Đề tài Chi ngân sách nhà nước và vai trò của chi ngân sách nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước

Trải qua một thời gian dài thực hiện chính sách đổi mới và chủ trương mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước. Nền kinh tế nước ta bước đầu đã đem lại những thành tựu nhất định và đã làm cho bộ mặt kinh tế nước ta có những chuyển biến đáng kể. Đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao, tuy nhiên về các chỉ tiêu Việt Nam hiện vẫn đang là một trong các quốc gia kém phát triển nhất khu vực. Hiện vẫn đang là một nước nghèo và có nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để có thể vươn lên đạt trình độ ngang hàng với các quốc gia khác nước ta cần phải đạt được một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững trong thời gian tương đối dài. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam hiện nay là phải tìm ra các giải pháp thích hợp để đạt tới tốc độ tăng trưởng cao, bền vững. Động lực chính của sự tăng trưởng kinh tế đó là sự khởi động của cơ chế thị trường và mở cửa cho các hoạt động đối ngoại. Những nhân tố này trong những năm tới vẫn tiếp tục có những tác động tốt. Nhưng nếu chỉ với những tác động đó thì khó có thể đạt tới mức tăng trưởng mạnh mẽ như đã có. Để có một tốc độ tăng trưởng cao hơn nền kinh tế Việt Nam cần có một lực đẩy mạnh mẽ hơn nữa, lực đẩy đó chỉ có thể có được nhờ đẩy mạnh công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, tạo ra một sự chuyển đổi căn bản trong cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.

Rõ ràng đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá không phải là việc của riêng một bộ phận, một giai cấp mà là sự nghiệp trọng đại của nhân dân ta, đất nước ta. Sự nghiệp của toàn dân, do dân thực hiện nhằm mục đích làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Vì vậy công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một việc làm cần thiết và cấp bách.

Cũng chính vì sự cần thiết và cấp bách của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã và đang đặt ra những yêu cầu về đổi mới cơ chế, chính sách tài chính nói chung và phân phối sử dụng quỹ ngân sách - chi ngân sách nói riêng. Để tạo lập ra sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô; tạo lập phân phối có hiệu quả các nguồn lực tài chính toàn xã hội. Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đòi hỏi một nguồn vốn lớn lao, hơn nữa kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Chúng ta huy động nguồn tài chính trên phạm vi rộng lớn từ trong và ngoài nước, tạo lập quỹ Ngân sách Nhà nước (NSNN) để chi cho bộ máy Nhà nước và các chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước và đặc biệt là để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất nước và vì thế chi NSNN lại càng trở nên quan trọng, nó quyết định chi phối đến sự thành công hay thất bại của công cuộc CNH - HĐH, việc chi sử dụng ngân sách và quản lý NSNN như thế nào để cho nó có hiệu quả là một vấn đề không đơn giản. Trong công cuộc CNH - HĐH lại càng phức tạp đòi hỏi các nhà quản lý, các nhà chuyên môn phải có những chính sách, những giải pháp hết sức khoa học, chính xác, chi ngân sách như thế nào để sự nghiệp CNH - HĐH không bị chậm trễ về thời gian ? Chi làm sao để vừa đảm bảo cân đối NSNN mà không bị thất thoát, lãng phí ? và những giải pháp, chính sách quản lý NSNN làm sao để đạt được hiệu quả cao nhất. Rất nhiều câu hỏi đặt ra xung quanh việc chi NSNN đối với sự nghiệp CNH - HĐH mà chúng ta cần phải tìm hiểu, cần phải tìm lời giải đáp. Đề tài: “Chi NSNN và vai trò của chi NSNN đối với sự nghiệp CNH - HĐH đất nước” trình bày sau đây sẽ phần nào làm sáng tỏ những vấn đề nêu ra ở trên. Do vốn kiến thức còn hạn chế người viết không có tham vọng trình bày một cách chi tiết, đầy đủ về vấn đề nghiên cứu mà chỉ được nêu những vấn đề cơ bản nhất về CNH - HĐH và việc phân phối, sử dụng quỹ ngân sách như thế nào đối với sự nghiệp CNH - HĐH đất nước và một số nhận định của bản thân khi thực hiện đề tài này.

Bài viết gồm 3 chương:

Chương 1 - Những lý luận cơ bản về CNH - HĐH.

