Đề tài Bảo hiểm y tế học sinh - Sinh viên tại Việt Nam

 

“Sức khoẻ là vốn quý nhất của con người”. Không một người dân nào lại mong muốn mình bị bệnh tật, ốm đau hay gặp tai nạn, song cũng không ai có thể tránh khỏi điều đó. Vì vậy ở bất kỳ quốc gia nào, công tác chăm sóc sức khoẻ luôn được đặt lên hàng đầu. Với học sinh-sinh viên, thế hệ tương lai của đất nước, việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục sức khoẻ được coi là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp trồng người của Đảng và Nhà nước, là mối quan tâm của mỗi gia đình và toàn xã hội. Một trong những giải pháp để hoàn thành nhiệm vụ nói trên là thực hiện chương trình Bảo hiểm y tế (BHYT) tự nguyện cho học sinh-sinh viên, được triển khai ở nước ta từ năm 1994. Sau hơn 10 năm thực hiện, công tác này đã thu được những kết quả nhất định, khẳng định hướng đi đúng và sự cần thiết của BHYT học sinh-sinh viên. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước tiến tới BHYT toàn dân vào năm 2010, nhằm mở rộng hơn nữa công tác BHYT học sinh-sinh viên, để BHYT học sinh-sinh viên thực sự là người bạn đồng hành của học sinh-sinh viên em đã lựa chọn đề tài:

“BHYT HỌC SINH - SINH VIÊN TẠI VIỆT NAM ”

 

Kết cấu đề tài gồm 4 phần:

CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHYT.

CHƯƠNG II :THỰC TRẠNG BHYT CHO HỌC SINH – SINH VIÊN TẠI VIỆT NAM.

CHƯƠNG III:. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP.

 

doc34 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Bảo hiểm y tế học sinh - Sinh viên tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LờI Mở ĐầU “Sức khoẻ là vốn quý nhất của con người”. Không một người dân nào lại mong muốn mình bị bệnh tật, ốm đau hay gặp tai nạn, song cũng không ai có thể tránh khỏi điều đó. Vì vậy ở bất kỳ quốc gia nào, công tác chăm sóc sức khoẻ luôn được đặt lên hàng đầu. Với học sinh-sinh viên, thế hệ tương lai của đất nước, việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục sức khoẻ được coi là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp trồng người của Đảng và Nhà nước, là mối quan tâm của mỗi gia đình và toàn xã hội. Một trong những giải pháp để hoàn thành nhiệm vụ nói trên là thực hiện chương trình Bảo hiểm y tế (BHYT) tự nguyện cho học sinh-sinh viên, được triển khai ở nước ta từ năm 1994. Sau hơn 10 năm thực hiện, công tác này đã thu được những kết quả nhất định, khẳng định hướng đi đúng và sự cần thiết của BHYT học sinh-sinh viên. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước tiến tới BHYT toàn dân vào năm 2010, nhằm mở rộng hơn nữa công tác BHYT học sinh-sinh viên, để BHYT học sinh-sinh viên thực sự là người bạn đồng hành của học sinh-sinh viên em đã lựa chọn đề tài: “BHYT học sinh - sinh viên tại việt nam ” Kết cấu đề tài gồm 4 phần: Chương i : lý luận chung về bhyt. Chương ii :thực trạng bhyt cho học sinh – sinh viên tại việt nam. Chương iii:. đề xuất kiến nghị và giải pháp. Chương i: lý luận chung về bhyt. i. cơ sở lý luận về bhyt. Khái niệm và vai trò của BHYT. Khái niệm và giải thích khái niệm. Khái niệm: BHYT là hoạt động thu phí bảo hiểm và đảm bảo thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm theo mức độ và phạm vi đã thoả thuận BHYT là một trong những bộ phận quan trọng của chính sách xã hội mỗi quốc gia, ở Việt Nam BHYT đã và đang triển khai áp dụng cho rất nhiều đối tượng tham gia dưới