Trong xu hướng toàn cầu hóa và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các quốc gia trên thế giới đã và đang có những chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN).
Việt Nam đã và đang thành công trong thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN). Từ năm 1987 đến nay và có thể nhận thấy xu hướng mới đang trỗi dậy trong vài năm trở lại đây, đó là sự gia tăng dòng vốn đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN) của các doanh nghiệp Việt Nam.
Việt Nam đi lên từ một nền kinh tế kém, tiến hành thu hút đầu tư nước ngoài chậm hơn so với các nước khu vực và thế giới nhưng hơn 20 năm qua đã đạt được nhiều thành tự trong thu hút và sử dụng vốn ĐTNN, đồng thời, do nhận thức được vai trò của ĐTRNN nên sớm đã có chính sách khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam ĐTRNN.
Để ĐTRNN thành công thì các doanh nghiệp cũng cần hiểu rõ về những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động ĐTRNN, việc phân tích các nhân tố này sẽ giúp các doanh nghiệp biết được điểm mạnh, điểm yếu và dự báo, đưa ra biện pháp phòng ngừa được những rủi ro đối với doanh nghiệp. Dưới đây là một góc nhìn về các nhân tố quốc gia và quốc tế ảnh hưởng đến hoạt động ĐTRNN của Việt Nam từ năm 2005 đến nay.
25 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1448 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam vào Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu hướng toàn cầu hóa và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các quốc gia trên thế giới đã và đang có những chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN).
Việt Nam đã và đang thành công trong thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN). Từ năm 1987 đến nay và có thể nhận thấy xu hướng mới đang trỗi dậy trong vài năm trở lại đây, đó là sự gia tăng dòng vốn đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN) của các doanh nghiệp Việt Nam.
Việt Nam đi lên từ một nền kinh tế kém, tiến hành thu hút đầu tư nước ngoài chậm hơn so với các nước khu vực và thế giới nhưng hơn 20 năm qua đã đạt được nhiều thành tự trong thu hút và sử dụng vốn ĐTNN, đồng thời, do nhận thức được vai trò của ĐTRNN nên sớm đã có chính sách khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam ĐTRNN.
Để ĐTRNN thành công thì các doanh nghiệp cũng cần hiểu rõ về những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động ĐTRNN, việc phân tích các nhân tố này sẽ giúp các doanh nghiệp biết được điểm mạnh, điểm yếu và dự báo, đưa ra biện pháp phòng ngừa được những rủi ro đối với doanh nghiệp. Dưới đây là một góc nhìn về các nhân tố quốc gia và quốc tế ảnh hưởng đến hoạt động ĐTRNN của Việt Nam từ năm 2005 đến nay.
CHƯƠNG 1
TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀO LÀO
Hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và Lào đã chính thức khởi động từ tháng 8/2003, với quyết tâm bổ sung và phát huy sức mạnh của mỗi nước, hỗ trợ nhau cùng phát triển và coi đó như là một động lực quan trọng thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa hai nước. Tính đến cuối năm 2009, Việt Nam có 207 dự án được chính phủ Lào cấp phép với tổng vốn đầu tư khoảng 2,1 tỷ USD. Lào là quốc gia thu hút nhiều nhất các nhà đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài trong tổng số hơn 30 đối tác đã có đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam (DNVN).
Các dự án của Việt Nam đầu tư vào Lào tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp với 64 dự án, tổng vốn đầu tư gần 940 triệu USD (chiếm 52% số dự án đầu tư của Việt Nam vào Lào và 73% tổng vốn đầu tư); tiếp đó là các dự án đầu tư về nông, lâm nghiệp với 41 dự án, tổng vốn đầu tư 305 triệu USD chủ yếu về: Chế biến gỗ, trồng, khai thác và chế biến cao su, sau đó là lĩnh vực đầu tư về dịch vụ,..
Trên thực tế, Việt Nam góp một lượng vốn đầu tư lớn vào Lào là nhờ những dự án tầm cỡ giữa hai nước, như Thuỷ điện Xekaman 3 với 247 triệu USD, dự án trồng cao su 32 triệu USD của Tổng công ty Cao su, dự án trồng cao su 24 triệu USD của Công ty Cao su Đăk Lăk. Tuy nhiên, đầu tư hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam mới tập trung nhiều ở Nam Lào, một phần ở Trung Lào. Tại địa bàn Bắc Lào, hầu như chưa có mặt của các nhà đầu tư Việt Nam.
