho sản xuất, giảm tỉ trọng dư nợ
cho vay lĩnh vực phi sản xuất.
Đối với công cụ lãi suất,
NHNN đã có nhiều giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt để giảm mặt bằng lãi suất
nhằm hỗ trợ sản xuất phát triển, góp phần chống suy giảm kinh tế, khống chế tốc độ
tăng trưởng dư nợ và dư nợ cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất trong năm 2011 lần
lượt là 20% và 16%.
Về điều hành lãi suất huy động, NHNN đã ban hành Thông tư số 02/TT-NHNN
ngày 03/3/2011 qui định trần lãi suất huy động VND của các TCTD là 14%.
Đến cuối năm 2011, tổng phương tiện thanh toán và tín dụng lần lượt tăng
khoảng 10% và 12%, các mức lãi suất trên thị trường đã được điều chỉnh phù hợp với
diễn biến kinh tế vĩ mô và chỉ đạo của Chính phủ. Việc tăng cường thanh tra, giám sát
và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm trần lãi suất huy động đã tạo điều kiện cho
việc giảm dần mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trong những tháng cuối năm.
Trong đó, lãi suất cho vay nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu giảm 0,5-1%/năm và
dao động ở mức 14,5-17%/năm, thậm chí chỉ còn 13,5%/năm.
Để định hướng thị trường, ngay từ đầu năm 2012, NHNN đã đưa ra mục tiêu tiếp
tục giảm lãi suất huy động xuống còn 9-10%/năm vào cuối năm 2012, đồng thời đưa
ra lộ trình giảm trung bình mỗi quí 1%/năm. Từ tháng 5/2012, NHNN đã qui định trần
lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với lĩnh vực ưu tiên là nông nghiệp nông thôn,
xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ứng dụng công
nghệ cao; trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên được
điều chỉnh giảm từ mức 15%/năm xuống 12%/năm, phù hợp với xu hướng giảm của
trần lãi suất tiền gửi VND.
4
2
8
Đề tài: Chính sách lãi suất của NHNNVN từ 2007 – nay GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
SVTH: Ngô Thị Phương Dung – Lớp: 37K07.2 Trang: 28
Đến cuối năm 2012, lãi suất huy động VND giảm mạnh từ 3-6%/năm, lãi suất
cho vay giảm từ 5-9%/năm so với cuối năm 2011 và trở về mức lãi suất của năm 2007.
Lãi suất cho vay ưu tiên giảm về mức 12%/năm, cho vay sản xuất kinh doanh khác và
cho vay tiêu dùng ở mức 12-15%/năm, riêng lãi suất cho vay đối với các khách hàng
tốt chỉ còn 9-11%/năm. Tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng lần lượt khoảng
20% và 9%, phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức thấp (6,8%), góp phần ổn
định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Trên cơ sở kết quả điều hành CSTT đã đạt được, và các mục tiêu do Quốc hội và
Chính phủ đề ra trong năm 2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất
kinh doanh, hỗ trợ thị trường, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt và đồng bộ các công
cụ CSTT, chủ động điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo ổn định
TTTT, ngoại hối và kiểm soát tiền tệ.
Trong năm 2013, Ngân hàng Nhà nước đã giảm 2%/năm các mức lãi suất điều
hành; giảm 3%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với các lĩnh vực
ưu tiên; giảm 1%/năm lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi bằng VND, từ cuối tháng
6 cho phép các ngân hàng thương mại tự ấn định lãi suất tiền gửi VND có kỳ hạn từ 6
tháng trở lên.
Mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm 2-5%/năm trong năm 2013 nhưng vẫn đảm bảo
mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định TTTT. Lãi suất cho vay cũng đã giảm xuống
thấp, phổ biến dưới 13%/năm đến cuối 2013. (Nguồn: baodientu.chinhphu.vn)
Trong quí I/2014, NHNN tiếp tục thực hiện những giải pháp quyết liệt để giảm
mặt bằng lãi suất. Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 05/3/2014 phiên họp thường kỳ
Chính phủ tháng 2/2014, NHNN ban hành các văn bản điều chỉnh giảm lãi suất có
hiệu lực kể từ ngày 18/3.
