Lờiđồn thổi xuấtphát từđâu?
Pavel Karaulov một CEO của hãng phân phối điện thoại
DIVIZION, Nga, và là một tín đồ nhiệt thành của marketing virus.
Theo lời ông, con người tin vào lời đồn một cách vô ý thức. Ví dụ,
khi chọn một hãng du lịch, một chiếc ô-tô hay một đồ kỹ thuật điện
gia dụng nào đó, thì thông tin đầu tiên mà mọi người dựa vào
không phải từ quảng cáo mà là từ lời khuyên của bè bạn.
Theo thống kê, một người có thể truyền một thông tin hữu ích đến
cho 16 người khác. Còn trong trường hợp, đó là một tin tồi tệ thì
lượng “thích giả” của họ có thể gấp từ 4-10 lần con số trên. Lời
đồn truyền đi rất nhanh giống như virus, chính vì vậy, việc tạo ra
những làn sóng đồn thổi còn được gọi là marketing virus.
Marketing virus không có bất cứ một sự giới hạn nào cả. Tất cả
phụ thuộc vào chính sách của công ty, những biện pháp nào họ có
thể chấp nhận và họ muốn có một danh tiếng như thếnào.
8 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1332 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đề tài Biến lời đồn thổi thành... tiền!, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Biến lời đồn thổi thành... tiền!
Như Quỳnh (Tổng hợp từ MyBiz)
Tiếp thị xa xưa thường gắn liền
với... cái miệng của người tiêu
dùng. Và ngày nay, sau hàng
loạt phát kiến mới về
marketing, nhiều công ty đã thu
hút khách hàng bằng cách sử
dụng phương pháp marketing
virus. Một cái tên hiện đại cho
một phương pháp xưa cũ như
trái đất. Marketing virus hiểu
một cách đơn giản là tạo ra
những làn sóng đồn thổi tích cực về công ty cũng như về sản
phẩm/dịch vụ của bạn.
Lời đồn thổi xuất phát từ đâu?
Pavel Karaulov một CEO của hãng phân phối điện thoại
DIVIZION, Nga, và là một tín đồ nhiệt thành của marketing virus.
Theo lời ông, con người tin vào lời đồn một cách vô ý thức. Ví dụ,
khi chọn một hãng du lịch, một chiếc ô-tô hay một đồ kỹ thuật điện
gia dụng nào đó, thì thông tin đầu tiên mà mọi người dựa vào
không phải từ quảng cáo mà là từ lời khuyên của bè bạn.
Theo thống kê, một người có thể truyền một thông tin hữu ích đến
cho 16 người khác. Còn trong trường hợp, đó là một tin tồi tệ thì
lượng “thích giả” của họ có thể gấp từ 4-10 lần con số trên. Lời
đồn truyền đi rất nhanh giống như virus, chính vì vậy, việc tạo ra
những làn sóng đồn thổi còn được gọi là marketing virus.
Marketing virus không có bất cứ một sự giới hạn nào cả. Tất cả
phụ thuộc vào chính sách của công ty, những biện pháp nào họ có
thể chấp nhận và họ muốn có một danh tiếng như thế nào.
Ví dụ, một hãng quảng cáo đã thực hiện chiến dịch PR gây sốc cho
một tổng đài điện thoại Tele2 GSM như sau: trong thời gian các
học sinh cuối cấp ba tổ chức lễ bế giảng cuối cùng của đời học
sinh, một nhóm các cô gái – những người mặc đồng phục học sinh
cải trang thành một bà bầu vào tháng cuối và trước ngực có đeo
bảng với dòng chữ: “Mẹ ơi, con chưa có điện thoại Tele2 GSM!” -
đi trên đường phố trung tâm. Chiến dịch PR này đã dấy lên một làn
sóng đồn thổi và làm tăng đáng kể danh tiếng của nhãn hiệu này.
Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng cho phép mình sử
dụng cách PR như vậy.
Im lặng là vàng
DIVIZION đã sử dụng marketing virus khi muốn thay đổi thương
hiệu của mình. Vài năm trước, hãng có tên MegaPhon. Do muốn
phát triển thị trường trên toàn nước Nga, những người chủ của
hãng nghĩ ra một cái tên mới là – DIVIZION. Sau đó, trong suốt ba
tháng hãng hoàn toàn im lặng không đưa ra bất cứ một thông tin
chính thức nào về việc điều gì đã xảy ra với những cửa hàng
MegaPhon cũ.
