Công cuộc đổi mới của nền kinh tế Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
những năm qua đãthu được những thành tựu đáng kể (mức tăng trưởng GDP bình quân
đạt 7-9%, kiềm chế lạm phát ở mức một con số, thị trường trong nước và quốc tế ngày
càng được mở rộng.). Có được những kết quả này là nhờ một phần không nhỏ vào sự
thành công trong hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam thông qua việc thực hiện tốt
chính sách kinh tế mở và tiến hành các biện pháp cải cách kinh tế trên nhiều mặt theoxu
hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá.
85 trang |
Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1184 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài các hình thức tín dụng xnk và biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại chi nhánh ngân hàng côngthương khu vực đống đa icbv, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Công cuộc đổi mới của nền kinh tế Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
những năm qua đã thu được những thành tựu đáng kể (mức tăng trưởng GDP bình quân
đạt 7-9%, kiềm chế lạm phát ở mức một con số, thị trường trong nước và quốc tế ngày
càng được mở rộng...). Có được những kết quả này là nhờ một phần không nhỏ vào sự
thành công trong hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam thông qua việc thực hiện tốt
chính sách kinh tế mở và tiến hành các biện pháp cải cách kinh tế trên nhiều mặt theo xu
hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá.
Nhiều năm trước đây, hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam chưa phát triển đúng
với khả năng và phát huy tốt vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến hạn chế này và một trong những nguyên nhân cơ bản là chúng ta thiếu
những nguồn vốn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu trong đó đặc biệt phải kể đến là
nguồn tín dụng ngân hàng.
Việc phát triển hình thức tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng không chỉ mang lại lợi
ích cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội và ngay cả bản
thân ngân hàng bởi tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng. Nhận thức rõ
vấn đề đó, Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa (ICBV) là một ngân hàng
chủ lực trong lĩnh vực công thương nghiệp đã triển khai đã bắt đầu triển khai hoạt động
tín dụng xuất nhập khẩu và bước đầu đã có những thành công nhất định.
Tuy nhiên, hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của ICBV còn nhiều hạn chế, chất lượng tín
dụng chưa cao. Do vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu trở thành một
đòi hỏi bức xúc đối với Ngân hàng hiện nay.
Trước yêu cầu trên tôi chọn đề tài “ Các hình thức tín dụng XNK và biện pháp nâng cao
chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống
Đa ICBV” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn được kết
cấu theo 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng
thương mại
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Chi nhánh Ngân hàng Công
thương khu vực Đống Đa
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu tại Chi
nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu, học hỏi để hoàn thành khoá luận, song
chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến quý báu của các thầy cô và các bạn để khoá luận có ý nghĩa hơn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn người đã tận tình giúp đỡ tôi
hoàn thành khoá luận này.
Qua đây, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong Khoa đã dạy
dỗ và cung cấp cho tôi những kiến thức lí luận quí báu.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo và các anh chị Phòng Tín dụng ngoài quốc
doanh, Chi nhánh Ngân hàng Công Thương khu vực Đống Đa những người đã nhiệt tình
tiếp nhận, tạo điều kiện và cung cấp những kinh nghiệm thực tiễn quan trọng cho tôi trong
quá trình thực hiện khóa luận.
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng
thương mại
1.1. tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu
1.1.1. Sự cần thiết phát triển hoạt động xuất nhập khẩu và nhu cầu tài trợ cho xuất nhập
khẩu
1.1.1.1. Sự cần thiết phát triển hoạt động xuất nhập khẩu
Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không thể chỉ dựa vào nền sản xuất trong
nước mà còn phải quan hệ với các nước bên ngoài. Do có sự khác nhau về điều kiện tự
nhiên như tài nguyên, khí hậu...mà mỗi quốc gia có thế mạnh trong việc sản xuất một số
mặt hàng nhất định. Để đạt được hiệu quả kinh tế đồng thời đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng ngày một đa dạng ở trong nước, các quốc gia đều mong muốn có được những sản
phẩm chất lượng cao với giá rẻ hơn từ các nước khác đồng thời mở rộng được thị trường
tiêu thụ đối với các sản phẩm thế mạnh của mình. Chính từ mong muốn đó đã làm nảy
sinh nhu cầu mua bán trao đổi quốc tế (hay thương mại quốc tế).
