Đề tài Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong cơ chế thị trường

Nói đến sự phát triển của toàn xã hội, chúng ta không thể không nói đến bảo hiểm xã hội (BHXH). BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, nó là xương sống bảo đảm ổn định xã hội, nó thể hiện sự phồn thịnh của nền kinh tế, một sự vững chắc của thể chế chính trị và sự nhân văn sâu sắc. BHXH góp phần ổn định đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động khi gặp rủi ro và các khó khăn khác. BHXH cũng là một chính sách tài chính nhằm huy động đóng góp của người lao động đang làm việc để hình thành quỹ tài chính tập trung được bảo toàn và tăng trưởng để thực hiện các chế độ. Do đó, BHXH là một đề tài khoa học được nhiều người quan tâm và nghiên cứu. Với sự mong muốn góp một phần nhỏ bé vào thế giới khoa học và phục vụ học tập tốt hơn, em chọn đề tài “BHXH Việt Nam trong cơ chế thị trường”.

Ngoài lời nói đầu và kết luận đề tài bao gồm:

Phần I: Khái quát chung về BHXH

Phần II: BHXH Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường.

Phần III: Một số kiến nghị

 

doc29 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 920 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Bảo hiểm xã hội Việt Nam trong cơ chế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu Nói đến sự phát triển của toàn xã hội, chúng ta không thể không nói đến bảo hiểm xã hội (BHXH). BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, nó là xương sống bảo đảm ổn định xã hội, nó thể hiện sự phồn thịnh của nền kinh tế, một sự vững chắc của thể chế chính trị và sự nhân văn sâu sắc. BHXH góp phần ổn định đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động khi gặp rủi ro và các khó khăn khác. BHXH cũng là một chính sách tài chính nhằm huy động đóng góp của người lao động đang làm việc để hình thành quỹ tài chính tập trung được bảo toàn và tăng trưởng để thực hiện các chế độ. Do đó, BHXH là một đề tài khoa học được nhiều người quan tâm và nghiên cứu. Với sự mong muốn góp một phần nhỏ bé vào thế giới khoa học và phục vụ học tập tốt hơn, em chọn đề tài “BHXH Việt Nam trong cơ chế thị trường”. Ngoài lời nói đầu và kết luận đề tài bao gồm: Phần I: Khái quát chung về BHXH Phần II: BHXH Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường. Phần III: Một số kiến nghị phần I khái quát chung về bảo hiểm xã hội I. Bảo hiểm xã hội trong đời sống kinh tế xã hội. Bảo hiểm xã hội (BHXH) là tổng thể những mối quan hệ kinh tế xã hội giữa Nhà nước với người lao động và người sử dụng lao động khi người lao động gặp khó khăn do bị mất hoặc giảm thu nhập. BHXH là một chính sách lớn mang tính xã hội rộng rãi và trong đời sống xã hội của mỗi quốc gia thì BHXH có ý nghĩa rất to lớn: - Đối với người lao động: nó góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân họ hoặc gia đình khi gặp khó khăn do bị mất hoặc giảm thu nhập. Đặc biệt BHXH ra đời còn góp phần tạo ra một tâm lý yên tâm ổn định trong cuộc sống cũng như lao động, họ không phải lo lắng khi ốm đau, thai sản hoặc khi hết tuổi lao động. Từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động trong xã hội. - Đối với người sử dụng lao động: BHXH góp phần ổn định sản xuất kinh doanh, làm cho họ đỡ phải bỏ ra một khoản tiền lớn hoặc nhiều khi rất lớn, khi người lao động mà họ sử dụng gặp khó khăn trong cuộc sống. Nhất là trong trường hợp bị ốm đau, tai nạn hàng loạt. - Đối với Nhà nước: BHXH ra đời góp phần đảm bảo an toàn cho xã hội, đặc biệt quỹ BHXH là một trong những nguồn