Tính đến nay, Việt Nam đã đầu tư 3 nhà máy thuỷ điện tại Lào, đó là dự án thuỷ điện Xê ka mản 3 do Công ty Cổ phần Điện Việt-Lào đầu tư và xây dựng với tổng vốn đầu tư là 273 triệu USD, dự án xây dựng được khởi công tháng 5 năm 2006, hiện dự án đang triển khai đạt theo tiến độ đề ra; dự án thuỷ điện Xê ka mản 1 do Công ty Cổ phần Điện Việt-Lào đầu tư và xây dựng với tổng vốn đầu tư là 441,6 triệu USD, dự án đã được khởi công và đang triển khai xây dựng với kết quả tốt; dự án xây dựng nhà máy thuỷ điện Nậm Mô của Tổng công ty hợp tác Kinh tế Việt-Lào với tổng vốn đầu tư 142 triệu USD, tháng 12 năm 2007, dự án đã được cấp phép.
Khoáng sản hiện là lĩnh vực có nhiều nhà doanh nghiệp của Việt Nam quan tâm đầu tư vào Lào. Việt Nam đã có 34 dự án, với tổng mức đầu tư 58 triệu USD, các dự án đang triển khai việc tìm kiếm, thăm dò, đánh giá trữ lượng quặng. Một số công ty Việt Nam cũng đã xin phép khai thác mỏ vàng ở vùng Nam Lào, nhưng vẫn còn trong giai đoạn thăm dò. Còn về khai thác quặng sắt thép, các doanh nghiệp Việt Nam đã bước đầu thành công trong một vùng mỏ sắt với trữ lượng quặng khá lớn. Nhưng thủ tục về phía Việt Nam lại có trục trặc vì có sự đua chen giành giật công trình của một vài Việt kiều từ Canada đã đầu tư nhiều năm với công ty than đá từ Quảng Ninh, Công ty Vinacoalmin. Đây cũng là một bài học cần được nghiên cứu và giải quyết thỏa đáng giữa các đối tác Việt Nam để giảm bớt sự cạnh tranh trong thị trường Lào.
Hoạt động đầu tư của Việt Nam vào Lào hiện đang sôi động. Đáng chú ý là các Tập đoàn, Tổng Công ty, các doanh nghiệp lớn của Việt Nam đang triển khai nhiều dự án với quy mô lớn và mang lại những lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước.
Theo thông tin chưa đầy đủ, hiện có khoảng 80 doanh nghiệp Việt Nam đang hoạt động tại Lào dưới các hình thức công ty liên doanh, văn phòng đại diện, cửa hàng, siêu thị... với số vốn đăng ký hơn 1 tỷ USD.
Các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trong hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế của Lào như nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, viễn thông, thuỷ điện, chế biến gỗ, khai khoáng, thương mại, khách sạn-nhà hàng, ngân hàng...
Đi tiên phong là Chương trình hợp tác phát triển đồn điền cao su giữa Tổng cục Cao su Việt Nam với Bộ Nông Lâm Nghiệp Lào. Đây là một chương trình hợp tác có kết quả cụ thể dựa trên phương châm “tài nguyên đất và công nhân Lào, vốn và kỹ thuật của phía Việt Nam”.
Tổng Công ty Cao su Việt Lào không dừng ở 10.000 hecta, mục tiêu trong thời gian tới sẽ hoàn thành chỉ tiêu 20.000 hecta, với kinh phí vừa phải, mỗi hecta trồng cao su từ ngày khởi công cho đến ngày thu hoạch lứa mủ đầu tiên, không vượt quá 3.500 USD.
Không chỉ có Tổng Công ty Cao su Việt Lào mà trên vùng đất cao nguyên Boloven gồm bốn tỉnh Champassak, Xêkon, Salavan, Attapeu đã và đang mọc lên nhiều đồn điền cao su với diện tích trên 70.000 km2 là những công trình hợp tác với các tỉnh khác của Việt Nam như tỉnh Đắk Lắk, Bình Dương, Đồng Nai...