Hoạt động thương mại quốc tế thông qua mối quan hệ rộng rãi vượt ra ngoài biên giới
quốc gia sẽ là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế bên ngoài, đồng thời tạo
ra động lực thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế ở mỗi khu vực và trên toàn thế giới.
Thương mại quốc tế được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản xuất khẩu và nhập khẩu. Do
vậy, xác định được vai trò quan trọng cũng như có sự quan tâm thích đáng đến hoạt động
xuất nhập khẩu là nhiệm vụ hàng đầu của hoạt động thương mại quốc tế.
Đối với Việt Nam, ngoài những đặc điểm nêu trên chúng ta còn có những nét đặc thù riêng
đó là nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng kĩ thuật lạc hậu, công nghệ thủ
công... đang rất cần được đổi mới, bên cạnh đó tiềm lực xuất khẩu lại lớn nhưng chưa
được khai thác hiệu quả. Tất cả những điều này cho thấy hoạt động xuất nhập khẩu đối với
nước ta càng quan trọng hơn.
Vai trò của xuất nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua một số khía
cạnh cơ bản sau:
Xuất khẩu
- Xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho đất nước tạo điều kiện đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thông qua
việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước sẽ khuyến khích các ngành, nghề phát triển bởi họ
phần nào có được thị trường tiêu thụ ổn định và mở rộng hơn. Đồng thời, sự cạnh tranh
gay gắt trên thị trường quốc tế sẽ tạo cho các nhà sản xuất sự năng động và sáng tạo trong
kinh doanh, sự quan tâm đúng đắn đến việc nâng cao hiệu quả quản lí, đổi mới công nghệ
cũng như nâng cao chất lượng của sản phẩm.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho việc nhập khẩu có thể diễn ra thuận lợi hơn nhờ nguồn ngoại
tệ thu được và mối quan hệ quốc tế mà nó tạo ra.
Nhập khẩu
Song song với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng
trong nền kinh tế. Cụ thể:
- Nhập khẩu tạo ra hàng hoá bổ sung cho hàng hoá thiếu hụt trong nước và thay thế những
sản phẩm trong nước không sản xuất được hay sản xuất với chi phí cao hơn để đáp ứng
nhu cầu sản xuất tiêu dùng nội địa một cách tốt nhất, từ đó tạo sự ổn định về cung-cầu
trong nước và cao hơn là sự ổn định kinh tế vĩ mô.
- Nhập khẩu có tác động đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, đổi mới
công nghệ tạo tiền đề thuận lợi cho sản xuất.
- Ngoài ra, nhập khẩu còn có vai trò thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc cung cấp các
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị đầu vào cho xuất khẩu cũng như góp phần định hướng
sản phẩm, định hướng thị trường.
Cuối cùng, một vai trò hết sức quan trọng của cả xuất và nhập khẩu đối với sự phát triển
kinh tế-xã hội đó là tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân và mở rộng hợp tác
quốc tế.
1.1.1.2. Nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu
Do hoạt động thương mại quốc tế hiện nay là rất đa dạng và vì thế cũng hết sức phức tạp
(nó bao gồm nhiều mối quan hệ như: thương mại giữa các nước phát triển, giữa các nước
đang phát triển, giữa các nước phát triển và đang phát triển...) nên để phù hợp với điều
kiện Việt Nam cũng như với đề tài nghiên cứu, ở đây tôi chỉ xin đề cập đến hoạt động
thương mại quốc tế giữa các nước phát triển và đang phát triển.
- Xuất khẩu hàng hoá từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển chủ yếu là
hàng hoá tư liệu sản xuất như máy móc thiết bị, kỹ thuật, công nghệ. Đây là những hàng
hoá mà để hoàn thành hoạt động xuất khẩu cần phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ
phân tích nhu cầu, kí kết hợp đồng, sản xuất cung ứng, lắp ráp chạy thử... đến thanh toán
tiền hàng. Nhu cầu tài trợ thường để đáp ứng các chi phí cho quảng cáo, thiết kế mẫu mã,
sản xuất và cung cấp công trình.