hai hình thức bắt buộc và tự nguyện. Mức phí đóng BHYT không đồng nhất mà tuỳ thuộc vào từng nhóm đối tượng và theo từng khu vực. Tham gia BHYT họ sẽ được cấp phiếu KCB và được hưởng chế độ KCB BHYT mà trước hết là chăm sóc sức khoẻ ban đầu ( như hướng dẫn giữ gìn vệ sinh cá nhân, kiểm tra sức khoẻ, sơ cứu tai nạn, ốm đau đột xuất...), những chi phí này do cơ quan BHXH bảo đảm, người có thẻ BHYT không phải nộp một khoản tiền nào. Nếu người có thẻ BHYT đi KCB thì họ sẽ được thanh toán 80% viện phí, phần còn lại họ phải tự trả. Thực tế, BHYT Việt Nam đã chi trả hàng chục thậm chí hàng trăm triệu đồng cho nhiều trường hợp, lớn hơn rất nhiều so với mức phí người bệnh đóng góp. Đây chính là sự thể hiện rõ nhất nguyên tắc “ số đông bù số ít “, càng có nhiều người tham gia thì rủi ro càng được phân tán, chia sẻ. Xét về bản chất xã hội, BHYT là sự tập hợp có tổ chức của các thành viên xã hội nhằm chống lại những biến cố, rủi ro, bất hạnh của mỗi cá nhân. Nhờ sự hợp sức, đoàn kết trên tinh thần tương trợ này mà những rủi ro, biến cố, khó khăn của các cá nhân sẽ được dàn trải trên phạm vi rộng, giúp họ giảm gánh nặng tài chính, nhanh chóng khắc phục khó khăn. BHYT mang trong mình bản chất xã hội sâu sắc nhưng cũng cần hiểu rõ rằng BHYT không phải là sự ban ơn, sự chiếu cố của xã hội mà đó là trách nhiệm của xã hội đối với thành viên của mình. Điều đó vừa thể hiện trình độ văn minh, tính tổ chức xã hội, vừa thể hiện bản chất nhân văn, tính người của mỗi cá nhân. Về bản chất kinh tế, có thể khẳng định ngay BHYT không nhằm mục đích kinh doanh, lợi nhuận nhưng lại là công cụ thực hiện phân phối lại thu nhập xã hội. Tuy nhiên sự phân phối nàykhông có nghĩa là lấy của người giàu chia cho người nghèo một cách cực đoan hay mang tính bình quân mà còn dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động, đảm bảo công bằng mà ở đó có người được trợ giúp nhiều , có người được trợ giúp ít. Phần hưởng của người thụ hưởng còn phải được tính toán trên cơ sở đóng góp và mức độ của các rủi ro, biến cố. 1.2. Vai trò của BHYT. BHYT ra đời vào cuối thế kỷ XIX đã đáp ứng được nhu cầu của con người và ngày càng tỏ ra là không thể thiếu được trong đời sống nhân dân. Vai trò của BHYT là vô cùng quan trọng. Thứ nhất, giúp những người tham gia BHYT khắc phục khó khăn về kinh tế khi bất ngờ bị ốm đau, bệnh tật vì việc khám, chữa, điều trị chi phí rất tốn kém, ảnh hưởng đến ngân sách gia đình, trong khi thu nhập của họ bị giảm đáng kể, thậm chí mất thu nhập. Từ đó góp phần ổn định cuộc sống của họ và gia đình, vai trò này thể hiện rõ nhất đối với người nghèo trong xã hội có thu nhập thấp. Thứ hai, góp phần giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước. Các quốc gia trên thế giới thường có khoản chi từ ngân sách cho hệ thống y tế. Tuy nhiên, ở một số quốc gia đặc biệt là những nước đang phát triển, khoản chi này thường chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển ngành y. ở nhiều nước trên thế giới, Nhà nước chỉ đầu tư khoảng 60% ngân sách y tế, hoặc chỉ đầu tư ban đầu cho việc hình thành bệnh viện. Như vậy, Ngân sách y tế vẫn bị thiếu hụt. Có nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề này như sự đóng góp của cộng đồng xã hội, trong đó có biện pháp thu phí của người đến khám, chữa bệnh. Nhưng đôi khi giải pháp này lại vấp phải trở ngại từ mức sống của dân cư. Vì vậy, biện pháp hiệu