Một số doanh nghiệp tư nhân Việt Nam cũng đã bị cuốn hút vào vòng hợp tác phát triển kinh tế với Lào. Công ty TNHH Quán Quân ở Chợ Lớn đã tham gia chương trình trồng khoai mì ở tỉnh Salavan và tiến tới sử dụng Salavan như một tâm điểm để thu mua sắn lát tại các tỉnh khác của Nam Lào. Công ty này đã lập nhà máy chế biến sắn lát tại chỗ với công suất hơn 20 ngàn tấn/năm. Ngoài ra, Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại Việt Mỹ Thịnh đã thuê được vùng đất thuận lợi về thổ nhưỡng và khí hậu tại huyện Pakson tỉnh Champassak để thành lập đồn điền trồng cây ca cao, một sản phẩm mới tại Lào, khá thích hợp với vùng đất đỏ bazan (mỗi năm có gần đến 300 ngày mưa). Đặc điểm chương trình đầu tư của công ty này là kết hợp với một số doanh nhân Việt kiều tại Canada và Mỹ để thành lập một đồn điền hoa hướng dương, lấy giống từ Mỹ, với chương trình thành lập khu du lịch sinh thái rộng 300 hecta tại Cây số 4 huyện Pakson mang tên “Thiên đàng hoa Hướng dương” với tham vọng trồng nhiều loại để lấy hạt giống bán ngược về Canada và Mỹ.
Triển vọng lớn cho DNVN đầu tư
Đất nước Lào với gần 250 ngàn km2, chỉ với hơn 6,5 triệu dân là một vùng đất còn rất nhiều rộng mở cho các hướng phát triển mới, Lào là một vùng đất tiềm năng, tạo ra sức thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp nước ngoài. Điểm thuận lợi tự nhiên là đặc tính dân tộc của người Lào. Người Lào là một dân tộc hòa bình, không thích cạnh tranh đua chen với bất cứ ai. Đến nước Lào để đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài có thể an tâm do tính hòa bình và ổn định lâu dài của đất nước này. Riêng các nhà đầu tư Việt Nam lại càng an tâm hơn vì giữa người Lào và người Việt đã có một sự gắn kết lâu dài về tình cảm, về lịch sử, đã có nhiều mối dây ràng buộc về kinh tế và văn hóa truyền thống.
Những cơ hội lớn mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới, nhất là ở 3 lĩnh vực thế mạnh Việt Nam đầu tư sang Lào (trồng cao su, thuỷ điện, thăm dò khai khoáng). Như thoả thuận giữa hai chính phủ về việc Lào cấp cho Việt Nam 10 vạn ha trồng cây cao su, đến nay Lào đã cấp cho Việt Nam được 7 vạn ha (70%) nhưng Việt Nam mới trồng được 3 vạn, chưa đầy 50% số đất họ cấp.
Về phát triển thuỷ điện, theo thống kê của phía Lào, có 78 điểm khả thi xây dựng thuỷ điện. Thuỷ điện lớn nhất Việt Nam ký được là Luang Prabang 1.410 MW tương đương với 8,5% tổng công suất tiềm năng sông Mekong.
Về thăm dò khoáng sản, Lào mới khảo sát 60% tổng diện tích tự nhiên đã có 500 điểm có khả năng khoáng sản trong đó phát hiện 232 điểm quặng gồm than, sắt, thiếc, vàng, đồng, chì, kẽm, muối mỏ, thạch cao, sét, đá quý... Đến tháng 7/2008, Lào đã cấp 20/30 mỏ cho Việt Nam.
Việt Nam và Lào đã ký kết nhiều hiệp định quan trọng tạo điều kiện pháp lý cho thúc đẩy đầu tư của Việt Nam vào Lào và ngược lại như hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định quá cảnh, hiệp định hợp tác lao động, hiệp định tránh đánh thuế trùng... Tuy nhiên, thị trường này cũng có nhiều thách thức đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải làm ăn bài bản, chuyên nghiệp, giữ đúng cam kết đã ký với Chính phủ Lào, tôn trọng luật pháp và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của doanh nghiệp. Tiềm năng ở Lào còn nhiều nhưng doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ chú trọng đến thủy điện, khai khoáng và trồng cao su. Các doanh nghiệp đi sau nên tham khảo kinh nghiệm của các đơn vị đi trước và tìm hiểu kỹ về tập quán, văn hóa... của Lào để tránh rủi ro.