ơơơ- Xuất khẩu hàng hoá từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển chủ yếu là
các mặt như nông, lâm, thuỷ hải sản, hàng thô hay mới qua sơ chế... Và nhu cầu tài trợ
thường là để thu mua chế biến xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời.
Để có cái nhìn tổng quát về nhu cầu tài trợ nảy sinh trong hoạt động xuất nhập khẩu ta sẽ
xem xét nhu cầu tài trợ của các nhà xuất khẩu và nhập khẩu hình thành trong cùng một
hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá máy móc, thiết bị kĩ thuật, công nghệ.
Nhu cầu tài trợ cho xuất khẩu
Việc thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng hoá máy móc thiết bị thường kéo dài từ nhiều
tháng cho tới vài năm, do đó thông thường nhu cầu tài trợ thường nảy sinh ở nhiều giai
đoạn khác nhau. Cụ thể:
+ Giai đoạn phân tích nhu cầu, thiết kế, tìm kiếm khách hàng, đại diện tại các hội chợ,
đàm phán sơ bộ, lập kế hoạch: Đây là giai đoạn đầu tiên và có ý nghĩa quyết định đối với
việc thực hiện các bước sau của cả hoạt động xuất khẩu. Để hoàn thành tốt giai đoạn này
các chuyên gia phải thực hiện các chuyến đi dài ngày và tiến hành nhiều cuộc đàm phán,
phải làm ra hàng mẫu và mô hình để trưng bày, giới thiệu. Sau đó họ còn phải hoàn tất các
tài liệu thiết kế và tính toán chính xác cho đàm phán hợp đồng. Chi phí cho những hoạt
động này không phải nhỏ, đặc biệt với các cơ sở kinh doanh tiềm lực tài chính còn hạn
hẹp.
+ Giai đoạn đưa ra đề nghị chào hàng: Các đề nghị chào hàng trong khuôn khổ đấu thầu
quốc tế thường được để kèm theo bản bảo đảm đấu thầu của một ngân hàng có uy tín trong
giao dịch quốc tế. Do vậy các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần được sự giúp đỡ của ngân
hàng.
+ Giai doạn kí kết hợp đồng: Trong trường hợp nhà xuất khẩu chưa có uy tín cao ở nước
ngoài, đối tác có thể yêu cầu một bảo đảm giao hàng hoặc bảo đảm hoàn thành công trình.
Đảm bảo này sẽ có hiệu lực nếu việc giao hàng hoặc hoàn thành công trình không đúng
như thoả thuận.
Trường hợp khác, nếu nhà xuất khẩu cần tiền đặt cọc mà nhà nhập khẩu là người nước
ngoài đang gặp khó khăn và không có khả năng đặt cọc từ nguồn vốn riêng của mình thì
nhà xuất khẩu có thể đề nghị ngân hàng của mình một tài trợ đặt cọc có lợi cho đối tác
thương mại của mình.
+ Giai đoạn chuẩn bị sản xuất: Sau khi đã kí hợp đồng, nhà xuất khẩu sẽ tiến hành chuẩn
bị sản xuất. Nhất là việc xây dựng các công trình lớn như, nhà máy, xí nghiệp... việc này
thường đi kèm với chi phí lớn vượt quá mức đặt cọc.
+ Giai đoạn sản xuất: Mặc dù đã có những thoả thuận về việc thanh toán tiếp theo của
người mua, trong thời gian này thường nảy sinh các nhu cầu tài chính cao về vật tư và chi
phí liên quan khác vượt qua các khoản thanh toán giữa chừng. Ngoài ra, với các mặt hàng
lớn như máy móc công nghệ... thì nhiều khi nhà xuất khẩu còn cần phải được tài trợ cho
các chi phí xây dựng kho bãi, chuẩn bị mặt bằng sản xuất, đào tạo người sử dụng máy
móc... ở nước nhập khẩu.
+ Giai đoạn cung ứng: Ngay cả trong giai đoạn cung ứng cũng có thể nảy sinh các chi phí
cần được tài trợ như chi phí vận tải, bảo hiểm... tuỳ theo điều kiện cung ứng.