quả nhất là thực hiện BHYT để giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước, hỗ trợ cho Ngân sách y tế, khắc phục sự thiếu hụt về tài chính, đảm bảo đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người dân. Thứ ba, góp phần nâng cao chất lượng KCB. Từ sự thiếu hụt Ngân sách y tế dẫn đến nhu cầu KCB không được đáp ứng do số lượng và chất lượng cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế không những không theo kịp nhu cầu KCB của người dân mà còn bị giảm sút, kìm hãm sự phát triển y học. Thông qua việc đóng góp vào quỹ BHYT, vấn đề này sẽ được khắc phục. Thứ tư, góp phần thực hiện công bằng xã hội trong khâu khám, chữa bệnh vì sau khi tham gia BHYT thì mọi người dân bất kể giàu nghèo đều được KCB và chăm sóc sức khoẻ tại các cơ sở y tế, do đó đảm bảo được công bằng xã hội. Thứ năm, nâng cao ý thức cộng đồng đối với tất cả người dân trong xã hội trên tinh thần “mình vì mọi người, mọi người vì mình” thông qua quy luật số lớn. Vì vậy, mọi thành viên trong xã hội gắn bó với nhau hơn, đặc biệt là gắn bó với chế độ xã hội. 2. Phương thức bhyt: Căn cứ vào mức độ thanh toán chi phí KCB cho người có thẻ BHYT, BHYT được phân ra: -BHYT trọn gói: là phương thức BHYT trong đó cơ quan BHYT sẽ chịu trách nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người được BHYT. -BHYT trọn gói, trừ các đại phẫu thuật: là phương thức BHYT trong đó cơ quan BHYT sẽ chịu trách nhiệm về mọi chi phí y tế huộc phạm vi BHYT cho người được BHYT, trừ các chi phí y tế cho các cuộc đại phẫu thuật (theo quy định của cơ quan y tế). -BHYT thông thường: là phương thức BHYT trong đó trách nhiệm của cơ quan BHYT được giới hạn tương xứng vói trách nhiệm và nghĩa vụ của người được BHYT. Đối với các nước phát triển, mức sống dân cư cao, hoạt động BHYT đã có từ lâu và phát triển, có thể thực hiện BHYT theo cả ba phương thức trên. Đối với các nước nghèo, mới triển khai hoạt động BHYT thường áp dụng phương thức BHYT thông thường. Với phương thức này, có hai hình thức tham gia bảo hiểm, đó là BHYT bắt buộc và BHYT tự nguyện. 3. Những nội dung cơ bản của bhyt: 3.1. Đối tượng bảo hiểm: Hoạt động y tế thường bao gồm: Phòng bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng. Tuỳ thheo tính chất và phạm vi hoạt động, BHYT ở mỗi quốc gia có tên gọi khác nhau như bảo hiểm sức khoẻ (có thể gồm cả phòng bệnh và chữa bệnh ; chữa bệnh và phục hồi chức năng ; hoặc cả ba) hay BHYT ( thường chỉ gồm hoạt động chữa bệnh). Dù tên gọi khác nhau nhưng đối tượng BHYT đều là sức khoẻ của người được bảo hiểm, có nghĩa là nếu người được bảo hiểm gặp rủi ro về sức khoẻ (bị ốm đau, bệnh tật...) thì sẽ được cơ quan BHYT xem xét chi trả những chi phí khám chữa bệnh phát sinh. BHYT nói riêng và bảo hiểm sức khoẻ nói chung là một dịch vụ bảo hiểm rất phổ biến trên thế giới và được đông đảo nhân dân tham gia. Đối tượng tham gia BHYT là mọi người dân có nhu cầu BHYT cho sức khoẻ của mình hoặc cũng có thể là một người đại diện cho một tập thể, một đơn vị, một cơ quan...đứng ra ký kết hợp đồng BHYT cho tập thể, đơn vị, cơ quan...