- Điều này đã tạo ra rất nhiều lời đồn thổi từ phía những đối tác của
chúng tôi. Khi sự quan tâm lên tới đỉnh điểm, - Pavel Karaulov
nhớ lại, - thì chúng tôi tổ chức hội nghị các đối tác dưới cái tên
mới - DIVIZION. Sự kiện đã thành công rực rỡ: rất nhiều cửa hàng
bán điện thoại di động từ các tỉnh đã đến dự hội nghị, và giới báo
chí cũng công bố tin này rộng rãi trên các phương tiện truyền
thông đại chúng. Nếu sử dụng những biện pháp truyền thống và
thông tin về sự thay đổi ngay từ đầu, thì chắc chắn là chúng tôi
không đạt được thành công đến như vậy.
“Ba hoa” bằng công nghệ
Trước khi thực hiện một chiến dịch virus, phải xác định bạn cần
đồn thổi thông tin như thế nào. Để làm được điều này, bạn phải xác
định được khách hàng mục tiêu của bạn là ai? Họ quan tâm đến
những điều gì? Ví dụ, như công ty DIVIZON, với sự trợ giúp của
các nghiên cứu makerting hãng được biết gần như 100% đối tác
tiềm năng của mình đều sử dụng Internet. Vì vậy, DIVIZION
quyết định tiến hành chiến dịch PR trên mạng: chi phí rất thấp mà
thông tin lại đến đúng đối tượng cần nhắm tới.
Không nên sử dụng một kênh truyền tin duy nhất. Thông tin đã
tung ra cần được hỗ trợ bằng những lời đồn truyền từ người này
sang người khác. DIVIZION đã k ý kết hợp đồng với hai công ty
quảng cáo tầm quốc gia - hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh của
họ - và với các hãng quảng cáo địa phương – những đơn vị thông
thổ thị trường bản địa. Những công ty này không những có nhiệm
vụ truyền đi những lời đồn mà còn thực hiện các chiến dịch quảng
cáo truyền thống khác.
Khi thực hiện những chiến dịnh PR trên Internet, bạn hãy mạnh
dạn hợp tác với các công cụ tìm kiếm. Thông thường, “tuổi thọ”
của một lời-đồn-thổi trên mạng là khoảng một tháng. Sau đó thông
tin sẽ mất đi tính thời sự. “Sức sống” mãnh liệt nhất mà chúng đạt
được và bảy ngày sau khi “ra đời”. Kết quả đạt được của một lời-
đồn-thổi như vậy vào khoảng từ 4.000-7.500 lượng người cập nhập
web site của công ty trong vòng từ 3-4 ngày. Tuy nhiên, cũng có
những trường hợp đặc biệt, lời đồn “sống” trên mạng tới một năm
hoặc hơn. Những thông tin virus thường được truyền qua e-mail và
các công cụ chat.
Chủ đề được bàn tán nhiều nhất là – sex và những người nổi tiếng.
DIVIZION không sử dụng những lời đồn “gợi tình” nhưng sử
dụng chủ đề thứ hai. Trên báo chí, bạn hay đọc được những thông
tin rằng: “ngôi sao” này sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu nào
và tại sao. DIVIZION thực hiện phỏng vấn những nhân vật nổi
tiếng sau đó thêm “mắn thêm muối” vào đó và truyền đi trên mạng.
Ba chiến dịch virus do ba nhân viên của DIVIZION thực hiện
trong bốn tháng đã tăng số lượng đơn đặt hàng của hãng thông qua
Internet lên 21%. Các chiến dịch này hướng tới những người sử
dụng Internet trong độ tuổi từ 14-30.
Trẻ em làm marketing
Ở Phương Tây, marketing virus đã trở nên khá thông dụng. Các
doanh nghiệp tích cực sử dụng các khách hàng trung thành của
mình. In Zone Brands Inc., một hãng của Mỹ sản suất nước hoa
quả và nước ngọt cho trẻ em, cho rằng kênh truyền tin tốt nhất
chính là trẻ em. Tại Atlanta, nơi đặt trụ sở của hãng, có câu lạc bộ
dành cho những người yêu thích nước ngọt BellyWashers do một
bé gái 10 tuổi tổ chức. Những đứa trẻ yêu thích các sản phẩm của
In Zone Brands còn tổ chức những hoạt động từ thiện – phân phát
nước ngọt BellyWashers trong các dịp Noel tại các bệnh viện nhi
đồng, dọn dẹp những công viên công cộng có cắm những lá cờ in
nhãn hiệu của loại nước ngọt này, tổ chức các hội chợ dành cho
những đứa trẻ trong các gia đình thiếu người trụ cột...