CHƯƠNG 2
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀO LÀO
A. Nhân tố quốc gia
I. Đối với nước đi đầu tư
1. Khuôn khổ pháp lý của hoạt động ĐTRNN
Luật Đầu tư năm 2005
Luật Đầu tư năm 2005 quy định: Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài và bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư được tiếp cận các nguồn vốn tín dụng trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế; bảo lãnh vay vốn đối với các dự án đầu tư ra nước ngoài trong các lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư. Nhà nước Việt Nam khuyến khích các tổ chức kinh tế tại Việt Nam đầu tư ra nước ngoài đối với lĩnh vực xuất khẩu nhiều lao động; phát huy có hiệu quả các ngành nghề truyền thống của Việt Nam; mở rộng thị trường, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên tại nước đầu tư; tăng khả năng xuất khẩu, thu ngoại tệ. Tư tưởng của các quy định trên khẳng định một chính sách mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế.
Điều kiện đầu tư ra nước ngoài được quy định tại Điều 76: Để được đầu tư ra nước ngoài theo hình thức đầu tư trực tiếp, nhà đầu tư cần phải có các điều kiện sau đây: Có dự án đầu tư ra nước ngoài; Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước Việt Nam; Được cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư; Việc đầu tư ra nước ngoài theo hình thức gián tiếp phải tuân thủ các quy định của pháp luật về ngân hàng, chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có liên quan; Việc sử dụng vốn của nhà nước để đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước.
Trong đó quy định rõ quyền của nhà đầu tư ra nước ngoài: Chuyển vốn đầu tư bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác ra nước ngoài để thực hiện đầu tư theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối sau khi dự án đầu tư được cơ quan thẩm quyền của nước, vùng lãnh thổ đầu tư chấp thuận; Được hưởng các ưu đãi về đầu tư theo quy định của pháp luật; Tuyển dụng lao động Việt Nam sang làm việc tại cơ sở sản xuất, kinh doanh do nhà đầu tư thành lập ở nước ngoài.
Về nghĩa vụ của nhà đầu tư ra nước ngoài, Luật quy định: Tuân thủ pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư; Chuyển lợi nhuận và các khoản thu nhập từ việc đầu tư ra nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật; Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ về tài chính và hoạt động đầu tư ở nước ngoài; Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước Việt Nam; Khi kết thúc đầu tư ở nước ngoài, chuyển toàn bộ vốn, tài sản hợp pháp về nước theo quy định của pháp luật; Trường hợp nhà đầu tư chưa chuyển về nước vốn, tài sản, lợi nhuận và các khoản thu nhập từ việc đầu tư ở nước ngoài phải được sự đồng ý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, chúng ta thấy rõ tư tưởng của các quy định của pháp luật về quyền lợi và nghĩa vụ đầu tư ra nước ngoài là rõ ràng và thể hiện thế chủ động.
Nghị định của Chính phủ về đầu tư ra nước ngoài
Nghị định số 22/1999/NĐ-CP quy định đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam, theo đó là Thông tư số 05/2001/TT-BKH của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam và Thông tư số 01/2001/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Có thể nói đây là những văn bản quy phạm pháp luật cơ bản hình thành cơ sở pháp lý cần thiết cho các doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài.
Tuy nhiên, trải qua thực tế đã bộc lộ rõ nhiều quy định còn thiếu cụ thể do chưa lường hết được các vấn đề mới nảy sinh, vì vậy nhiều điểm còn thiếu đồng bộ, chưa nhất quán. Đặc biệt là có nhiều điều khoản của văn bản không phù hợp với thực tế. Trong khi đó, không ít quy định can thiệp quá sâu vào quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Đến khi Luật Đầu tư ban hành năm 2005 với các quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam đã khắc phục được những hạn chế nêu trên.
Với quan điểm tích cực tiếp thu và sửa đổi, bổ sung để tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư đầu tư ra nước ngoài, ngày 9 tháng 8 năm 2006 Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2006/NĐ-CP quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Đây là văn bản hướng dẫn cụ thể chi tiết Luật Đầu tư. Trong đó nói rõ: Các nhà đầu tư tại Việt Nam (sau đây gọi là nhà đầu tư) gồm: Công ty trách nhiệm hữu hạn; Công ty cổ phần; Công ty hợp danh; Doanh nghiệp tư nhân được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp; Doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp nhà nước chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật Đầu tư nước ngoài chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư; Doanh nghiệp thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp; Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã được thành lập theo Luật Hợp tác xã; Cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hoá, thể thao và các cơ sở dịch vụ khác có hoạt động đầu tư sinh lợi; Hộ kinh doanh, cá nhân Việt Nam.