Theo đó, từ ngày 18/3, giảm lãi suất tái cấp vốn từ 7%/năm xuống 6,5%/năm; lãi
suất tái chiết khấu từ 5%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh
toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ
của NHNN đối với các ngân hàng từ 8%/năm xuống 7,5%/năm.(Nguồn: Tạp chí tài chính)
4
2
9
Đề tài: Chính sách lãi suất của NHNNVN từ 2007 – nay GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
SVTH: Ngô Thị Phương Dung – Lớp: 37K07.2 Trang: 29
Đối với Dự trữ bắt buộc,
Năm 2011, kể từ tháng 9, tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ là 8%, thay vì 7% như trước
đó. Riêng Ngân hàng Nông nghiêp và Phát triên nông thôn Viêt Nam, Quỹ tín
dụng nhân dân trung ương, ngân hàng hợp tác, tỷ lệ DTBB là 7% trên tổng số dư tiền.
Ngày 2/2/2012, giảm tỷ lệ DTBB bằng VND với 5 TCTD. NHNN có thông báo
bằng văn bản áp dụng tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng VND bằng 1/5 so với tỷ lệ
DTBB thông thường ứng với kỳ hạn tiền gửi đối với 5 TCTD. Đó là ngân hàng TMCP
Mê Công, NH Phát triển nhà đồng bằng Sông Cửu Long, Quỹ Tín dụng nhân dân
Trung Ương, NHNo&PTNT Việt Nam, NH TMCP Bưu Điện Liên Việt.
Năm 2013 và đầu năm 2014, NHNN đã tiến hành hỗ trợ nguồn vốn và giảm tỉ lệ
DTBB đối với một số TCTD để khuyến khích các TCTD tiếp tục cho vay phát triển
kinh tế nông nghiệp nông thôn và góp phần làm giảm lãi suất cho vay trên thị trường.
Đối với Nghiệp vụ thị trường mở
Nguồn: Sacombank
Trong tháng 1/2011, lãi suất mua có kỳ hạn 7 ngày đã tăng lên 11%/năm, từ
ngày 22/2, tăng lên 12%, 1/4 là 13%, ngày 4/5, đã được đẩy lên mức 14%/năm, không
dừng ở đó, ngày 17/5, NHNN đã nâng lãi suất trên thị trường mở lên 15%. Từ ngày
4/7/2011, lãi suất trên nghiệp vụ thị trường mở đã giảm nhẹ xuống 14%/năm và giữ
nguyên cho đến cuối năm. Điều này cho thấy năm 2011 nền kinh tế có lạm phát cao,
NHNN thực hiện CSTT thắt chặt dẫn đến tình hình thanh khoản của các NHTM khó
khăn, đặc biệt là các NHTM cổ phần quy mô nhỏ.
4
3
0
Đề tài: Chính sách lãi suất của NHNNVN từ 2007 – nay GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
SVTH: Ngô Thị Phương Dung – Lớp: 37K07.2 Trang: 30
Năm 2012 là một trong những năm hoạt động trên thị trường mở đạt hiệu quả
nhất trở thành công cụ chủ chốt để NHNN kiểm soát cung tiền và lạm phát. Nhờ linh
hoạt hút tiền về qua phát hành tín phiếu, lẫn hút ròng qua thị trường mở, NHNN đã
trung hòa được khối lượng tiền VND trên thị trường và giúp cho CSLS được thực hiện
một cách hiệu quả.