Nhưng điều quan trọng nhất – trẻ con hoàn toàn nhiệt tình và chân
thành khuyên bạn mình khác dùng thử thứ nước ngọt yêu thích của
chúng. Các hãng thông tấn địa phương cũng rất quan tâm đến hoạt
động của fan-club này – vì vậy, những thành viên của nó có điều
kiện kể về sản phẩm yêu thích của mình cho các bạn cùng trang
lứa trên các phương tiện truyền thông. In Zone Brands Inc. còn
thành lập nhóm cố vấn-trẻ em cho hội đồng quản trị hãng. Những
khách hàng nhỏ tuổi và thành viên của nhóm này có ảnh hưởng tới
chiến lược của hãng trong lĩnh vực: chủng loại mặt hàng;
marketing; đảm bảo sự gắn kết với khách hàng và ngoài ra chúng
còn tổ chức nhiều hoạt động dưới sự bảo trợ của hãng.
In Zone Brands chi cho nhóm cố vấn-trẻ em này khoảng 60 nghìn
USD/một năm và họ cho rằng đây là điều hoàn toàn bình thường.
Trong vòng ba năm cuối, doanh số bán hàng của hãng tăng hơn
gấp đôi. Hơn nữa, các bậc phụ huynh cũng rất vui khi thấy con
mình yêu thích các hoạt động xã hội.
Tin đồn cũng là công việc kinh doanh
Hãng BzzAgent ở Boston đã kinh doanh trên thiên hướng chung
của mọi người là đều muốn chia sẻ với nhau những thông tin thú
vị. Hãng đã có tới 25 nghìn đặc phái viên, trong đó hơn 60% là
những người hơn 25 tuổi và nghiêm túc và có hai người là chủ các
doanh nghiệp trong danh sách 500 công ty được tạp chí Fortune
bình chọn. Hàng ngày, đội ngũ những “truyền tin” của BzzAgent
lại được bổ sung thêm từ 30-100 người. Hãng nhận những hợp
đồng quảng cáo và đề nghị những đặc phái viên của mình kể với
tất cả mọi người những ưu điểm của sản phẩm/dịch vụ mà họ thấy
thích thú. Những người tự nguyện này nhận được những bản mẫu
hướng dẫn về chiến lược thực hiện marketing virus. Họ khen ngợi
sản phẩm mới với những người quen và những nhân viên bán hàng
trong các cửa hàng, gửi thông tin về sản phẩm qua thư điện tử đến
những người có ảnh hưởng trong xã hội. Và những người này
truyền tiếp những tin nhận được đến những người khác nhưng dưới
những e-mail k ý tên mình.
BzzAgent soạn thảo hệ thống lựa chọn những đặc phái viên của
mình để loại bỏ những người không nghiêm túc. Các ứng viên phải
điền vào một bản khai, trong đó ghi rõ tuổi, trình độ học vấn, các
sở thích và mức thu nhập. Các nhân viên điều hành của hãng sẽ
xác định ai quảng cáo cho sản phẩm mới nào. Sau đó, những đặc
phái viên sẽ nhận được bản hướng dẫn cách truyền tin đồn và báo
cáo những hành động của mình với hãng.
Những khách hàng đặt một chiến dịch virus 12 tuần với sự tham
gia của 1.000 đặc phái viên phải trả 85 nghìn USD, chưa kể những
chi phí cho các bản hướng dẫn hành động. Nhưng kết quả thu được
xứng với đồng tiền đã bỏ ra. Ví dụ, những ông chủ của hệ thống
cửa hàng ăn Rock Bottom phát hiện thấy doanh số của hãng tăng
1,2 triệu USD khi những khách hàng quen của họ bắt đầu làm việc
cho BzzAgent.
Những chú ong thích giao thiệp
Một chuyên gia marketing người Mỹ - Merien Selzman, giám đốc
phát triển chiến lược của một công ty PR tầm cỡ thứ năm trên thế
giới Euro RSCG Worlwide – nói rằng: gần đây các công ty có xem
xét đến phương án tận dụng những người đầu tiên sử dụng những
sản phẩm mới để làm “máy phát” tin đồn.