Chương 2 - Phân tích về chi ngân sách Nhà nước và vai trò của chi ngân sách Nhà nước đối với sự nghiệp CNH - HĐH.

Chương 3 - Một số giải pháp nâng cao vai trò của chi ngân sách Nhà nước trong sự nghiệp CNH - HĐH.

 

doc36 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1117 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Chi ngân sách nhà nước và vai trò của chi ngân sách nhà nước đối với sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trải qua một thời gian dài thực hiện chính sách đổi mới và chủ trương mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước. Nền kinh tế nước ta bước đầu đã đem lại những thành tựu nhất định và đã làm cho bộ mặt kinh tế nước ta có những chuyển biến đáng kể. Đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao, tuy nhiên về các chỉ tiêu Việt Nam hiện vẫn đang là một trong các quốc gia kém phát triển nhất khu vực. Hiện vẫn đang là một nước nghèo và có nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để có thể vươn lên đạt trình độ ngang hàng với các quốc gia khác nước ta cần phải đạt được một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững trong thời gian tương đối dài. Vấn đề đặt ra cho Việt Nam hiện nay là phải tìm ra các giải pháp thích hợp để đạt tới tốc độ tăng trưởng cao, bền vững. Động lực chính của sự tăng trưởng kinh tế đó là sự khởi động của cơ chế thị trường và mở cửa cho các hoạt động đối ngoại. Những nhân tố này trong những năm tới vẫn tiếp tục có những tác động tốt. Nhưng nếu chỉ với những tác động đó thì khó có thể đạt tới mức tăng trưởng mạnh mẽ như đã có. Để có một tốc độ tăng trưởng cao hơn nền kinh tế Việt Nam cần có một lực đẩy mạnh mẽ hơn nữa, lực đẩy đó chỉ có thể có được nhờ đẩy mạnh công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, tạo ra một sự chuyển đổi căn bản trong cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Rõ ràng đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá không phải là việc của riêng một bộ phận, một giai cấp mà là sự nghiệp trọng đại của nhân dân ta, đất nước ta. Sự nghiệp của toàn dân, do dân thực hiện nhằm mục đích làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Vì vậy công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một việc làm cần thiết và cấp bách. Cũng chính vì sự cần thiết và cấp bách của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã và đang đặt ra những yêu cầu về đổi mới cơ chế, chính sách tài chính nói chung và phân phối sử dụng quỹ ngân sách - chi ngân sách nói riêng. Để tạo lập ra sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô; tạo lập phân phối có hiệu quả các nguồn lực tài chính toàn xã hội. Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đòi hỏi một nguồn vốn lớn lao, hơn nữa kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Chúng ta huy động nguồn tài chính trên phạm vi rộng lớn từ trong và ngoài nước, tạo lập quỹ Ngân sách Nhà nước (NSNN) để chi cho bộ máy Nhà nước và các chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước và đặc biệt là để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất nước và vì thế chi NSNN lại càng trở nên quan trọng, nó quyết định chi phối đến sự thành công hay thất bại của công cuộc CNH - HĐH, việc chi sử dụng ngân sách và quản lý NSNN như thế nào để cho nó có hiệu quả là một vấn đề không đơn giản. Trong công cuộc CNH - HĐH lại càng phức tạp đòi hỏi các nhà quản lý, các nhà chuyên môn phải có những chính sách, những giải pháp hết sức khoa học, chính xác, chi ngân sách như thế nào để sự nghiệp CNH - HĐH không bị chậm trễ về thời gian ? Chi làm sao để vừa đảm bảo cân đối NSNN mà không bị thất thoát, lãng phí ? và những giải pháp, chính sách quản lý NSNN làm sao để đạt được hiệu quả cao nhất. Rất nhiều câu hỏi đặt ra xung quanh việc chi NSNN đối với sự