Bên cạnh Nghị định số 78/2006/NĐ-CP còn có Nghị định số 121/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 7 năm 2007 quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong hoạt động dầu khí. Có thể nói hoạt động dầu khí là một trong những thế mạnh của ta. Bởi đây là hoạt động hình thành và hoạt động thực hiện dự án dầu khí về tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ, khai thác dầu khí, kể cả hoạt động vận chuyển bằng đường ống, xử lý dầu thô và các hoạt động khác phục vụ trực tiếp cho các hoạt động này.
Trong nhiều năm qua, chúng ta đã khẳng định được đội ngũ chuyên môn giỏi, có đủ khả năng đảm trách được nhiều dự án lớn về dầu khí, mang lại nguồn lợi lớn cho đất nước. Ta giàu lên và ta cũng muốn các nước giàu lên từ dầu khí. Xuất phát từ quan điểm này, Chính phủ đã có một Nghị định riêng về đầu tư ra nước ngoài cho lĩnh vực hoạt động dầu khí. Như vậy có thể thấy từng bước một chúng ta luôn sát với thực tế, mở rộng hành lang pháp lý để các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội phát huy tiềm năng đầu tư ra nước ngoài.
Với khuôn khổ pháp lý mới thì các thủ tục đầu tư ra nước ngoài được đơn giản hóa hơn, cộng với nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng “đẻ” thêm nhiều doanh nghiệp có khả hăng tài chính để “quay vốn” bằng cách đầu tư ra nước ngoài. Và một trong những sự kiện tiêu biểu nhất năm nay là Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
2 Thủ tục hành chính
2.1. Những thay đổi tích cực
Tháng 2 - 2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 78 theo hướng tiếp tục đơn giản hoá thủ tục hành chính và tăng cường quản lý dòng vốn và hiệu quả vốn ĐTRNN. Như vậy, chính phủ đã có những sửa đổi về luật pháp tạo ra điều kiện thuận lợi và khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài.
Các cơ quan quản lý nhà nước đang tiếp tục cải tiến thủ tục hành chính đối với đầu tư ra nước ngoài theo hướng đơn giản thuận tiện, mở rộng hơn nữa các dự án thuộc diện đăng ký, giảm bớt sự can thiệp bằng các biện pháp hành chính ngay cả đối với dự án sử dụng vốn nhà nước, tăng quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Từng bước phân cấp việc cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài.
Công tác thẩm tra, cấp phép cho các dự án đầu tư ra nước ngoài cũng được cải thiện đáng kể. Mối liên hệ giữa cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ ta ở nước ngoài với các doanh nghiệp nước ngoài từng bước chặt chẽ hơn.
2.2. Những vướng mắc
Xét từ góc độ doanh nghiệp, quy trình thủ tục ĐTRNN hiện nay vẫn còn phức tạp. Đồng thời, Nhà nước cũng chưa có những chính sách hỗ trợ hữu hiệu cho các doanh nghiệp ĐTRNN trong hoạt động làm ăn xa xứ.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép cho các dự án theo từng giai đoạn
Vướng mắc trong đầu tư ra nước ngoài của ngành dầu khí là các văn bản pháp lý quy định đầu tư thường lạc hậu so với thực tế đầu tư, là sự phân cấp chưa rõ ràng, “nên cái gì cũng phải xin”. Đặc biệt trong đặc thù của ngành dầu khí phải quyết định nhanh, khi đã có hợp đồng phải thực hiện cam kết ngay. Thực tế đòi hỏi Nhà nước cần có những chính sách linh hoạt hơn, nhất là đối với một số lĩnh vực đặc biệt.
Các doanh nghiệp Việt Nam cho rằng đầu tư ra nước ngoài hiện nay đang gặp nhiều khó khăn từ phía cơ quan quản lý nhà nước. Tập đoàn dầu khí quốc gia Petro Việt Nam cơ quan có nhiều dự án đầu tư ra nước ngoài nhất để thăm dò, khai thác dầu khí cũng than phiền rằng họ vướng rất nhiều cơ chế, mà đặc biệt là thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài. Thông thường, khi muốn mua một mỏ dầu, Petro Việt Nam phải lập dự án, rồi chờ các cơ quan nhà nước phê duyệt, trong khi vẫn phải đàm phán với đối tác nước ngoài. Quá trình này tốn rất nhiều thời gian. Chúng tôi muốn một mỏ dầu trị giá 100 triệu USD, thì phải xin phép nhiều cấp. Khi xong được thủ tục, giá của mỏ đó đã cao lên, hoặc công ty nước ngoài khác đã mua xong rồi và thế là dự án không thành. Như vậy ta có thể thấy hành lang pháp lý của Việt Nam trong việc đầu tư ra nước ngoài nói chung và ngành dầu khí nói riêng còn quá chặt chẽ.