Tuy nhiên, những người này thông thường lại không sẵn sàng chia
sẻ với ai đó về một sản phẩm mà họ vừa mới thử. Vì vậy, các chiến
dịch virus khó trông cậy được vào họ mà phải nhắm tới những
người mà Selzman gọi là “những chú ong”. Đó là những người với
bản chất thích giao thiệp. Đối với họ, việc tận hưởng một mình
những lợi ích của một loại sản phẩm mới nào đó là không đủ, họ
luôn có khuynh hướng chia sẻ điều này với bạn bè và người quen.
Truyền và trao đổi thông tin là một phần cuộc sống của họ.
Selzman gọi những người tiêu dùng này là “sợi chỉ quan trọng của
cuộc sống” để tạo ra khuynh hướng và nhu cầu đại chúng. Rất nên
khuyến khích những đồng minh bất ngờ này để họ nói về bạn và
sản phẩm của bạn với những người khác.
«Chuyển đến những người bạn»
Công nghệ điện tử cho phép việc trao đổi thông tin được diễn ra
một cách chớp nhoáng. Ngày nay, một “khách hàng-con ong” nếu
thấy hài lòng, thì họ chỉ cần ấn nút là thông tin tích cực về sản
phẩm/dịch vụ của bạn được truyền đến cho 10 người khác. Nhiều
công ty đã biết cách tận dụng điều này, họ treo lên trang web của
mình những bức thư với nút bấn “chuyển đến những người bạn”.
Ngoài ra, hãng marketing-internet Perelom còn nghĩ ra những bức
ảnh vui nhộn, nhưng câu chuyện cười... và gửi tới một số địa chỉ.
Nếu người nhận thích thú họ sẽ tiếp tục gửi đến những người khác
nữa... Và chỉ sau vài tiếng sẽ có tới hàng trăm người nhận được tin
nhắn này.
Hiển nhiên, trong tin nhắn sẽ có kèm một thông tin hoặc một
đường link nào đó – có thể là địa chỉ dẫn đến trang web của công
ty bạn. Quan trọng là họ đã đến với bạn, còn sau đó tất cả phụ
thuộc vào công nghệ giữ chân khách hàng của bạn.
PR đen
Tuy nhiên, không phải bất cứ một câu chuyện đồn thổi nào cũng
đem lại lợi ích cho công ty. Tất cả những hãng đã thực hiện các
chiến dịch virus đều nhận xét: không thể kiểm soát được luồng tin
từ đầu đến cuối. Và điều kinh khủng nhất là những lời đồn tiêu cực
do các đối thủ cạnh tranh tạo ra. Năm 2005, trên thị trường bảo
hiểm Nga đã xảy ra một vụ bê bối giữa hai hãng bảo hiểm
Rosgostrakh và РОСНО. Thoạt tiên, Rosgostrakh kiện РОСНО vì
đã truyền đi những thông tin sai lệnh về hãng. РОСНО phải bồi
thường bên nguyên một khoản tiền lớn, sau đó lại kiện lại
Rosgostrakh với bản cáo trạng y hệt như Rosgostrakh đã đem kiện
РОСНО.
Ví dụ thực tiễn
Nội dung: “Những thanh niên sành điệu”.
Nhiệm vụ: Hãng bia Penn, Nga, muốn sau một tháng tăng số các
thanh niên được coi là sành điệu, sống ở Mátxcơva, tuổi từ 21-26,
biết về nhãn hiệu bia mới – Penn’s lên 10%.
Cách giải quyết: hãng thỏa thuận với một câu lạc bộ ở Mát-xcơ-va
hàng tuần tổ chức một “tối vui sành điệu”. Hãng chọn trên các
forum trên mạng và trong các web site làm quen những gương mặt
có hình thức và đặc điểm thích hợp để thực hiện chiến dịch virus.
Đó là 20 nữ và hai 20 nam thanh niên được coi là sành điệu. Họ
được mời đến dự buổi tối vui đã được nói đến ở trên. Mỗi chàng
trai và các cô gái được đề nghị dẫn thêm bốn người bạn – cũng là
những người sành điệu khác. Các đại điện của các show-thời trang
cũng được mời đến. Khung cảnh câu lạc bộ được trang trí trên nền
màu của hãng và logotype bia Penn’s.
Kết quả: Sau một tháng, theo kết quả trưng cầu ý kiến do hãng tiến
hành, số những thanh niên sành điệu biết đến nhãn hiệu bia Penn’s
tăng lên không phải 10% mà là 28%.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7612_bien_loi_don_thoi_thanh.pdf