nghiệp CNH - HĐH mà chúng ta cần phải tìm hiểu, cần phải tìm lời giải đáp. Đề tài: “Chi NSNN và vai trò của chi NSNN đối với sự nghiệp CNH - HĐH đất nước” trình bày sau đây sẽ phần nào làm sáng tỏ những vấn đề nêu ra ở trên. Do vốn kiến thức còn hạn chế người viết không có tham vọng trình bày một cách chi tiết, đầy đủ về vấn đề nghiên cứu mà chỉ được nêu những vấn đề cơ bản nhất về CNH - HĐH và việc phân phối, sử dụng quỹ ngân sách như thế nào đối với sự nghiệp CNH - HĐH đất nước và một số nhận định của bản thân khi thực hiện đề tài này. Bài viết gồm 3 chương: Chương 1 - Những lý luận cơ bản về CNH - HĐH. Chương 2 - Phân tích về chi ngân sách Nhà nước và vai trò của chi ngân sách Nhà nước đối với sự nghiệp CNH - HĐH. Chương 3 - Một số giải pháp nâng cao vai trò của chi ngân sách Nhà nước trong sự nghiệp CNH - HĐH. Chương 1 Những lý luận cơ bản về công nghiệp hoá - hiện đại hoá I-/ Tính tất yếu khách quan của CNH - HĐH. Công nghiệp hoá ở Việt Nam được Đảng ta chính thức nêu trong văn kiện đại hội lần thứ III (9/1960) và được coi là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng do nhiều nguyên nhân trong đó có việc nhận thức và quan niệm chưa đúng về nội dung cũng như bước đi của công nghiệp hoá trong điều kiện mới của quốc gia và quốc tế nên đã triển khai chiến lược này theo mô hình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ kiểu khép kín và ưu tiên phát triển công nghiệp nặng ngay từ đầu một cách tràn lan, hiệu quả rất thấp. Nước ta lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua chế độ tư bản và với xuất phát điểm rất thấp là một nền kinh tế nông nghiệp, công nghiệp thủ công lạc hậu cho nên việc thực hiện CNH - HĐH trở thành một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn và phức tạp. Thực tiễn 20 năm xây dựng nền công nghiệp ở miền Bắc và 15 năm phát triển công nghiệp trong cả nước, bên cạnh những thành công còn có không ít thất bại, đưa đến cho chúng ta nhiều bài học sâu sắc về công nghiệp hoá, ba vấn đề đặt ra cho nước ta là: Thứ nhất: Tại sao cần phải công nghiệp hoá ? Thứ hai: Có thể thực hiện thành công công nghiệp hoá được không ? Thứ ba: Con đường, mục tiêu nội dung và bước đi CNH - HĐH ở Việt Nam cần phải lựa chọn là gì ? Sự cần thiết khách quan phải tiến hành CNH - HĐH ở nước ta bắt nguồn từ đòi hỏi khắc phục tình trạng đói nghèo lạc hậu, phát triển kinh tế xã hội để giữ vững nền độc lập dân tộc. Từ đầu thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta đã được thức tỉnh và đã bền bỉ tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng đất nước khỏi ách nô lệ và ngoại xâm. Cho đến mùa xuân năm 1975, dân tộc Việt Nam đã bước vào một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của hoà bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Thắng lợi đó đã khẳng định sức mạnh cũng như xác định vị trí của Việt Nam trên bản đồ quốc tế nhưng cũng đặt ra cho toàn thể dân tộc một thách thức mới “làm sao để khắc phục tình trạng đói nghèo, lạc hậu và phát triển kinh tế để làm cơ sở cho nhiệm vụ củng cố và bảo vệ hoà bình, độc lập dân tộc. Như vậy, để thoát ra khỏi sự trì trệ và phát triển nền kinh tế thì CNH - HĐH là một giải pháp cơ bản. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải có quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chế độ mới. Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là toàn bộ những yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất đạt trình độ khoa học - kỹ thuật hiện đại. Chủ nghĩa tư bản xuất hiện từ sự ra đời của máy hơi nước, từ cách mạng công nghiệp thì chủ nghĩa xã hội cũng phải ra đời từ cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Trong khi đó, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tất nhiên không thể thiếu được giai đoạn cơ khí hoá, công nghiệp hoá để tiến lên hiện đại hoá. Dù cho tiến trình phát triển khoa học kỹ thuật, tiến trình phát triển lực lượng sản xuất xã hội có trình độ cao diễn ra theo cách nào - rút ngắn hay tăng tốc độ phát triển thì nó cũng tất yếu phải diễn ra. Sự phát triển như vũ bão của khoa học đã đem đến cho cuộc sống con người nhiều thay đổi theo chiều hướng ngày càng tiện nghi hơn nhưng cách mạng khoa học kỹ thuật không phải không có mặt trái. Trong đó, một điều có thể thấy rõ là khoảng cách giữa các nước giàu và các nước nghèo ngày càng chênh lệch. Các nước giàu có nhiều lợi thế để khai thác thành quả của tiến bộ KHKT ngày càng giàu hơn. Các nước nghèo đã thấp kém về trình độ, thiếu vốn lại chậm thích nghi thì lại ngày càng nghèo đi. Điều này đặt ra thách thức gay gắt cho các nước nghèo: hoặc là vươn lên trong thế giới có nền công nghệ hiện đại, hoặc là mãi dẫm chân tại chỗ, như vậy có nghĩa là chấp nhận tụt hậu mãi mãi trong cảnh nghèo đói và phụ thuộc. Nhân dân ta đã từng lựa chọn con đường độc lập để giải phóng mình khỏi kiếp nô lệ, thì vì lẽ gì lại không lựa chọn con đường công nghiệp hoá để chấn hưng đất nước, giải phóng mình khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu. Xét về mặt kinh tế, nguy cơ tụt hậu xa hơn của Việt Nam so với các nước đang phát triển nằm ngay trong sự lạc hậu về cơ cấu kinh tế và thể chế quản lý. Nhìn một cách tổng quát, cơ cấu kinh tế nước ta ở giai đoạn “tiền công nghiệp”, không có khả năng tăng trưởng bền vững. Với cơ cấu này không thể nói đến “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”. Ngày nay các nước phát triển không những có cơ cấu công - nông nghiệp hiện đại mà thậm chí còn có khu vực sản xuất dịch vụ rất phát triển, không những phát triển kinh tế trong nước mà còn tích cực tham gia vào xu hướng quốc tế hoá, tham gia vào quá trình phân công và hợp tác quốc tế. Như vậy, chúng ta cần phải sớm có chiến lược cơ cấu kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện dân tộc và quốc tế cuối thế kỷ này. Đây phải là bản thiết kế tổng thể nền kinh tế Việt Nam, là sự hướng dẫn các nguồn đầu tư một cách chủ động, nhằm thẳng vào mục tiêu tăng trưởng và phát triển. Đây là giải pháp đầu tiên để tránh nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn, vươn tới trình độ hiện đại. Chúng ta phải nhanh chóng thực hiện tiến trình cải tạo sâu sắc cơ cấu kinh tế, chuyển từ nền nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế được tổ chức theo kiểu công nghiệp, dựa trên kỹ thuật máy móc và công nghệ hiện đại. Quá trình cải tổ cơ cấu đó chỉ có thể thực hiện chủ yếu bằng CNH - HĐH trên cơ sở tác động của công nghiệp để phân công lại lao động bố trí lại ngành nghề phân bố lại dân cư, làm cho công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ phát triển một cách cân đối tạo khả năng tham gia thị trường quốc tế. CNH - HĐH là quá trình tạo lập và đổi mới toàn bộ cơ sở vật chất - kỹ thuật, công nghệ và cơ cấu của nền kinh tế quốc dân, dựa trên sự ứng dụng rộng rãi những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, nhằm tạo ra sự phát triển về chất của lực lượng sản xuất và năng suất lao động xã hội, biến nước nông nghiệp lạc hậu thành nước có công nghiệp, nông nghiệp và kết cấu hạ tầng hiện đại, có khoa học giáo dục và văn hoá tiên tiến. CNH - HĐH tạo ra lực lượng sản xuất mới về chất, và trên cơ sở đó dẫn đến hệ quả hình thành nhiều mối quan hệ kinh tế, xã hội, chính trị trong toàn xã hội. Thật vậy, trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành, đời sống nhân dân sẽ dần dần được cải thiện; liên minh công nông trí thức và chính quyền Nhà nước sẽ được củng cố và kiện toàn, cách mạng tư tưởng và văn hoá sẽ có những điều kiện để thực hiện; giai cấp công nhân được trưởng thành về số lượng và chất lượng; sự