đó. Trong trường hợp này, mỗi cá nhân tham gia BHYT tập thể sẽ được cấp một văn bản chứng nhận quyền lợi BHYT của riêng mình. Đó là giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc thẻ bảo hiểm tuỳ theo cách gọi ở mỗi nước. Trong thời kỳ đầu mới triển khai BHYT, thông thường các nước đều có hai nhóm đối tượng tham gia: bắt buộc và tự nguyện. Hình thức bắt buộc áp dụng với công nhân viên chức Nhà nước và một số đối tượng như người về hưu có hưởng lương hưu...Hình thức tự nguyện áp dụng cho mọi thành viên khác trong xã hội có nhu cầu và thường giới hạn trong độ tuổi nhất định tuỳ theo từng quốc gia. 3.2. Phạm vi bảo hiểm: BHYT là một chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của các cá nhân, tập thể để thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm. BHYT hoạt động trên nguyên tắc cân bằng thu chi nên thực tế BHYT không chấp nhận bảo hiểm cho những người mắc bệnh nan y nếu không có thoả thuận gì thêm. Những người đã tham gia BHYT khi gặp rủi ro về sức khoẻ (như ốm đau, bệnh tật) đều được thanh toán chi phí KCB với nhiều mức độ khác nhau tại các cơ quan y tế. Tuy nhiên, nếu KCB trong các trường hợp cố tình tự huỷ hoại bản thân, trong tình trạng say, vi phạm pháp luật hoặc một số trường hợp loại trừ theo quy định của BHYT...thì không được cơ quan BHYT chịu trách nhiệm. Ngoài ra, mỗi quốc gia đều có những chương trình sức khoẻ quốc gia khác nhau, trong đó quy định một số loại bệnh mà người đến KCB đó được Ngân sách của chương trình (hoặc Ngân sách Nhà nước) đài thọ chi phí. Cơ quan BHYT cũng không có trách nhiệm đối với người được BHYT nếu họ khám, chữa những bệnh thuộc chương trình này. Thông thường phạm vi BHYT của nhóm BHYT tự nguyện linh hoạt hơn nhóm BHYT bắt buộc. 3.3. Quỹ BHYT: Quỹ BHYT là một quỹ tài chính độc lập có quy mô phụ thuộc chủ yếu vào số lượng thành viên đóng góp và mức độ đóng góp vào quỹ của các thành viên đó. Quỹ BHYT được hình thành chủ yếu từ nguồn đóng góp của người tham gia bảo hiểm, gọi là phí bảo hiểm. Nếu người tham gia BHYT là người lao động và người sử dụng lao động thì quỹ BHYT được hình thành từ sự đóng góp của cả hai bên. Thông thường người sử dụng lao động đóng 50-66% mức phí bảo hiểm, người lao động đóng 34-50% mức phí bảo hiểm. Ngoài ra, quỹ BHYT còn được bổ sung bằng một số nguồn khác như: sự hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước ( thông thường chỉ trong trường hợp quỹ có dấu hiệu mất khả năng chi trả), sự đóng góp và ủng hộ của các tổ chức từ thiện, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi theo quy định của các văn bản pháp luật về BHYT nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Sau khi hình thành, quỹ BHYT được sử dụng như sau: - Chi thanh toán chi phí y tế cho người được BHYT. Đây là khoản chi thường xuyên lớn nhất của quỹ BHYT. - Chi dự trữ, dự phòng dao động lớn. - Chi đề phòng, hạn chế tổn thất. - Chi quản lý. Nếu cơ quan BHYT không phải là đơn vị kinh doanh thì không phải nộp thuế cho Nhà nước. Tỷ lệ và quy mô các khoản chi này thường được quy định trước bởi cơ quan BHYT và có thể thay đổ theo từng điều kiện cụ thể. Hoạt động BHYT thường có hai hình thức bắt buộc và tự nguyện, mức phí BHYT cũng khác nhau. Đối với BHYT bắt buộc, mức phí thường quy định thống nhất, còn đối với BHYT tự nguyện thì mức phí thay đổi theo từng hợp đồng BHYT. Việc chi trả cũng không gống nhau. ii. bhyt ở một số nước trên thế giới. bhyt ở Trung Quốc: Hiện nay ở Trung Quốc có khoảng 900 triệu nông dân, chiếm 70% dân số cả nước. Thực tế cho thấy rất nhiều nông dân khi mắc bệnh, do không có khả năng tự trang trải các chi phí, đã phải vay mượn chồng chất, không trả được dẫn đến kết cục đáng tiếc. ở các vùng nông thôn Trung Quốc hiện nay có khoảng 80 triệu người sống dưới mức nghèo khổ. Trong khi đó, 90% nông dân phải tự chi trả hoàn toàn mọi phí tổn y tế. Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ Trung Quốc vừa phát động chương trình hành động chưa từng có là thành lập hệ thống BHYT hợp tác kéo dài 8 năm ở các vùng nông thôn nhằm giúp họ giải toả bớt những lo lắng về tài chính, có điều kiện điều trị bệnh kịp thời, giảm bệnh tật và yên tâm làm ăn. Phương thức huy động tiền quỹ hợp tác sẽ từ 3 phía: chính quyền Trung ương, ban quản lý địa phương và từ chính các nông dân. Số tiền đóng góp sẽ phụ thuộc vào đặc điểm địa lý, xã hội của từng vùng khác nhau. Nông dân sẽ được nhận phần tiền trợ cấp y tế theo mức độ bệnh cũng như chế độ viện phí. Chính vì vậy, hiện nay ở Trung Quốc có hai hình thức BHYT chính: BHYT đối với công nhân( do Bộ lao động quản lý) và BHYT vùng nông thôn( do Bộ y tế quản lý). BHYT đối với công nhân đã có tác dụng thiết thực trong việc giảm lãng phí ở bệnh viện, từ đó nâng cao hiệu quả phục vụ bệnh nhân và tăng quỹ bệnh viện. BHYT vùng nông thôn gồm nhiều hình thức rất phong phú và đa dạng: -Chăm sóc y tế hợp tác xã: Người tham gia BHYT đóng góp vào quỹ và quỹ chi trả phục vụ các bệnh nhẹ. -BHYT các nguy cơ cao: Bổ sung cho hình thức trên, trong trường hợp chi trả cho các bệnh nặng. -BHYT riêng biệt cho phòng bệnh: Tiêm chủng trẻ em, chăm sóc thai, bảo vệ bà mẹ trẻ em trong thời gian sinh đẻ. -Các bệnh viện do nông thôn trả tiền: Người tham gia sẽ được giảm 20% chi phí y tế về thuốc men. -Hợp đồng về chăm sóc phòng bệnh: Nông dân phải gánh chịu 50% chi phí phòng bệnh hăng năm. -Chăm sóc răng cho học sinh phổ thông: Học sinh sẽ được khám chữa răng 6 tháng một lần do các bác sĩ răng tiến hành. -Trợ cấp chăm sóc y tế: Các quỹ BHYT này do các uỷ ban xã thành lập. Mục đích là trợ cấp cho các bệnh nhân nghèo và trợ cấp cho họ khoảng 20-40% tiiền thuốc men. Mục tiêu của Chính phủ Trung Quốc là đến năm 2010 tất cả nông dân đều được hưởng trợ cấpBHYT. 2. bhyt ở Hàn Quốc: Hệ thống BHYT ở Hàn Quốc tương đối mới mẻ và trẻ trên thế giới. Quỹ BHYT đầu tiên ra đời năm 1963 khi GDP của quốc gia còn thấp, dưới 100 USD. Năm 1977, BHYT cho các doanh nghiệp có trên 500 công nhân được thưc hiện và từ đó đến nay GDP của Hàn Quốc đã đạt mức 15218 USD. Hiện tại, 96% dân số Hàn Quốc đang tham gia BHYT Nhà nước, 4% còn lại nằm trong chương trình BHYT cho người nghèo cũng như người già đang được chăm sóc tại các nhà tế bần của Nhà nước. Luật BHYT ở Hàn Quốc quy định BHYT bắt buộc đối với người làm công ở nơi làm việc. Ngoài ra, họ cũng có thể tham gia bảo hiểm không bắt buộc tại các công ty bảo hiểm do chủ xí nghiệp hoặc một số chủ xí nghiệp, nơi họ làm việc thành lập và được phê chuẩn. Nhưng khi người này rời bỏ công việc( đã đăng ký), thay đổi công việc hoặc trở thành người được bảo vệ y tế... thì sẽ thuộc nhóm đối tượng BHYT tuỳ ý lựa chọn. Tại Hàn Quốc, những người có việc làm phải đóng BHYT hàng tháng cho cơ quan BHYT. Mức đóng 3%( chủ sử dụng lao động và người lao động mỗi bên 1,5%). Giáo viên các trường tư thục chỉ phải đóng 30%, 20% còn lại do Nhà nước bổ sung. Hiện tại mức thu là 2,8% đối với người lao động bình thường và 3,4% đối với công chức Nhà nước và giáo viên tư thục, mức thu không có trần tối đa. Mức lương tối thiểu là 280000 Uôn, tương đương với 204 ơ-rô. Người có thu