đầu tư lớn góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế quốc gia. - Đối với cả ba bên: BHXH ra đời tạo lập được mối quan hệ bền vững, ổn định để từ đó góp phần điều hoà mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ. Chính vì những ý nghĩa nêu trên cho nên BHXH luôn luôn là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của một quốc gia và trong đời sống kinh tế xã hội hiện nay BHXH là một trong những chính sách không thể thiếu được và ngày càng phát triển. II. Những nội dung cơ bản về BHXH. 1. Bản chất của BHXH. 1.1 Đối tượng của BHXH. BHXH là một lĩnh vực mang tính chất xã hội rất lớn vì nó có đối tượng là một bộ phận rất lớn trong xã hội, đó là người lao động mà cụ thể là một bộ phận rất lớn và nghĩa vụ của một công dân theo những tiêu chuẩn luật pháp của Nhà nước và có việc làm dưới các hình thức khác nhau, tạo ra thu nhập để đảm bảo đời sống và tham gia vào BHXH như người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước, trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên, người lao động Việt Nam trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất... người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể thuộc lực lượng vũ trang... Các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương và tiền công thì thuộc đối tượng thực hiện BHXH bắt buộc. 1.2 Vai trò và tính chất của BHXH. 1.2.1 Vai trò của BHXH. - BHXH bảo đảm ổn định kinh tế cho người lao động và gia đình khi họ gặp rủi ro, giảm hoặc mất thu nhập. - BHXH đảm bảo được tính công bằng trong xã hội và thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. - BHXH đã gắn kết lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. - BHXH góp phần đảm bảo an toàn xã hội, gắn bó người lao động với xã hội. 1.2.2 Tính chất của BHXH. - Tính kinh tế: người lao động đóng góp phí BHXH hình thành nên quỹ BHXH. Từ quỹ này trợ cấp cho người lao động khi an toàn kinh tế của họ bị đe doạ. Sự đóng góp này đã góp phần giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Từ phần quỹ nhàn rỗi và phần giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước là nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế nhằm bảo đảm bảo tồn và phát triển quỹ và giảm bớt sự đóng góp của người lao động. - Tính xã hội: thể hiện người lao động trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và có nhu cầu có quyền được hưởng BHXH và người sử dụng lao động cũng như Nhà nước có trách nhiệm BHXH cho người lao động đó, Tính xã hội thể hiện tính cộng đồng (tính nhân đạo) rất cao. - Tính dịch vụ: BHXH thoã mãn nhu cầu được tham gia BHXH của người lao động có khả năng vâ có nhu cầu lao động. 2. Quỹ BHXH. Quỹ BHXH là tổng hợp những đóng góp bằng tiền của các bên tham gia BHXH, và phần sinh lời tăng trưởng tiền nhàn rỗi hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được hưởng BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay mất việc làm. Như vậy quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng, nó vừa mang tính kinh tế , vừa mang tính xã hội rất cao, và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những người tham gia BHXH với tổng dự trữ ít nhất giúp cho việc dàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai chiều, không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm tới mức thấp nhất những thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả ngân sách Nhà nước và ngân sách gia đình người lao động. Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trước hết là sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước, đây là khoản thu chính chiếm tỷ trọng lớn của quỹ BHXH. Hai là được hình thành từ khoản thu từ hoạt động tài chính của một phần nhàn rỗi của quỹ. Thứ ba là phần thu từ nộp phạt của những tổ chức và cá nhân vi phậm điều lệ về BHXH, ngoài ra còn có các khoản thu khác như viện trợ của nước ngoài hợp tác về BHXH. Quỹ BHXH đảm nhận những khoản chủ yếu như trợ cấp theo các chế độ BHXH (khoản chi này chiếm tỷ trọng lớn), chi phí cho bộ máy hoạt động BHXH (tiền lương của cán bộ nhân viên ngành BHXH, tiền đào tạo cán bộ...) Mức đóng góp của mỗi người vào quỹ BHXH gọi là phí BHXH. Phí BHXH có thể có nhiều loại tuỳ theo cách phân loại cụ thể. theo quá trình lao động, phí BHXH chia làm 2 loại: phí dài hạn và phí ngắn hạn. - Phí BHXH dài hạn tạo thành nguồn quỹ để chi trả trợ cấp BHXH dài hạn như: hưu trí, mất sức lao động, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. - Phí BHXH ngắn hạn tạo thành nguồn quỹ chi trả trợ cấp BHXH ngắn hạn như thai sản, ốm đau và tai nạn lao động nhẹ. Quỹ BHXH được quản lý trong cơ chế cân bằng thu chi, phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lợi. 3. Hệ thống các chế độ BHXH BHXH ra đời từ thế kỷ 13 ở Nam châu Âu - khi nền kinh tế hàng hóa bắt đầu phát triển. Nửa cuối thế kỷ 19 ở Đức và vài nước công nghiệp phát triển ở châu Âu đã xuất hiện BHXH. Những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, BHXH đã lan ra hầu hết châu Âu và các nước Bắc Mỹ. Đến sau chiến tranh thế giới lần thứ II, BHXH có nhiều thay đổi về chất, phát triển phong phú đa dạng ở trên 100 nước trên thế giới và được nhiều tổ chức quốc tế khác quan tâm. Lúc đầu các chế độ BHXH chỉ được thực hiện dưới dạng các quỹ ốm đau để đề phòng khi mất thu nhập vì bệnh tật. Dần dần đã mở rộng các chế độ BHXH thành bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp, bảo hiểm bệnh tật và tuổi già... Đến ngày 28/6/1952 hội nghị toàn thể của tổ chức lao động quốc tế đã nhất trí tập hợp tất cả các chế độ hiện có về BHXH của các nước trên thế giới thành một hệ thống bao gồm 9 chế độ sau: - Chế độ chăm sóc y tế - Chế độ trợ cấp ốm đau - Chế độ trợ cấp thất nghiệp - Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp - Chế độ trợ cấp tuổi già - Chế độ trợ cấp gia đình - Chế độ trợ cấp sinh đẻ - Chế độ trợ cấp khi tàn phế - Chế độ trợ cấp cho những người còn sống Tại hội nghị này tổ chức lao động quốc tế đồng thời tuyên bố tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia mà thực hiện các chế độ BHXH nói trên. Nhưng bắt buộc phải thực hiện các chế độ sau: - Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp - Chế độ trợ cấp sinh đẻ - Chế độ trợ cấp cho những người còn sống Theo số liệu thống kê ở 140 nước và khu vực trên thế giới cho thấy tính đến năm 1993 có 33 nước thực hiện cả 9 chế độ, có 34 nước chưa thực hiện chế độ thứ 3, có 62 nước chưa thực hiện chế độ thứ 3 và thứ 6. Điều kiện và mức hưởng các chế độ trợ cấp BHXH tuỳ theo sự thực hiện của mỗi nước do mỗi nước có nguyên tắc, kinh tế chiết lý và chủ nghĩa khác nhau. Công ước chỉ đề ra những tiêu chuẩn tối thiểu để các quốc gia phê chuẩn và thực hiện. phần II BHXH Việt nam trong điều kiện kinh tế thị trường I. tình hình triển khai BHXH Việt Nam trước nghị định 43/CP Tổ chức triển khai. Từ thời Pháp thuộc giai đoạn những năm 30 BHXH bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam. Lúc đầu là một chế độ hạn hẹp và mức trợ cấp ít ỏi. Năm 1962 hoà bình lập lại Đảng và Nhà nước mới cho thực hiện các