cách biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc giảm dần, nông thôn và thành thị xích lại gần nhau; sự bình đẳng giữa các dân tộc trong nước từng bước được thực hiện, việc củng cố và tăng cường khả năng hợp tác và phân công lao động quốc tế được mở rộng và nâng cao... Như vậy, CNH - HĐH thực sự là một cuộc cải biến công nghiệp sâu sắc và toàn diện mà trước hết và chủ yếu là từ phát triển lực lượng sản xuất, dẫn đến một loạt các hệ quả tất yếu tác động tích cực đến các mặt đời sống xã hội, hình thành nên những yếu tố của hình thái xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. CNH - HĐH đảm bảo giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Vì thế, con đường này là sự lựa chọn tất yếu khách quan của chúng ta để quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa và là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong sự nghiệp xây dựng CNXH hiện thực ở nước ta. Chính vì sự cần thiết khách quan và ý nghĩa to lớn của quá trình CNH - HĐH mà tất các nước quá độ lên CNXH xuất phát từ nền kinh tế kém phát triển đều coi CNH - HĐH là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong cách mạng XHCN. Đương nhiên đây cũng là 1 nhiệm vụ hết sức nặng nề. Trình độ xuất phát điểm của 1 nước càng thấp thì quá trình thực hiện nhiệm vụ đó còn khó khăn, lâu dài hơn. II-/ Nội dung của công nghiệp hoá. 1-/ Nhữn thuận lợi và khó khăn. 1.1. Những thuận lợi. Bước vào thời kỳ đẩy nhanh CNH - HĐH đất nước ta có nhiều thuận lợi lớn: a, Xét về mặt quốc tế. Trên thế giới, cách mạng KHKT - công nghệ đang phát triển nhanh với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới diễn ra nhanh hơn; quốc tế hoá đời sống kinh tế và đời sống xã hội trở thành một xu thế khách quan. Đây là điều kiện thuận lợi cho phép chúng ta có thể khai thác, tận dụng được những yếu tố, nguồn lực từ bên ngoài (vốn, công nghệ, thị trường...) và những nguồn lực trong nước một cách có hiệu quả - kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để thực hiện mô hình CNH - HĐH rút ngắn kết hợp các bước đi tuần tự với nhảy vọt, tăng tốc, đối đầu... Là một nước tiến hành công nghiệp hoá đi sau chúng ta có lợi thế của người đi sau. Chúng ta không chỉ tiếp nhận được những công nghệ hiện đại mà chúng ta còn rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý giá của những nước đi trước như kinh nghiệm về tiếp nhận chuyển giao công nghệ, thu hút vốn đầu tư, bảo vệ môi trường v.v... Những kinh nghiệm thành công và những kinh nghiệm không thành công đều cần thiết và bổ ích đối với chúng ta. Chúng ta nằm ở trung tâm Đông Nam á - một khu vực đang phát triển rất năng động với tốc độ cao. Đây là yếu tố giúp chúng ta có điều kiện để khai thác tốt ưu thế về vị trí do chịu ảnh hưởng của quy luật lây lan để thúc đẩy quá trình CNH - HĐH. Điều thay đổi quan trọng nhất kể từ sau chiến tranh lạnh là xu hướng đối thoại, hợp tác vì sự phát triển đã gia tăng và ngày càng chi phối các quan hệ quốc tế chính xu hướng này đã tạo ra 1 cơ hội mới để các nước đi sau có thể tận dụng ở mức cao hơn các ưu thế của thị trường thế giới cho quá trình công nghiệp hoá rút ngắn của nước mình. b, Xét về mặt trong nước. Đất nước sau hơn 10 năm thực hiện đổi mới đã thoát ra khỏi những cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài. Nhiều tiền đề cần thiết cho CNH - HĐH đã được tạo ra. Chúng ta đã và đang có những thế và lực mới, cả bên trong lẫn bên ngoài, để bước vào một giai đoạn phát triển mới. Tài nguyên thiên nhiên nước ta đa dạng và phong phú. Tuy trữ lượng của các loại tài nguyên không lớn và trữ lượng trên bình quân đầu người không cao nhưng sự phong phú của các loại tài nguyên giúp chúng ta có thể phát triển một nền kinh tế đa dạng, tạo điều kiện thuận lợi cho giai đoạn đầu của CNH - HĐH. Nước ta có 