+ Giai đoạn lắp ráp, chạy thử, bàn giao công trình: Sau khi hàng hoá được bàn giao tới địa
điểm qui định, nhà xuất khẩu còn cần chi phí cho lắp ráp chạy thử cho tới khi được người
mua thu nhận và chấp nhận thanh toán.
+ Giai đoạn bảo hành: Trong giai đoạn này người mua có quyền yêu cầu được bảo hành ở
ngân hàng của nhà xuất khẩu trước khi thanh toán.
+ Thanh toán: Hiện nay, để việc cung cấp hàng hoá xuất khẩu được thuận lợi người xuất
khẩu thường phải dành cho người mua một ưu đãi thanh toán trong nhiều năm mà người
xuất khẩu và ngân hàng của họ có thể chấp nhận được. Nhu cầu tài trợ ở giai đoạn này
thường lớn để đảm bảo vốn cho quá trình tái sản xuất khi mà người nhập khẩu chưa đến
hạn phải thanh toán.
Nhu cầu tài trợ nhập khẩu
Với hoạt động nhập khẩu, nếu như nhà xuất khẩu có nhu cầu tài trợ để đẩy mạnh hoạt
động bán hàng thì các nhà nhập khẩu cũng nảy sinh nhu cầu tài trợ để mua hàng khi khả
năng tài chính không đáp ứng được. Vì vậy về phía nhà nhập khẩu cũng hình thành nhu
cầu tài trợ trên nhiều mặt.
- Giai đoạn trước khi kí kết hợp đồng: ở giai đoạn này các nhà nhập khẩu cần có những
chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác nhu cầu của mình để tiến hành
đấu thầu một cách phù hợp.
- Giai đoạn sau khi kí kết hợp đồng: Sau khi kí kết được hợp đồng, các nhà nhập khẩu cần
được tài trợ để đặt cọc hoặc tạm ứng cho nhà xuất khẩu. Ngoài ra, nhiều khi nhà nhập
khẩu còn phải nhờ ngân hàng đứng ra bảo đảm để tìm nguồn tài trợ ở nước ngoài.
- Giai đoạn sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này nhà nhập khẩu có thể
phải thực hiện những khoản thanh toán giữa chừng cho nhà xuất khẩu hay tài trợ cho các
công việc ở điạ phương để chuẩn bị cho đầu tư.
- Giai đoạn cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện cung ứng hàng hoá có
thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm đối với các nhà nhập khẩu.
- Nhận hàng hoá: Nếu tiến hành thanh toán cung ứng hàng hoá khi xuất trình chứng từ (có
thư tín dụng kèm theo hoặc theo điều kiện D/P) thì thường nhà nhập khẩu chỉ có thể nhận
được hàng khi giá trị trên hoá đơn đã ghi rõ hoặc có thể tài trợ được.
- Xử lí tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với hàng hoá chủ định bán tiếp thì nhà nhập khẩu
còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời gian từ khi nhập hàng về tới khi hàng
hoá được tiêu thụ.
Qua việc xem xét nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu ở trên ta có thể khẳng định rằng hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu có một nhu cầu tài trợ rất lớn. Vậy thì để đáp ứng cho
nhu cầu đó có những nguồn tài trợ nào. Dưới đây là một số nguồn tài trợ thường dùng cho
xuất nhập khẩu.
1.1.2. Các nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những hoạt động kinh tế cơ bản, do vậy nó cũng
được tài trợ từ rất nhiều nguồn khác nhau. Trong đó, những nguồn tài trợ thường được sử
dụng là:
- Tín dụng thương mại (hay tín dụng nhà cung cấp): là nguồn tài trợ được thực hiện thông
qua hình thức mua bán chịu hàng hoá, dịch vụ với các công cụ chủ yêú là kỳ phiếu và hối
phiếu. Đây là nguồn tài trợ ngắn hạn được ưa dùng vì dễ thực hiện, khả năng chuyển thành
tiền mặt cao (thông qua chiết khấu tại các ngân hàng), linh hoạt về thời hạn. Tuy nhiên,
các công cụ như hối phiếu thường được sử dụng trên cơ sở có ngân hàng đứng ra chấp
nhận hay bảo đảm.