Năm 2013, Công cụ nghiệp vụ thị trường mở đã được NHNN sử dụng hết sức
linh hoạt và hiệu quả, điển hình với việc giảm lãi suất nghiệp vụ mua/bán lại một cách
kịp thời, phù hợp với định hướng hỗ trợ phát triển kinh tế. Hai đợt giảm lãi suất vào
tháng 3 và tháng 5 đã hỗ trợ mạnh mẽ cho việc ổn định lãi suất thị trường trong giai
đoạn tháng 5 và tháng 6. Đặc biệt khi tình hình kinh tế thị trường thế giới biến động
vào cuối tháng 6 thì đợt giảm tiếp lãi suất trên thị trường mở vào tháng 7 cũng đã giảm
thiểu biến động của thị trường trong nước và tạo tiền đề cho sự ổn định của các tháng
tiếp theo.
Như vậy, trong giai doạn 2011 đến nay, NHNN đã liên tục điều chỉnh giảm lãi
suất trên TTTT, góp phần kiểm soát lạm phát, tăng trưởng tín dụng theo đúng mục tiêu
của CSTT.
2.3. Đánh giá việc điều hành chính sách lãi suất trong thời gian qua.
2.3.1. Những kết quả đạt được.
Thứ nhất, trong hơn 7 năm qua, CSLS đã ngày càng thể hiện tốt hơn vai trò của
mình, trở thành công cụ quan trọng của NHNN trong việc thực thi CSTT, ổn định môi
trường kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.
NHNN đã từng bước chuyển đổi cơ chế lãi suất thỏa thuận sang cơ chế trần lãi
suất và áp dụng lãi suất thỏa thuận cho vay trung dài hạn đối với doanh nghiệp nhằm
thực hiện lộ trình tự do hóa lãi suất. Trong đó, cơ chế trần lãi suất 150% LSCB thực sự
đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc bình ổn lãi suất trong điều kiện lãi suất biến
động bất lợi, đặc biệt ở thời điểm tháng 6/2008 khi mà nhu cầu vốn tín dụng tăng
nhanh, áp lực tăng lãi suất lớn, trong khi đó lại phải đảm bảo duy trì lãi suất thấp hợp
lý để ổn định vĩ mô và kích thích kinh tế.
Thứ hai, các công cụ thực thi CSLS gián tiếp bao gồm nghiệp vụ thị trường mở,
lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu bước đầu đã được sử dụng tương đối hiệu
quả. Kể từ tháng 5/2008 đến nay (sau khi NHNN áp dụng cơ chế điều hành LSCB), có
4
3
1
Đề tài: Chính sách lãi suất của NHNNVN từ 2007 – nay GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
SVTH: Ngô Thị Phương Dung – Lớp: 37K07.2 Trang: 31
thể thấy nghiệp vụ thị trường mở là công cụ được sử dụng hiệu quả nhất, đóng vai trò
như công cụ chủ đạo trong việc điều tiết tiền tệ của NHNN. Việc điều hành công cụ thị
trường mở đã được thực hiện một cách thận trọng, linh hoạt trên cơ sở theo dõi sát
diễn biến vốn khả dụng, diễn biến kinh tế- tiền tệ, bám sát mục tiêu điều hành CSTT,
góp phần đáng kể vào kết quả thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát, đồng thời thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, NHNNcũng đã tích cực sử dụng công cụ lãi suất
tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu đóng vai trò làm lãi suất trần - sàn trên thị trường
liên ngân hàng. Khung lãi suất trên cùng với lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được
NHNN sử dụng để định hướng lãi suất thị trường vận động phù hợp với mục tiêu của
CSLS.
Thứ ba, điều hành CSLS của NHNN ngày càng nâng cao được chất lượng tín
dụng của nền kinh tế. Đặc biệt, từ năm 2011 đến nay, tín dụng tuy tăng chậm hơn so
với giai đoạn trước đây, nhưng chất lượng tín dụng đã tăng cao, góp phần hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Việc điều hành lãi suất đã định hướng, dẫn dắt thị
trường, đồng thời có sự điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với những diễn biến kinh tế vĩ
mô và tiền tệ; mặt bằng lãi suất cho vay và huy động đã giảm mạnh so với cuối năm
2010. Điều này cho thấy, điều hành CSLS và tín dụng đã gắn với chuyển đổi mô hình
tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế, phù hợp với
chủ trương giảm dần tỉ trọng cung cấp vốn cho đầu tư phát triển từ hệ thống các
TCTD, tập trung vốn tín dụng ngân hàng cho lĩnh vực sản xuất, kinh doanh.