3200 km hồ biển, các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia rộng gấp 3 lần diện tích đất liền, đây là một tiềm năng hết sức to lớn. Nằm ở cửa ngõ của con đường giao lưu quốc tế, nước ta có thể phát triển các loại hình vận tải quá cảnh, viễn dương, dịch vụ hàng hải viễn thông quốc tế... Thực tế cho thấy các nước công nghiệp mới (NICs) đều là những quốc gia - lãnh thổ hải đảo, bán đảo có các ngành kinh tế biển là những ngành đóng vai trò mũi nhọn trong quá trình phát triển kinh tế. Về tài nguyên con người, nguồn lực quan trọng nhất là “điểm tự” cho quá trình phát triển cả trước mắt lẫn lâu dài. Quan điểm phát triển nguồn nhân lực đã được nhiều quốc gia quan tâm và vấn đề này đang nổi lên ở khu vực Đông á, trong đó có Việt Nam xuất phát là những nước nghèo, chỉ có thể rút ngắn thời kỳ công nghiệp hoá và đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững trong trường hợp đầu tư phát triển mạnh nguồn nhân lực. ở Việt Nam, nền giáo dục bao cấp trước đây đã tạo điều kiện nâng cao mặt bằng dân trí, mọi người đều được đi học, tạo ra đội ngũ gồm 4 triệu LĐ/CHKT có trình độ chuyên môn nghề nghiệp vững vàng, có khả năng tiếp thu kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp kể cả ngành nghề mới. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ KHKT được đào tạo chính quy tương đối lớn. (thực tại nước ta có khoảng 9000 tiến sĩ và phó tiến sĩ; trên 800.000 nguồn có trình độ đại học; cao đẳng và 2,5 triệu công nhân kỹ thuật). Lực lượng này có khả năng làm chủ và tiếp thu, thích nghi với các công nghệ nhập từ nước ngoài, kể cả công nghệ cao. Nước ta cũng có 1 lực lượng tương đối lớn là người Việt Nam sống ở nước ngoài (chủ yếu là Châu Âu và Oxtraylia) trong đó trên 300.000 người có trình độ cao về chuyên môn. Đây là một nguồn quan trọng góp phần phát triển đất nước, là cầu nối Việt Nam với thế giới về chuyển giao tri thức công nghệ, các quan điểm quốc tế có một tiền đề thuận lợi cho quá trình CNH - HĐH rất quan trọng nữa không thể không kể đến là: Chúng ta đã đạt được trạng thái ổn định về xã hội và chính trị. Không có sự ổn định thì sẽ không có sự phát triển, không ai muốn dùng tiền của mình để đầu tư vào một môi trường mà xã hội hỗn loạn, chính trị rối ren để chấp nhận rủi ro. 1.2. Những khó khăn Phải thừa nhận một thực tế rằng bên cạnh nhiều thuận lợi, quá trình CNH - HĐH của chúng ta sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn. Bối cảnh quốc tế và khu vực vừa tạo ra thời cơ thuận lợi, vừa đặt ra những thử thách, nguy cơ. Đặc biệt “nguy cơ tụt hậu” xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thử thánh to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt( Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB chính trị quốc gia - Hà Nội 1996. ). Nước ta lại có một vị trí quan trọng ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương và biến động nên bị nhiều kẻ nhòm ngó, đây lại là một khu vực đang có những diễn biến phức tạp, mà đang “tiền ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định”. Dấu ấn của cơ chế quản lý cũ, cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp chưa được xoá bỏ hết; cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước còn đang trong quá trình hình thành. Quản lý KTXH còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính rườm rà; bộ máy quản lý cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả... Việc thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ vì thế mà cũng bị hạn chế rất nhiều. Đặc biệt, tệ nạn quan liêu, tham nhũng và những dấu hiệu suy thoái về phẩm chất, đạo đức của 1 bộ phận cán bộ, Đảng viên... đã làm cho các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước là thi hành sai lệch dẫn tới chệch hướng, đó cũng là mảnh đất thuận lợi cho “diễn biến