chế độ BHXH ở nước ta bằng Nghị định 218/CP của Chính phủ ngày 27/12/1961 có hiệu lực từ 1962 đến trước tháng 6/1993. Theo Nghị định này hệ thống BHXH ở Việt Nam bao gồm 6 chế độ là: - Chế độ trợ cấp ốm đau - Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp - Chế độ trợ cấp thai sản - Chế độ trợ cấp hưu trí - Chế độ trợ cấp mất sức lao động - Chế độ trợ cấp tử tuất Qua hơn 30 năm thực hiện đã có rất nhiều văn bản sửa đổi và bổ sung. trong đó có lần sửa đổi lớn nhất là Nghị định 236 /HĐBT ngày 18/9/1985 đi kàm với Nghị định 235/ HĐBT về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền... Nhưng kết quả cho thấy BHXHVN có những thành công và tồn tại. 2. Kết quả thấy được. BHXHVN sau hơn 30 năm thực hiện đã tỏ ra có ưu thế và phát huy tác dụng về nhiều mặt đối với người lao động Việt Nam. Với 6 chế độ chi trả cơ bản trong 9 chế độ chuẩn của ILO đã ghi trong công ước phần nào đã đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người lao động đối với BHXH. Hơn 3 triệu người đã được hưởng chế độ hưu trí, gần 1 triệu người được hưởng chế độ mất sức lao động. Khoảng 40 vạn người được hưởng chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp dài hạn, hơn 1,2 triệu người được hưởng chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ngắn hạn, hơn 50 vạn lao động nữ được hưởng chế độ trợ cấp thai sản, hơn 8 triệu lượt người được hưởng chế độ ốm đau. Trong quá trình thực hiện BHXH thực sự trở thành chính sách xã hội cơ bản ở nước ta. Đối tượng tham gia BHXH không chỉ riêng công nhân viên chức mà còn là toàn bộ nhân dân lao động đều có thể tham gia. Do có BHXH mà ngời lao động được trợ cấp kịp thời để ổn định cuộc sống không những cho bản thân họ mà còn cho gia đình họ, khiến cho người lao động hoàn toàn yên tâm gắn bó với xã hội. Đồng thời nâng cao ý thức cộng đồng trách nhiệm giữa những người lao động với nhau và giữa người lao động với người sử dụng lao động và Nhà nước XHCN. 3. Những tồn tại và nguyên nhân của nó 3.1 Những tồn tại BHXHVN trong hơn 30 năm thực hiện mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng khi bước vào kinh tế thị trường nó đã bộc lộ tất cả những nhược điểm cần phải đổi mới và hoàn thiện thể hiện ở những khía cạnh lớn sau: - Về mặt tổ chức: còn phân tán, vì vậy khi thực hiện chính sách còn nhiều nhất quán, thiếu đồng bộ, có lúc có nơi còn chồng chéo. - Chính sách BHXH trước đây chỉ phù hợp với cơ chế bao cấp, bởi lẽ trong cơ chế bao cấp Nhà nước đã đứng ra bao phần lớn những vấn đề liên quan đến BHXH. Mặt khác chính sách BHXH chưa thường xuyên đổi mới cho nên ở các cấp cơ sở rất khó thực hiện và nhiều khi thực hiện không đúng chính sách. Đặc biệt chúng ta chưa xây dựng được luật BHXH cho nên chính sách BHXH đã sơ cứng lại càng sơ cứng hơn. Bên cạnh đó hệ thống các chế độ BHXH bộc lộ rất nhiều vấn đề tồn tại trong nội dung từng chế độ. Đặc biệt chế độ mất sức lao động đã bị lợi dụng, vì thế đã ảnh hưởng nghiêm trọng và làm thâm hụt rất lớn nguồn BHXH. - Quỹ BHXH trên thực tế coi như không có bởi vì có một bộ phận người lao động không đóng góp BHXH mà Nhà nước đóng thay cho họ, lực lượng vũ trang có mức tiền lương rất cao nhưng không đầy đủ, thêm vào đó đóng theo quỹ lương nhưng quỹ lương lại mang tính bao cấp nên phần thu BHXH từ nguồn lương hầu như không đáng kể. - Việc quản lý quỹ còn quá nhiều sơ hở và thiếu sót cho nên quỹ BHXH bị thâm hụt nghiêm trọng và việc điều phối quỹ BHXH giữa hai cơ quan (Tổng liên đoàn lao động và Sở lao động thương binh xã hội) không thực hiện