2.3.2. Những hạn chế trong việc điều hành chính sách lãi suất:
Bên cạnh những mặt đạt được trong việc điều hành CSLS, những tác động trái
chiều của chính sách này cũng còn ảnh hưởng không nhỏ tới các chủ thể tham gia thị
trường, thông qua đó tác động tới nền kinh tế. Những tồn tại, hạn chế trong điều hành
CSLS hiện nay như sau:
Thứ nhất, hiệu lực, hiệu quả của các cơ chế điều hành lãi suất chưa cao. Nguyên
nhân là do năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh của các TCTD
không đồng đều, tính bền vững trong phát triển chưa cao. Trên thị trường có sự cạnh
tranh không lành mạnh, biểu hiện là tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi
suất huy động của các NHTM, thậm chí có khi còn vượt trần lãi suất cho phép của
NHNN bằng việc sử dụng kỳ hạn ngắn.
4
3
2
Đề tài: Chính sách lãi suất của NHNNVN từ 2007 – nay GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
SVTH: Ngô Thị Phương Dung – Lớp: 37K07.2 Trang: 32
Thứ hai, CSLS với các chính sách kinh tế vĩ mô khác chưa có sự phối hợp đồng
bộ, mâu thuẫn giữa mục tiêu của các chính sách vẫn thường xảy ra. Chẳng hạn từ
tháng 6/2007 đến tháng 7/2008, NHNN đã thực hiện CSTT thắt chặt để chống lạm
phát, nhưng chính sách tài khóa vẫn duy trì mức bội chi như thường lệ, nỗ lực chống
lạm phát vì thế không đạt được hiệu quả như mong đợi, mặc dù nguy cơ khủng
hoảng bị đẩy lùi. Nói đúng hơn, trong khi CSTT thắt chặt thì chính sách tài khóa lại
nới lỏng, khiến áp lực lạm phát và lãi suất tăng. Bên cạnh đó, NHNN cũng không
nắm được các khoản thu chi lớn của ngân sách nhà nước, nên bị động trong việc
kiểm soát cung tiền trước tác động của các dòng tiền trong khu vực Chính phủ.
Thứ ba, việc điều hành CSLS của NHNN còn mang nặng tính hành chính.
Trong thời gian vừa qua, mặc dù đóng vai trò là một trong những công cụ quan
trọng trong việc bình ổn và định hướng thị trường trong điều kiện kinh tế bất ổn nhưng
công cụ LSCB đi đôi với cơ chế trần lãi suất vẫn là công cụ can thiệp trực tiếp đối với
lãi suất kinh doanh của NHTM. Chính vì vậy mà nó không tránh khỏi những hạn chế
nhất định.
4
3
3
Đề tài: Chính sách lãi suất của NHNNVN từ 2007 – nay GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
SVTH: Ngô Thị Phương Dung – Lớp: 37K07.2 Trang: 33
CHƯƠNG III: Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
LÃI SUẤT CỦA VIỆT NAM
3.1. Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách lãi suất với các chính sách
kinh tế vĩ mô khác:
Hiện nay việc thực hiện CSLS nói riêng, CSTT nói chung còn tồn tại nhiều mâu
thuẫn và thiếu đồng bộ với chính sách tài khóa gây cản trở lớn cho việc thực hiện mục
tiêu chung của các chính sách kinh tế vĩ mô là thúc đẩy tăng trường kinh tế và kiềm
chế lạm phát. Tình trạng CSLS thì thắt chặt trong khi chính sách tài khóa lại nới lỏng
như đã từng xảy ra không những làm tính hiệu quả của công tác điều hành mà thậm
chí còn gây nên những hiệu ứng tiêu cực đối với nền kinh tế. Các giải pháp thực thi
chính sách tài khóa nếu được cân nhắc và phối hợp kịp thời với CSTT nói chung,
CSLS nói riêng thì các mục tiêu chính sách tài khóa đạt được sẽ là bước đệm tạo điều
kiện hỗ trợ tích cực cho việc thực thi CSLS.