nhập dưới mức lương tối thiểu không phải đóng BHYT. Đối với lao động tự do, mức đóng dựa trên tài sản, xe cộ, thu nhập, tuổi tác và giới tính. Thông thường lao động tự do đóng 74% số phải đóng, phần còn lại do Nhà nước bổ sung. Năm 1997, tại Hàn Quốc có 373 quỹ BHYT Nhà nước. Đây là các quỹ hoàn toàn tự chủ về mặt tài chính. Mỗi quỹ thường có từ 30000 đến 200000 người tham gia, chi phí quản lý trung bình là 8,5%, đặc biệt có một số quỹ lên đến 15,6%. Cơ sở KCB được thanh toán chi phí theo quy định của cơ quan BHYT.Tiền thanh toán cho cơ sở KCB một phần do cơ quan BHYT thanh toán, một phần do người tham gia BHYT tự trả. Đối với KCB ngoại trú, bệnh nhân tự trả một khoản phí cố định 4USD cho mỗi lần khám. Ngoài ra, bệnh nhân còn phải trả 30% trong tổng chi phí dịch vụ cho một lần khám bệnh ở tuyến cơ sở, 50% cho tuyến ngoại trú tại bệnh viện lớn. Đối với nội trú, bệnh nhân phải đồng chi trả 20%. Nhà nước quy định đối với các kỹ thuật mới và đắt tiền như MRI, siêu âm và một số liệu pháp hoá học điều trị ung thư không được cơ quan BHYT thanh toán. Quỹ BHYT thường được sử dụng để trợ cấp chăm sóc y tế cho người tham gia bảo hiểm( kể cả người phụ thuộc) khi bị ốm, chấn thương, bao gồm: -Chi phí chuẩn đoán. -Cấp thuốc điều trị và tiêu hao vật chất khác để phục vụ cho điều trị. -Điều trị, phẫu thuật và các chăm sóc y tế khác. -Điều trị nội trú với các phương tiện y tế. -Chăm sóc, phục vụ của y tá và hộ lý. -Chi phí vận chuyển và đi lại. -Ngoài ra, còn chi cho hoạt động quản lý của quỹ. Tuy nhiên, trừ bệnh lao, còn các trường hợp khác quỹ BHYT chỉ thanh toán tối đa cho người bệnh trong vòng 180 ngày. Người phụ thuộc ở đây bao gồm vợ (hoặc chồng ) của người tham gia BHYT. Theo luật BHYT hiện hành của Hàn Quốc, cơ quan BHYT chịu sự giám sát của Bộ y tế và phúc lợi xã hội. BHYT chịu trách nhiệm quản lý và thực hiện các vấn đề về BHYT, bao gồm cả vấn đề thẩm định công nghệ mới trong y tế cũng như phát triển các thuốc mới trong điều trị. Cơ quan BHYT cũng có thể tự quản lý và điều hành các trung tâm y tế và các trung tâm tăng cường và giáo dục sức khoẻ. Bảo hiểm y tế ở Philippin: Hiện nay Philippin thực hiện BHYT bắt buộc đối với mọi người dân, phân thành 4 nhóm đối tượng tương ứng với các mức đóng: -Đối với người làm công ăn lương: Mức đóng BHYT theo luật định tối đa 3% tiền lương hàng tháng( chủ sử dụng lao động đóng 50% và người lao động đóng 50%) nhưng hiện nay BHYT Philippin quy định mức đóng 2,5% tiền lương hàng tháng. Mức lương làm căn cứ đóng BHYT được chia làm 12 mức cố định, nhưng có khống chế mức lương trần là 15000 pê-sô/tháng. -Đối với người đi lao động nước ngoài: Mức đóng BHYT cố định là 900 pê-sô/năm, chỉ khi nào nộp đủ mới được cấp hộ chiếu. -Đối với người lao động tự do: Mức phí đóng BHYT cố định giống nhau là1200 pê-sô/người/năm, người lao động phải tự đóng 100%, được tổ chức thu theo nhóm ít nhất là 50 người trở lên. Phí BHYT có thể đóng theo quý, 6 tháng, năm. -Đối tượng người nghèo: Mức phí là 1200 pê-sô/hộ gia đình/năm( đối với tỉnh giàu Ngân sách Trung ương đóng 50%, Ngân sách địa phương đóng 50%, đối với tỉnh nghèo Ngân sách Trung ương đóng 90%, Ngân sách địa phương đóng 10%). Nhưng do Ngân sách Nhà nước hạn chế , đến nay mới có 5 triệu hộ nghèo được cấp BHYT. -Những người về hưu không phải đóng phí BHYT mà do quỹ BHYT trước đây đóng thay. Về quyền lợi : Các đối tượng làm công