- Các khoản phải nộp phải trả: Bao gồm: thuế phải nộp nhưng chưa nộp, phải trả cán bộ
công nhân viên và các khoản phải trả phải nộp khác. Đây là nguồn tài trợ mang tính thời
điểm cao vì nó thường nhỏ và ít ổn định.
- Vốn tự có: Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp khác nhau mà vốn tự có có thể là vốn Ngân
sách cấp, vốn cổ phần của các sáng lập viên công ty cổ phần hay vốn của chủ doanh
nghiệp tư nhân.
Vốn tự có chủ yếu bao gồm vốn khi thành lập doanh nghiệp như nói trên và phần lợi
nhuận để lại cộng khấu hao. Sử dụng vốn tự có doanh nghiệp có thể giảm được hệ số nợ,
tạo sự chủ động trong kinh doanh. Tuy vậy, nguồn tài trợ này có hạn chế là qui mô không
lớn và nhiều khi chi phí cơ hội của việc giữ lại lợi nhuận cao.
- Phát hành cổ phiếu: Với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay họ có thể phát hành
cổ phiếu công ty để huy động nguồn vốn trung và dài hạn. Hình thức này có ưu điểm là
doanh nghiệp có được sự chủ động trong việc huy động và sử dụng vốn, giảm được nguy
cơ phá sản khi gặp khó khăn (vì có thể không phải phân chia lợi tức cổ phần hoặc có thể
hoãn trả lợi tức khi bị lỗ hoặc không có nhiều lãi) hay làm tăng vốn chủ sở hữu, giảm hệ
số nợ của doanh nghiệp... Tuy nhiên, chỉ có các doanh nghiệp thỏa mãn những điều kiện
nhất định mới được sử dụng hình thức này. Với nước ta, do thị trường tài chính còn chưa
phát triển nên hình thức tài trợ này còn ít được sử dụng hoặc nếu có sử dụng thì vẫn khó
có thể đem lại hiệu quả cao.
- Phát hành trái phiếu công ty: Đây cũng là một hình thức tài trợ khá phổ biến trong nền
kinh tế thị trường gần như cổ phiếu.
Tuy nhiên, với trái phiếu doanh nghiệp thường phải trả lợi tức cố định cho dù hoạt động
kinh doanh có lãi hay không. Điều này dễ làm tăng khả năng phá sản đối với doanh nghiệp
khi gặp khó khăn về tài chính. Ngoài ra, với thị trường tài chính chưa phát triển như đã nói
trên thì hình thức này cũng khó phát huy tốt được ưu thế của nó.
- Tín dụng ngân hàng: Ngân hàng có thể tài trợ cho các doanh nghiệp thông qua nhiều
hình thức và với những mục đích sử dụng khác nhau như: cho vay ngắn hạn theo hạn mức
tín dụng, cho vay theo hợp đồng, cho vay có đảm bảo... để thu mua dự trữ, sản xuất, nhập
khẩu nguyên vật liệu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Hoặc cho vay dài hạn để đầu tư dự
án, mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ... Tuỳ vào từng doanh nghiệp mà
Ngân hàng có thể áp dụng những hình thức nhất định sao cho thuận lợi với cả hai bên.
Một đặc điểm khá nổi bật của tín dụng ngân hàng là có khả năng linh hoạt về lãi suất cũng
như thời hạn.
- Các nguồn tài trợ khác: Ngoài các nguồn tài trợ trên các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
còn có thể được tài trợ bằng các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ viện trợ của nước
ngoài, hỗ trợ của Chính phủ...Hiện nay các nguồn này thường cũng được sử dụng thông
qua các Ngân hàng.
Như vậy, nguồn tài trợ cho xuất nhập khẩu rất đa dạng nhưng trong đó nguồn tín dụng
ngân hàng nắm giữ một vị trí đặc biệt bởi nó có thể được cung cấp thông qua nhiều hình
thức cho nhiều mục đích sử dụng khác nhau và các hình thức tài trợ khác muốn thực hiện
được phần nào cũng cần sự hỗ trợ từ phía ngân hàng.
1.1.3. Tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu
1.1.3.1. Khái niệm, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu
Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế được rất nhiều nhà kinh tế học đề cập đến và
do đó cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về tín dụng.