3.2. Đảm bảo điều hành chính sách lãi suất linh hoạt và kịp thời:
Trong quá trình điều hành CSLS, lãi suất phải được điều hành một cách linh hoạt,
kịp thời, giảm thiểu các tác động tiêu cực đến tăng trưởng và tăng cường các tác
động nhằm kiềm chế lạm phát. Muốn vậy, NHNN cần có những quyết định nhanh
nhạy, sử dụng các công cụ một cách linh hoạt, hạn chế các biện pháp trực tiếp gây
sốc nền kinh tế.
Bên cạnh đó, cần phải xây dựng NHTW mạnh có tính độc lập cao so với chính
phủ. Thực tế cho thấy NHNN Việt Nam có mức độ độc lập thấp và chịu sự can thiệp
hành chính toàn diện của Chính phủ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm
hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu kiểm
soát lạm phát và ổn định TTTT thời gian qua. Vì vậy, nâng cao tính độc lập của
NHNN là một trong những điều kiện tiên quyết để tạo tiền đề căn bản trong hiệu quả
hoạt động và là nền tảng quan trọng bảo đảm trước hết NHNN thực sự là NHTW và
sau đó là tiến tới một NHTW hiện đại. Để làm được điều này, cần đổi mới cơ chế tổ
chức và cách thức hoạt động NHNN.
3.3. Tiến tới tự do hóa lãi suất ở Việt Nam:
Trong nền kinh tế hiện đại, tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế là vấn đề
mang tính chiến lược và là xu thế phát triển tất yếu, trong đó tự do hóa lãi suất đóng
4
3
4
Đề tài: Chính sách lãi suất của NHNNVN từ 2007 – nay GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
SVTH: Ngô Thị Phương Dung – Lớp: 37K07.2 Trang: 34
vai trò là hạt nhân và làm cho các nguồn tài chính lưu thông thông suốt, từ đó thúc đẩy
kính tế-tài chính VN hội nhập kinh tế thế giới. Tuy nhiên quá trình tự do hóa lãi suất
phải được xem xét kĩ lưỡng và tiến hành một cách thận trọng trong khi vẫn tiếp tục kết
hợp với những giải pháp nhằm hoàn thiện dần môi trường tự do hóa lãi suất.
Thứ nhất, việc tự do hóa lãi suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ đã được tiến hành
tuy nhiên vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả cao. Hiện nay, các quy định khống chế lãi
suất tiền gửi tối đa bằng USD của khách hàng tại các TCTD là một rào cản đối với quá
trình tự do hóa lãi suất đã được bãi bỏ, tuy nhiên môi trường pháp lý cho việc tự do
hóa lãi suất ngoại tệ vẫn còn chồng chéo, chưa được nới lỏng, chưa thật sự thu hút
người gửi tiền và người đi vay.
Thứ hai, trên thị trường nội tệ lãi suất cho vay bằng đồng tiền VN không còn bị
khống chế song vẫn chưa được tự do hóa. Do vậy cần hình thành và hoàn thiện cơ chế
điều hành lãi suất trên TTTT song song với việc thực hiện nhiều giải pháp nhằm phát
triển thị trường tiền tệ, đồng thời tiếp tục nâng cao hiệu quả của các công cụ lãi suất
thông qua lựa chọn lãi suất định hướng phù hợp với mức độ phát triển của TTTT.