hoà bình”. Nói đến CNH - HĐH thì chìa khoá hay điều kiện hàng đầu quyết định đến tính khả thi cũng như sự thành công của chiến lược là “vốn”. Từ một diểm xuất phát quá thấp, bước vào CNH - HĐH, khả năng huy động vốn phục vụ cho quá trình này là rất hạn chế. So sánh với các nước công nghiệp mời Đông á và một số nước Đông Nam á, tỷ lệ tích luỹ và đầu tư của Việt Nam đều thấp hơn nhiều. Điều đó cho thấy việc huy động vốn đầu tư cho phát triển kinh tế của ta tuy đã có những kết quả ban đầu nhưng vẫn còn là 1 lĩnh vực nóng bỏng và là một thách thức lâu dài đối với quá trình CNH - HĐH. Hiện nay trong tổng số vốn dùng để đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước thì vốn trong nước chỉ có 25% còn 75% là vay của nước ngoài. Quản lý và sử dụng kém hiệu quả cùng với tham nhũng sẽ dẫn nguy cơ mất khả năng trả nợ và các thế hệ mai sau sẽ trả nợ cho chính chúng ta ngày hôm nay. Khó khăn phải để đến nữa là sự vấn đề công nghệ, sự lạc hậu về công nghệ của chúng ta là quá lớn không như chúng ta tưởng. Theo báo cáo của Bộ trưởng Bộ Khoa học - công nghệ và Môi trường Đặng Hữu tại “Hội nghị cán bộ khoa học công nghệ toàn quốc” ngày 10/2/1995 tại Hà Nội, trình độ công nghệ nói chung hiện nay ở trong nước rất thấp. Trong các ngành công nghệp hệ thống máy móc thiết bị hiện tại lạc hậu từ 2 đến 4 thế hệ (hoặc từ 4 đến 5 thế hệ tuỳ theo từng lĩnh vực chuyên ngành) so với thế giới và được hình thành chắp vá từ nhiều nguồn. Do công nghệ sử dụng trong quá trình sản xuất quá lạc hậu, dẫn đến chất lượng mẫu mã sản phẩm kém, giá thành sản phẩm cao, khó có thể cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Cũng do sự bất cập về công nghệ nên năng suất lao động rất thấp, tỷ lệ sản phẩm không cao (Năng suất lao động công nghiệp chỉ đạt 30% mức trung bình thế giới). Trình độ công nghệ thấp cũng dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường. Như vậy kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa trên một nền nông nghiệp lạc hậu với kỹ thuật thô sơ, đã không tạo được một nền tảng công nghệ cần thiết. Các cuộc chiến tranh kéo dài cũng không phải là môi trường tốt cho phát triển công nghệ, Việt Nam trước vào công cuộc phục hồi và chuẩn bị cho công nghiệp hoá với xuất phát điểm rất thấp về mặt công nghệ. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH, từ một cơ cấu kinh tế mất cân đối và kết cấu hạ tầng kém phát triển cũng là một khó khăn, cản trở đối với chúng ta, kinh nghiệm của các nước NICs và ASEAN đều cho thấy ở đầu hệ thống năng lượng, giao thông vận tải vf liên lạc được xây dựng nhiều và hiện đại thì ở đó kinh tế, dịch vụ phát triển nhanh hiệu quả và là điểm nút mẻ ra với thị trường thế giới, gắn với các trung tâm phát triển kinh tế hướng ngoại, bước vào công nghiệp hoá với 1 cơ sở hạ tầng hầu như chưa có gì, là một điều không mấy dễ dàng đối với chúng ta. Cuối cùng, quá trình CNH - HĐH của chúng ta còn vấp phải những khó khăn do sự yếu kém về trình độ quản lý và nguy cơ chảy máu chất xam. Với bộ máy quản lý công kềnh, thiếu hiệu quả, chính những ảnh hưởng về tư duy của cơ chế cũ. Thiếu nhiều cán bộ quản lý có năng lực, trình độ, thích nghi với cơ chế mới, chúng ta rất dễ vấp phải những sai lầm giây tác động xấu cho CNH - HĐH. Sự sơ hở trong quản lý sẽ dễ dẫn đến thất thoát vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản, chúng ta đã có nhiều bài học kinh nghiệm đau đơn trong tiếp nhận chuyển giao công nghệ nước ngoài. Nếu không nâng cao trình độ và năng lực cũng như lương tâm, trách nhiệm của đội ngũ những người quản lý, nguy cơ đất nước biến thành một bãi thải công nghệ cho các nước giàu là nhận tiền. Ngoài ra, cũng do sự kém cỏi trong năng lực quản lý, chúng ta rất dẽ bị lừa. Bởi vì nhiều công ty nước ngoài khi khai thác hết tiềm năng rồi cũng