Tuy nhiên, theo cách hiểu chung nhất thì: tín dụng là một quan hệ xã hội giữa người cho
vay và người đi vay, giữa họ có mối liên hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị
vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật.
Trên cơ sở đó ta có thể hiểu “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa
một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các tổ
chức, đơn vị kinh tế-xã hội, các cơ quan Nhà nước và các tầng lớp dân cư ”.
Tín dụng ngân hàng ra đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhờ có khả năng đáp ứng tốt
mọi nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà nó đã không ngừng được mở rộng sang tất
cả các ngành, lĩnh vực khác nhau trong đó có lĩnh vực kinh tế đối ngoại mà cụ thể hơn là
hoạt động xuất nhập khẩu, nó đã trở thành một nguồn tài trợ không thể thiếu đối với hoạt
động xuất nhập khẩu của các quốc gia.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu được thể hiện qua các
mặt sau:
- Thứ nhất, giống như các nguồn tài trợ khác tín dụng ngân hàng là một nguồn vốn quan
trọng đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để thu mua dự trữ, sản xuất, tiêu thụ hàng
hoá, mua sắm máy móc thông thường...phục vụ cho quá trình sản xuất cũng như tái sản
xuất của doanh nghiệp.
- Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp trên thị trường .
- Thứ ba, tín dụng ngân hàng thúc đẩy hoạt dộng xuất nhập khẩu diễn ra thuận lợi nhanh
chóng hơn.
- Thứ tư, do sự cần thiết phải có được những giao dịch dễ dàng ít tốn kém, người bán cũng
như người mua đều cần phải có sự tài trợ của ngân hàng thông qua các hình thức tín dụng
như cho vay mở thư tín dụng, chuyển trả tiền trực tiếp...
- Thứ năm, xuất phát từ tính rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cao và do
việc thiếu hiểu biết lẫn nhau giữa người mua và người bán sự có mặt của ngân hàng sẽ là
một đảm bảo cho cả hai bên, nhà xuất khẩu sẽ hạn chế được những rủi ro không thanh
toán khi ngân hàng đứng ra đảm bảo cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu và ngược lại
nhờ nguồn tín dụng của ngân hàng nhà nhập khẩu thực hiện được những nhập khẩu quan
trọng trong khi khả năng tài chính của họ chưa đáp ứng được.
- Thứ sáu, ngân hàng là một đầu mối tiếp nhận các nguồn tài trợ của nước ngoài cho hoạt
động xuất nhập khẩu. Bởi vì hiện nay phần lớn các nguồn tài trợ của các tổ chức tài chính
- tiền tệ quốc tế cho một quốc gia nào đó được thực hiện qua các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài hoặc ngân hàng nước sở tại.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu càng có ý nghĩa hơn khi
ngân hàng thực hiện các chính sách của Nhà nước, trong đó có chính sách hướng về xuất
khẩu và thay thế nhập khẩu. Ngân hàng sẽ cung cấp cho các nhà xuất nhập khẩu những
khoản tín dụng lớn với lãi suất ưu đãi mà nhờ đó họ có thể giải quyết vấn đề thiếu vốn
trong hoạt động kinh doanh của mình.
1.1.3.2. Các hình thức và qui trình tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại
Tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại bao gồm nhiều hình thức khác nhau
và tuỳ trình độ phát triển của ngân hàng và những qui định của pháp luật mà các ngân
hàng lựa chọn áp dụng các hình thức cho phù hợp. Dưới đây ta sẽ xem xét một số hình
thức tín dụng xuất khẩu và tín dụng nhập khẩu thông dụng.
1.1.3.2.1.Tín dụng xuất khẩu
Ngân hàng thương mại cho các cơ sở xuất khẩu vay dưới các hình thức như cho vay thông
thường, cho vay trên cơ sở hối phiếu, cho vay trên cơ sở phương thức thanh toán nhờ thu,
cho vay trên cơ sở phương thức thanh toán tín dụng chứng từ ...