ăn lương, người đi lao động nước ngoài, người lao động tự do đóng BHYT sau 3 tháng mới được hưởng quyền lợi, nếu dừng tham gia BHYT sẽ được hưởng quyền lợi tiếp 3 tháng nữa. Riêng đối với người nghèo, khi đóng BHYT sẽ đựoc hưởng quyền lợi ngay. Tất cả các đối tượng đóng BHYT chỉ được hưởng quyền lợi điều trị nội trú ở bất kỳ cơ sở điều trị nào do phihealth lựa chọn thông qua thẩm định, thời gian điều trị nội trú được BHYT chi trả là 45 ngày/năm với đối tượng chính và 45 ngày/năm với tổng số đối tượng ăn theo (đối tượng ăn theo gồm: vợ hoặc chồng, cha, mẹ, con dưới 21 tuổi ), riêng người nghèo được hưởng thêm quyền lợi ngoại trú tại cơ sở KCB đăng ký ban đầu. Phương thức thanh toán: Đối với điều trị nội trú, áp dụng thanh toán theo phương thức thực thanh, thực chi có định xuất và theo tuyến điều trị. Đối với điều trị ngoại trú, áp dụng thanh toán theo kế toán định xuất 300 pê-sô/hộ/năm cho cơ sở đăng ký KCB ban đầu. Về chi phí quản lý, được trích 12% tổng số thu BHYT và 3% số lãi đầu tư để chi phí cho bộ máy của hệ thống BHYT. bhyt ở Singapore: Đối tượng tham gia BHYT ở Singapore bao gồm những người lao động dưới 65 tuổi, trừ những người tàn tật, quân nhân tại ngũ, trẻ em từ 15 ngày tuổi đến 19 tuổi chưa đi làm và người dưới 25 tuổi đang theo học ở các trường. Phạm vi BHYT loại trừ các trường hợp sau: -Nằm viện (không do tai nạn) trong vòng 30 ngày sau khi tham gia BHYT. -Bị tàn tật do tham gia biểu tình, đánh nhau, nổi dậy, chiến tranh. -Bị thương do đi du lịch. -Tự gây thương tích, tự tử dù tỉnh táo hay mất trí. -Bị bệnh tâm thần, nghiện rượu, ma tuý. -Kế hoạch hoá gia đình. -Các công việc về răng, mắt. -Phẫu thuật thẩm mỹ (trừ khi việc này là cần thiết do các vết thương vì tai nạn nằm trong phạm vi BHYT). -Nằm viện để chuẩn đoán, thử phản ứng thuốc, chụp X-quang. -Tàn phế do trượt băng, đua ngựa vượt rào, pôlô, đua môtô, leo núi hoặc các loại đua dùng phương tiện. -Chi phí cho chăm sóc đặc biệt như xe đẩy, máy hô hấp nhân tạo... và các chi phí dịch vụ phi y tế như đài, tivi, điện thoại... BHYT ở Singapore chịu trách nhiệm cả 24 giờ và thanh toán chi phí y tế thực tế trong thời gian nằm viện trong phạm vi bảo hiểm. Ngoài ra, người tham gia BHYT còn được thanh toán các chi phí sau: -Chi phí cho giường bệnh. -Chi phí ăn uống. -Các dịch vụ của bệnh viện bao gồm: phòng phẫu thuật, quần áo, các xét nghiệm, điện tâm đồ, vật lý trị liệu... -Trợ cấp phẫu thuật. -Chi phí khám bệnh. Chương ii: Thực trạng bhyt cho học sinh – sinh viên ở Việt Nam I.Sự cần thiết triển khai BHYT HS-SV ở Việt Nam. Những năm qua, cụng tỏc chăm súc sức khoẻ cho bộ phận HS-SV luụn được xó hội coi trọng. Mặc dự trong hoàn cảnh cú nhiều khú khăn về nguồn lực tài chớnh, cú sự phõn hoỏ giàu nghốo trong xó hội nhưng cỏc chương trỡnh mục tiờu trọng điểm nhằm nõng cao thể chất, thể lực cho HS-SV như: nha học đường, mắt học đường, chương trỡnh tiờm chủng mở rộng...