tạm biệt anh. Lúc đó anh vẫn có 1 nhà máy nhưng đó là những đồ bỏ đi. Lúc đó anh vẫn có 1 nhà máy nhưng đó là những đồ bỏ đi. Như vậy đất nước sẽ có những ngôi nhà trống rỗng chứ không phải là nền kinh tế, không phải là sự thịnh vượng. Đây là một thách thức lớn đối với nước ta. Nhìn chung những khó khăn ban đầu và sẽ phát sinh trong CNH - HĐH ở nước ta là rất lớn, song mặt thuận lợi vẫn là cơ bản. Với đường lối CNH - HĐH đúng đắn, chắc chắn sự nghiệp vĩ đại, nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội này ở nước ta sẽ giành thắng lợi. 2-/ Nội dung CNH - HĐH. 2.1. Nội dung của công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam. Công nghiệp hoá ở Việt Nam được Đảng ta chính thức nêu trong văn kiện đại hội lần thứ III (9/1960) và coi là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Nhưng do nhiều nguyên nhân, trong đó có việc nhận thức và quan niệm chưa đúgn về nội dung cũng như bước đi của công nghiệp hoá trong điều kiện mới của quốc gia và quốc tế nên đã triển khai công nghiệp hoá theo mô hình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ kiểu khép kín và ưu tiên phát triển công nghiệp nặng ngay từ đầu 1 cách tràn lan dẫn đến hiệu quả rất thấp. Đến những năm đầu thập niên 80 chúng ta đã có sự điều chỉnh lớn và đến đại hội lần thứ VI của Đảng đã đề 3 chương trình mục tiêu, dần dần tiếp cận một cách khoa học về công nghiệp hoá phù hợp với thực tiễn nước ta. Song trong thực tế triển khai còn mang nặng tính chất đối phó với những khó khăn và mất cân đối nghiệm trong trước mắt hơn là sự chuẩn bị những điều kiện tiền đề, cơ bản cốt lõi cho sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Đại hội lần thứ VII của Đảng, đặc biệt là Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ đã nhân mạnh phải đẩy tới 1 bước CNH - HĐH và phát triển nền kinh tế mở với một tư duy lý luận khoa học đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đất nước và sự hội nhập quốc tế đang đặt ra. Quán triệt các quan điểm nêu trong văn kiện của Đảng và vận dụng sang tạo những bài học kinh nghiệm của các nước NICs Châu á, Việt Nam cần phải đẩy mạnh CNH - HĐH theo chiến lược phát triển nên kinh tế mở, nghĩa là trong sự khai thông mọi ách tắc, chia cắt, khép kín, cục bộ, địa phương để đẩy mạnh phát triển các hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, phong phú nhằm xác lập các mối quan hệ kinh tế mật thiết “ở bên trong và thu hút vốn cổ phần, liên doanh, liên kết từ bên ngoài bởi những công ty, tập đoán kinh tế xuyên quốc gia, đa quốc gia để hội nhập, cạnh tranh trên thị trường quốc tế và hỗ trợ sản xuất trong nước, đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân phát triển mạnh, sớm thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và 1 tương lai lâu bền của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Như vậy, chúng ta cần tiến hành CNH - HĐH trong sự kết hợp chiến lược công nghiệp hoá hướng mạnh về xuất khẩu với chiến lược công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu trong những giới hạn hợp lý theo logic biện chứng của sự phát triển để từng bước thay thế các sản phẩm nhập khẩu bằng các sản phẩm trong nước có chất lượng ngày càng cao, nhanh chúng đạt tới mục tiêu đã hoạt động. Trong đó đặc biệt chú ý thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ cùng các nguồn lực khác từ bên ngoài và các ngành, vùng trọng điểm có lợi thế so sánh, tăng nhanh hàng hoá xuất khẩu có giá trị. Xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh đủ sức làm đối tác với bên ngoài, giữ vững độc lập tự chủ trong cạnh tranh và hợp tác. Trên cơ sở đó mà kéo theo sự phát triển của nhiều ngành khác và mới có khả năng đáp ứng những yêu cầu về: thu hút lao động, giải quyế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc62030.doc