4
3
5
Đề tài: Chính sách lãi suất của NHNNVN từ 2007 – nay GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
SVTH: Ngô Thị Phương Dung – Lớp: 37K07.2 Trang: 35
KẾT LUẬN
Diễn biến của CSLS qua từng thời kỳ đã cho thấy những bước phát triển nhất
định. Cơ chế điều hành đã dần chuyển từ kiểm soát trực tiếp sang kiểm soát gián tiếp,
phù hợp hơn với cơ chế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước
tiến tới tự do hoá lãi suất. Tuy nhiên, điều hành CSLS còn bộc lộ nhiều tồn tại như
chậm thay đổi, kém linh hoạt, không sát sao với diễn biến vĩ mô của nền kinh tế; vẫn
còn nhiều can thiệp trực tiếp mang tính hành chính, các công cụ gián tiếp còn tỏ ra
kém hiệu quả. Do đó, bên cạnh những mặt tích cực đạt được thì có thể đánh giá hiệu
quả tác động của nó lên các biến số vĩ mô của nền kinh tế trong thời gian qua còn khá
hạn chế.
Trong thời gian trước mắt, NHNN cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp
điều hành CSLS nhằm hài hoà mục tiêu kiểm soát lạm phát và tăng trưởng kinh tế, đưa
nền kinh tế ra khỏi suy thoái, phục hồi và ổn định. Song song với đó, một điều rất quan
trọng là phải hoàn thiện cơ chế hình thành LSCB để xây dựng được một LSCB định
hướng thị trường. Do đó, về dài hạn, chúng ta phải xây dựng một hệ thống tài chính
minh bạch, vững mạnh cũng như một hệ thống thông tin chính xác, nhanh nhạy. CSLS
cũng phải được xây dựng trên nguyên tắc, ổn định trong dài hạn, linh hoạt kịp thời
trong ngắn hạn. Việc điều hành CSLS cũng phải hướng tới điều hành theo mục tiêu
lạm phát, tăng cường tính hiệu quả của các công cụ gián tiếp cũng như tăng tính độc
lập của NHNN; phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng với các chính sách vĩ mô khác đặc biệt
là chính sách tài khóa. Như vậy, CSLS sẽ đảm bảo được sự linh hoạt mà ổn định, nền
tảng cho một môi trường đầu tư và kinh doanh tốt cũng như cho sự tăng trưởng của
nền kinh tế.
4
3
6
Đề tài: Chính sách lãi suất của NHNNVN từ 2007 – nay GVHD: PGS.TS. Võ Thị Thúy Anh
SVTH: Ngô Thị Phương Dung – Lớp: 37K07.2 Trang: 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) PGS. TS Nguyễn Văn Tiến, Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ,
NXB Thống kê.
(2) Tổng cục thống kê -
- Thông cáo báo chí về tình hình Kinh tế - Xã hội các năm
(3) VnEconomy -
- 10 điểm nổi bật trên thị trường ngân hàng năm 2008 (29/12/2008)
(4) CafeF -
(5)
(6) Cổng thông tin điện tử chính phủ -
(7) Hiệp hội các Ngân hàng VN -
- Nhìn lại các công cụ của chính sách tiền tệ thời gian qua và một vài đề
xuất(28/11/2011)
(8) Báo điện tử - Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam –
- Chính sách tiền tệ 2011-2013: Những nỗ lực không thể phủ nhận (25/9/2013)
- Nhìn lại 1 năm điều hành tín dụng, lãi suất (20/12/2013)
(9) Tạp chí tài chính - Lãi suất đồng loạt giảm kể từ ngày mai(17/3/2014) -
mai/46459.tctc
(10) V. Bình,“Điều hành ổn định lãi suất thị trường, kiểm soát chặt chẽ lạm
phát, tích cực hỗ trợ tăng trưởng kinh tế năm 2010”,
(11) TS. Hoàng Công Gia Khánh, Cơ chế điều hành lãi suất tại một số nước và
Việt Nam, Tạp chí tài chính, Số 2/2010
(12) TS. Nguyễn Ngọc Bảo, Một số vấn đề về vai trò của chính sách tiền tệ
trong ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế, Tạp chí ngân hàng số 4/2010.
(13) Các đề tài, luận án, bài báo,...khác có liên quan .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_an_79.pdf