đó đạt được những kết quả quan trọng. Thực tế cho thấy sức khoẻ của HS-SV Việt Nam trong những năm gần đõy đó được cải thiện rất đỏng kể. Đúng gúp cho sự thành cụng đú phải kể đến một trong những giải phỏp quan trọng đú là thực hiện chương trỡnh BHYT HS-SV. BHYT HS-SV khụng chỉ đúng gúp nguồn tài chớnh quan trọng cho cụng tỏc KCB mà cũn gắn việc tham gia BHYT HS-SV với việc hỡnh thành hệ thống y tế trường học và chăm súc sức khoẻ cho HS-SV tại trường học cho thấy khả năng thực hiện nhằm nõng cao chất lượng và hiệu quả giỏo dục, ở nhiều nơi đó trở thành mụi trường nõng cao sức khoẻ cho HS-SV. Ngoài việc giỏo dục sức khoẻ nội khoỏ, cỏc yờu cầu về vệ sinh mụi trường, nõng cao thể lực trớ lực cho HS-SV đó thực hiện cho thấy cần cú chớnh sỏch chăm súc sức khoẻ đối với HS-SV phự hợp nhất là y tế trường học hoạt động ngay tại trường. Để tăng cường nguồn kinh phớ chăm súc sức khoẻ nhõn dõn, trong đú cú HS-SV song song với việc đầu tư hỗ trợ của Nhà nước thỡ cần thực hiện chủ trương xó hội hoỏ thụng qua hỡnh thức BHYT cho HS-SV. Những năm qua bhyt hs-svđó thực sự trở thành chỗ dựa vững chắc về mặt tài chớnh cho cụng tỏc chăm súc sức khoẻ cho bộ phận HS-SV. Số HS-SV tham gia BHYT tăng dần qua cỏc năm khẳng định số lượng HS-SV được chăm súc về y tế tăng lờn đỏng kể. Ở lứa tuổi HS-SV, thời gian dành cho cụng việc học tập và vui chơi chiếm phần lớn quỹ thời gian vỡ vậy HS-SV thường hay mắc cỏc bệnh đặc trưng như: bệnh về mắt, bệnh về cột sống, bệnh về răng miệng... hơn nữa phần lớn HS-SV rất hiếu động nờn hay gặp những tai nạn trong sinh hoạt như khi lao động, tham gia giao thụng, luyện tập thể thao...làm ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ của bản thõn do đú ảnh hưởng tới kết quả học tập. Cũng do đặc thự của HS-SV, đặc biệt là học sinh ở cỏc trường chuyờn, sinh viờn của cỏc trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyờn nghiệp và dạy nghề là phải học tập ở xa nhà, họ ở khắp nơi trong cả nước tập trung về cỏc trung tõm thành phố, thị xó để học tập vỡ vậy họ phải tự lo hoàn toàn cuộc sống sinh hoạt cũng như học tập của mỡnh. Nếu rủi ro xảy ra nú sẽ làm ảnh hưởng tới việc học tập thậm chớ nú cú thể làm giỏn đoạn quỏ trỡnh học tập và rốn luyện của HS-SV, đồng thời làm tăng gỏnh nặng về tài chớnh cho gia đỡnh và xó hội. Điều quan trọng hơn nú gõy tõm lý hoang mang, lo lắng cho bản thõn và gia đỡnh đú là phần thiệt hại lớn nhất mà khụng cú thứ vật chất nào cú thể bự đắp được. Nhờ cú BHYT mà HS-SV được chăm súc sức khoẻ ban đầu, KCB, sơ cứu tai nạn, kiểm tra thường xuyờn qua cỏc đợt khỏm sức khoẻ định kỳ nờn nhiều HS-SV được phỏt hiện bệnh kịp thời để điều trị. Như vậy,việc triển khai BHYT HS-SV ở Việt Nam là rất cần thiết phự hợp với nhu cầu của HS-SV, phụ huynh và chớnh sỏch chăm súc sức khoẻ của Đảng và Nhà nước đối với nhõn dõn núi chung và HS-SV núi riờng. II.Qui định về BHYT HS-SV ở Việt Nam. 1.Qui định về mức thu. Ngày 07/08/2003 liờn Bộ Tài chớnh-Bộ Ytế đó ra thụng tư 77/2003/TTLB-BTC-BYT hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện. Thụng tư này cú qui định BHYT HS-SV là một bộ phận của BHYT tự nguyện. BHYT HS-SV nhằm thực hiện chớnh sỏch xó hội trong KCB, khụng vỡ mục đớch kinh doanh khụng ỏp dụng qui định của phỏp luật về kinh doanh bảo hiểm. Quyền lợi và nghĩa vụ của HS-SV tham gia BHYT tự nguyện được thống nhất trong cả nước. Mức phớ BHYT HS-SV được xỏc định trờn cơ sở khung giỏ dịch vụ y tế, điều kiện kinh tế xó hội, khả năng tiếp cận dịch vụ y tế và tỷ lệ HS-SV tham gia BHYT. 1.1.Khung mức đúng phớ BHYT HS-SV -Khung mức đúng BHYT HS-SV được xỏc định theo khu vực: Bao gồm hai khu vực thành thị và nụng thụn. +Khu vực thành thị: gồm cỏc quận nội thành, cỏc thành phố trực thuộc Trung ương, các phường của thành phố, thị xó thuộc tỉnh. Khung mức đúng BHYT q

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc348.doc