Các quan chức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa nhận hiện nay chúng ta chưa có được một kế hoạch tổng thể xây dựng chiến lược đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam và việc đầu tư này nhìn chung còn dựa trên mối quan hệ giữa các chính phủ hoặc các địa phương.
- Không chỉ khó khăn ở khâu chờ dự án được cấp phép, các doanh nghiệp còn bức xúc về việc chuyển tiền ra nước ngoài và chuyển lợi nhuận về.
Theo quy định, lợi nhuận của các dự án đầu tư phải chuyển về nước chậm nhất là 6 tháng khi năm tài chính kết thúc, nhưng lại chưa có quy định rõ ràng lợi nhuận bao gồm cụ thể những gì. Chủ đầu tư VN muốn chuyển lợi nhuận thành vốn đầu tư tiếp để khỏi phải chuyển tiền đầu tư ra cũng không phải là chuyện đơn giản.
Việc chuyển tiền ra nước ngoài cũng đang làm đau đầu không ít doanh nghiệp. Đại diện một doanh nghiệp cho biết, thường thì các ngân hàng "săm soi quá kỹ" nên việc chuyển tiền không phải lúc nào cũng đơn giản. Cầm giấy phép đầu tư ra nước ngoài do Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp đã nhiều tuần, nhưng các nhà đầu tư ở Công ty cổ phần Cao su Việt Lào chưa thể trở thành nhà đầu tư ở nước ngoài vì tiền vẫn còn nằm ở trong nước.
Công tác quản lý đầu tư ra nước ngoài của VN còn gặp nhiều khó khăn do việc thực hiện chế độ báo cáo của các dự án đầu tư ra nước ngoài chưa đầy đủ. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng của các cơ quan trong việc quản lý các dự án đầu tư ra nước ngoài cũng còn hạn chế, chưa thành lập được đoàn khảo sát tại chỗ để đánh giá sâu hiệu quả hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Mối liên hệ giữa cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ của VN ở nước ngoài với các doanh nghiệp còn lỏng lẻo nên khi có vụ việc tranh chấp xảy ra sẽ không tranh thủ được tối đa sự hỗ trợ của Nhà nước.
Một số doanh nghiệp cho rằng, chính những vướng mắc trong thủ tục như trên đã khiến họ rất nản lòng, không muốn mở rộng đầu tư ra nước ngoài và chờ đợi một sự thay đổi.
- Thủ tục vẫn nhiêu khê
Quy định là vậy, nhưng trong thực tế việc đầu tư ra nước ngoài đang vấp phải nhiều khó khăn do những thủ tục quản lý từ phía cơ quan Nhà nước.
Thứ nhất, việc cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài chưa được phân cấp, còn tập trung ở Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Các doanh nghiệp ở địa phương muốn đầu tư ra nước ngoài đều phải tốn thời gian đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư để xin phép. Tính ra, doanh nghiệp muốn hoàn thiện thủ tục để có được giấy phép đầu tư ra nước ngoài phải qua 11 đầu mối các cơ quan quản lý trong nước.
Khó khăn thứ hai, các doanh nghiệp trong nước muốn có giấy phép đầu tư ra nước ngoài phải có văn bản cho phép hoặc thoả thuận với bên nước ngoài. Tuy nhiên, có nhiều quốc gia lại có quy định chỉ được phép đầu tư vào quốc gia đó khi đã được sự cho phép của quốc gia mà doanh nghiệp đầu tư mang quốc tịch. Điều này để tránh được nạn “rửa tiền” thông qua việc đầu tư ra nước ngoài, quốc gia tiếp nhận đầu tư muốn những đồng tiền “sạch” chảy vào thị trường của mình.
Sự trái nhau về những quy định cấp phép đầu tư này sẽ gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp muốn đem vốn ra nước ngoài kinh doanh.