được, cho nên đã gây nhiều khó khăn trong công tác thu chi , đặc biệt là chi bảo hiểm. - Đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH số lượng còn thiếu và chất lượng còn yếu đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc quản lý thu chi và thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động; nhận thức về BHXH còn rất yếu kể cả cấp lãnh đạo bởi vì ba lý do: thứ nhất quỹ BHXH không có mà ngân sách Nhà nước gánh vác toàn bộ, thứ hai đối tượng tham gia bảo hiểm còn hạn hẹp vì vậy đại đa số lực lượng lao động Việt Nam còn không biết đến BHXH, thứ ba là mức được hưởng trợ cấp trong các chế độ bảo hiểm còn rất thấp. Đặc biệt là sau thời kỳ giá tiền lên, người lao động coi tiền lương cơ bản hoặc toàn bộ trợ cấp BHXH là một phần. 3.2 Nguyên nhân tồn tại. Xem xét thực trạng của BHXH ở Việt Nam ta có thể rút ra một số nguyên nhân sau: - BHXHVN mới chỉ có hơn 30 năm hình thành và phát triển mà lại còn ở trong tình trạng chiến tranh kéo dài, kinh tế đất nước còn kém phát triển, công cuộc khôi phục sau chiến tranh còn gặp nhiều khó khăn. Hậu quả đó ảnh hưởng mạnh đến các chính sách BHXH nói riêng và chính sách kinh tế xã hội nói chung. Bên cạnh đó BHXH lại chịu ảnh hưởng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp vừa cứng nhắc, thiếu năng động lại vừa lỏng lẻo trong việc đề ra chính sách và điều hành. Hiện nay khi nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường thì BHXH cũng được cải tiến rất nhiều nhưng vẫn còn hết sức mới mẻ. - BHXHVN còn hạn chế về mặt nhận thức, đối với những người làm công tác BHXH chưa được tiếp cận với thành tựu và kinh nghiệm hoạt động BHXH của thế giới. Còn đối với người được bảo hiểm cũng chưa đủ nhận thức về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình khi tham gia BHXH. Cho nên việc kiểm soát sự hoạt động của hệ thống BHXH, nhân viên, cán bộ làm công tác BHXH thực hiện không chặt chẽ, từ đó rễ phát sinh hành vi vi phạm quy định của Nhà nước. - Sự kết hợp của các cơ quan, tổ chức trontg công tác BHXH vẫn còn lỏng lẻo, phân tán: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản lý ba chế độ, còn cán bộ lao động thương binh và xã hội quản lý ba chế độ. Từ đó dẫn đến việc thực hiện các chính sách xã hội còn thiếu tập trung. II. thực trạng BHXH Việt Nam sau nghị định 43/CP. 1. Sự ra đời của nghị định 43/CP. Trong điều kiện kinh tế thị trường, sự nghiệp BHXH Việt Nam là một trong lĩnh vực yếu kém nhất và bộc lộ rất nhiều tồn tại. Vì vậy năm 1993 Nhà nước ban hành nghị định 43 về BHXH nhằm mục đích khắc phục một phần yếu kém trước đây, đồng thời giúp cho lĩnh vực BHXH dần dần đi vào thế ổn định. Nghị định 43 ra đời là rất kịp thời và đáp ứng được nguyện vọng của người lao động và người sử dụng lao động, đáp ứng được yêu cầu, sự đòi hỏi cấp bách của Nhà nước về quản lý lĩnh vực này. Nền kinh tế Việt Nam đã chuyển sang nền kinh tế thị trường, tất các ngành, các chính sách kinh tế xã hội khác đã chuyển đổi mà BHXH chưa chuyển đổi kịp thời, còn các chính sách BHXH trước đây không còn phù hợp về nhiều khía cạnh khác nhau như tổ chức hình thành, chế độ tiền lương, ký kết hợp đồng... cho nên Nghị định 43 ra đời là phù hợp với nền kinh tế. Đặc biệt BHXH phải hoà nhập với BHXH quốc tế. Bên cạnh đó BHXH là một chính sách không thể thiếu được. Vì vậy, người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước đều rất quan tâm bởi lẽ người lao động không còn được hưởng chế độ bao cấp như trước nữa và Nhà nước không đủ khả năng để bao cấp nữa. Cho nên để đáp ứng được những nhu cầu này đòi hỏi phải có văn bản thống nhất. Tiếp đó năm 1995 Nhà nước còn ban hành Nghị định 12/CP về BHXH nhằm khắc phục một số điểm bất hợp lý và không phù hợp của các văn bản trước đây trong đó có cả Nghị định 42 và cũng năm này Nhà nước còn ban hành Nghị định 19/CP về tổ chức sự nghiệp BHXH Việt Nam. Đây là một trong những mốc quan trọng nhất của sự nghiệp BHXHVN kể cả đổi mới về khâu tổ chức.