Cho vay thông thường
Cho vay thông thường là việc ngân hàng giao cho khách hàng một khoản tiền để họ
sử dụng trong một thời gian nhất định. Khi hết hạn, người vay phải trả đầy đủ cả gốc và
lãi. Đây là hình thức tín dụng truyền thống, về kỹ thuật và phương pháp cho vay giống như
các dạng tín dụng nội địa tương ứng thông thường khác. Nó bao gồm các phương thức như
cho vay một lần, cho vay theo hạn mức tín dụng và cho vay theo hợp đồng tín dụng tuần
hoàn. Đối với các nhà xuất khẩu hình thức tín dụng này ngoài việc được sử dụng cho các
mục đích thu mua sản xuất, chế biến xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động nó còn
được sử dụng để trang trải các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất như: phí thuê tàu,
thuế xuất khẩu...
Cho vay trên cơ sở hối phiếu
Nhà xuất khẩu khi cần tiền có thể vay ngân hàng bằng cách đem chiết khấu các hối
phiếu chưa đến hạn trả tiền (số tiền vay bằng cách chiết khấu hối phiếu thường nhỏ hơn số
tiền ghi trên hối phiếu. Số chênh lệch là lợi tức chiết khấu). Hình thức tín dụng này rất phổ
biến ở các nước bởi vì việc chiết khấu thường dễ dàng và ngay khi giao chứng từ về hàng
hoá người xuất khẩu đã có thể sử dụng được lợi nhuận của hoạt động xuất khẩu để tái đầu
tư.
Thời hạn vay bằng cách chiết khấu hối phiếu là thời hạn còn lại chưa đến hạn thanh
toán của hối phiếu. Người hoàn trả tiền vay và lợi tức là người có nghĩa vụ trả tiền ghi trên
hối phiếu.
Cơ sở để xác định khối lượng tín dụng này là giá trị của hối phiếu sau khi đã trừ đi
giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu.
Trong các yếu tố trên thì lãi suất chiết khấu thường được quan tâm hơn cả. Tỷ lệ
này phụ thuộc các yếu tố:
- Khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu
- Thời hạn thanh toán
- Giá trị hối phiếu...
Chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá
Đây là hình thức tín dụng của ngân hàng cấp cho nhà xuất khẩu trên cơ sở chiết khấu bộ
chứng từ trước khi đến hạn thanh toán. Với hình thức này ngân hàng tạo điều kiện cho nhà
xuất khẩu có thể thu hồi được vốn nhanh tương tự như chiết khấu hối phiếu. Tỉ lệ chiết
khấu phụ thuộc vào phương thức chiết khấu:
- Chiết khấu bảo lưu quyền truy đòi: là ngân hàng sau khi thực hiện chiết khấu bộ
chứng từ, sẽ quay lại truy đòi nhà xuất khẩu nếu bên nước ngoài từ chối thanh toán, lãi
xuất chiết khấu trong trường hợp này thường thấp.
- Chiết khấu miễn truy đòi: là trường hợp ngân hàng mua đứt bộ chứng từ, nếu bên
nước ngoài không thanh toán thì ngân hàng chiết khấu chịu rủi ro, không được truy đòi lại
khách hàng. Tỉ lệ chiết khấu này thường cao.
Tín dụng ứng trước cho người xuất khẩu
Trong quá trình chuẩn bị và thực hiện hợp đồng xuất khẩu các doanh nghiệp cũng có thể
đề nghị ngân hàng tạm ứng cho một nghiệp vụ xuất khẩu cho đến khi thu được lợi nhuận
từ hoạt động xuất khẩu. Hình thức tín dụng này bao gồm hai hình thức cơ bản sau:
- Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ : Sau khi lập song bộ
chứng từ hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm và các chứng từ liên quan khác, nhà xuất khẩu
sẽ nộp lên ngân hàng của mình nhờ thu hộ tiền. Ngân hàng của nhà xuất khẩu sẽ chuyển
đến ngân hàng của nhà nhập khẩu (hoặc ngân hàng giao dịch) với chỉ thị chỉ giao chứng từ
khi đã thanh toán (điều kiện D/P: Documents against Payment) hoặc chấp nhận một hối
phiếu đòi nợ kèm theo (điều kiện D/A: Documents against Acceptance).
Trong nghiệp vụ này ngân hàng tham
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_hthuc_tdung_xnk_va_ptrien_tai.pdf