Thứ ba, vướng mắc nhiều nhất hiện nay là vấn đề chuyển vốn ra nước ngoài để thực hiện đầu tư. Thông tư số 01/2001/TT- NHNN ngày 19/1/2001 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam.
Theo đó, doanh nghiệp phải mở một tài khoản tại ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam và mọi giao dịch chuyển tiền ra nước ngoài và vào Việt Nam liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp phải được thực hiện thông qua tài khoản này. Ngoài ra doanh nghiệp còn phải làm thủ tục đăng ký với chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tại địa phương mình có trụ sở chính về việc mở tài khoản ngoại tệ và tiến độ chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Như vậy, cùng một việc chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài doanh nghiệp phải hai lần đăng ký mở tài khoản, với chi nhánh Ngân hàng Nhà nước và với ngân hàng thương mại khác hoạt động tại Việt Nam. Doanh nghiệp chỉ được phép sử dụng nguồn ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi ngoại tệ của mình mở tại ngân hàng được phép để chuyển ra nước ngoài góp vốn đầu tư trên cơ sở quy định tại giấy phép đầu tư do cơ quan có thẩm quyền cấp.
Ngoài ra, để mở được tài khoản tại ngân hàng phục vụ việc chuyển tiền ra nước ngoài đầu tư doanh nghiệp phải chứng minh được dự án đầu tư, giấy phép đầu tư do nước ngoài cấp...
Như vậy giai đoạn làm khảo sát, thăm dò, thiết kế dự án của doanh nghiệp tại nước ngoài sẽ không được chuyển tiền ra nước ngoài. Đây sẽ là khó khăn cho doanh nghiệp khi hoạt động chuẩn bị cho dự án đầu tư, trong khi đây là giai đoạn cần thiết để có được giấy phép chấp thuận đầu tư của nước doanh nghiệp muốn đầu tư.
Khó khăn thứ tư là doanh nghiệp Việt Nam thiếu thông tin về địa bàn đầu tư, về các quy định pháp lý về đầu tư... Thường thì các doanh nghiệp tự tìm hiểu, nhưng đây là một điều khó khăn cần các cơ quan chức năng, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại các thị trường cung cấp cho doanh nghiệp.
Đôi khi nhiều doanh nghiệp Việt Nam cùng đầu tư một lĩnh vực tại một thị trường dẫn đến sự cạnh tranh không cần thiết và các cơ quan chức năng phải là đầu mối cung cấp thông tin về từng thị trường khi có doanh nghiệp trong nước tìm hiểu để tránh tình trạng này.
3. Các chính sách hỗ trợ
Trong thời gian dài, chúng ta thiếu chính sách hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.Ngay cả các cơ quan nhà nước đầu mối như bộ Kế hoạch và đầu tư, bộ Tài chính và ngân hàng Nhà nước cũng không phối hợp với nhau hiệu quả trong việc cấp phép và quản lý các dự án đầu tư ra nước ngoài.
VCCI luôn ủng hộ và khuyến khích, DN, doanh nhân tích cực hưởng ứng và nhiệt tình tham gia các hiệp hội DN, tạo điều kiện để liên kết phát triển các quan hệ sản xuất, kinh doanh thương mại và đầu tư; khuyến khích các DN, doanh nhân VN hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư tại Lào trên tinh thần hợp tác cùng phát triển và quyết tâm hoàn thành các dự án đã đăng ký, cố gắng thiết lập thị trường nội bộ, ưu tiên sử dụng sản phẩm, dịch vụ của nhau... Trong thời gian qua, các DN VN tại Lào đã có sự phát triển nhanh, vững mạnh về nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, đóng góp cho sự phát triển của cộng đồng DN nói riêng cũng như sự phát triển chung của nước bạn Lào và VN. Việc thành lập Hiệp hội DN VN hợp tác và đầu tư tại Lào là một biểu hiện sinh động cho mối liên kết để hội nhập thành công và cũng là minh chứng cho sự đoàn kết hợp tác toàn diện Việt - Lào, khẳng định vị thế và thương hiệu của chính các DN.
Tháng 2-2009, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án "Thúc đẩy đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài". Đây được xem như "bệ phóng" cho các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài với quy mô và tầm nhìn mang tính chiến lược. Đề án đặt mục tiêu thúc đẩy hơn nữa hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nhằm chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường các biện pháp, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy đầu tư của Việt Nam ra nư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 112221.doc