Đồng thời cũng năm này còn ban hành điều lệ BHXHVN cho phù hợp với cơ chế thị trường. 2. Tổ chức BHXH. BHXHVN được tổ chức theo hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương có cơ cấu như sau: - ở Trung ương có BHXHVN - ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là tỉnh) là BHXH tỉnh trực thuộc BHXHVN. - ở các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là huyện) là BHXH huyện trực thuộc BHXH tỉnh. Cơ quan quản lý cao nhất của BHXHVN là hội đồng quản lý BHXHVN. Hội đồng quản lý BHXHVN gồm có: Chủ tịch, 1 phó chủ tịch và các thành viên do thủ tướng chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm. Thành viên của Hội đồng quản lý bao gồm đại diện có thẩm quyền của Bộ lao động Thương binh và Xã hội, Bộ tài chính, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và Tổng giám đốc BHXHVN. Sơ đồ hệ thống tổ chức BHXHVVN từ sau Nghị định 19/CP: Thủ tướng Chính phủ BHXHVN Tổng giám đốc BHXHVN Phó tổng giám đốc Phó tổng giám đốc Các ban BHXH Tổng giám đốc BHXHVN BHXH tỉnh, thành phố BHXH của quận, huyện, ngành BHXH ở các đơn vị cơ sở Ghi chú: Thông tin chỉ đạo Thông tin báo cáo 3. Quỹ BHXH. Trong cơ chế mới, theo Nghị định 43CP của Chính phủ ra ngày 22/6/1993 quy định quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước do: - Người sử dụng lao động đóng góp 15% quỹ lương. - Người lao động đóng góp 5% tiền lương. - Trợ cấp của ngân sách Nhà nước. Ngoài ra quỹ này còn được bổ sung thêm phần lãi xuất do đầu tư mang lại và các tổ chức quốc tế, các nhà hảo tâm đóng góp. Nhờ có cơ chế mới này nguồn thu quỹ BHXH đã không ngừng tăng lên và có thể đáp ứng được nhu cầu chi phí BHXH. Tuy nhiên nguồn quỹ này tăng là do hiện nay người phải đóng nhiều, trong khi đó người được hưởng chưa nhiều, số đang được hưởng thì vẫn do ngân sách Nhà nước đảm nhiệm vì quỹ BHXH là “xương sống”. Cho nên quỹ BHXH chưa vững chắc do vậy ngay từ bây giờ Nhà nước phải có chính sách hợp lý. Bởi vì chúng ta đang phấn đấu quỹ BHXH nằm ngoài ngân sách, tương lai quỹ BHXH không còn ngân sách tài trợ nữa. Và lúc đó người được hưởng BHXH cũng tăng lên. Sự tăng lên đó do nhiều nguyên nhân khác nhau như người được hưởng tăng nhanh hơn người phải đóng, thời gian hưởng trợ cấp dài hơn. Do tuổi thọ của dân cư ngày một tăng, hiện nay tuổi thọ bình quân sẽ tăng lên 70,4 tuổi đến 75,4 tuổi và đến năm 2030 là đến 72,4 đến 74,4 tuổi. Điều này cho thấy phải có sự điều chỉnh trong chính sách phát triển quỹ BHXH, việc này có thể bằng nhiều cách: tăng thêm tỷ lệ đóng hoặc kéo dài thời gian đóng bằng cách tăng tuổi nghỉ hưu hoặc tính lại mức hưởng của từng chế độ, trong đó đặc biệt lưu ý dùng lương 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu làm căn cứ tính mức hưởng. Để thấy rõ hơn ta có thể tham khảo bảng số liệu sau. Dự báo những yếu tố ảnh hưởng đến quỹ BHXH. Năm 1997 2000 2010 2020 2030 Số người đóng BHXH (nghìn) 3100 3271 4406 5233 5897 Số hưởng BHXH (nghìn) Trong đó: Hưởng trước năm 1995 Hưởng sau năm 1995 1792 1732 60 1802 1635 167 1739 1195 544 1808 706 1102 1867 290 1577 Thu BHXH (nghìn tỷ) 7,9 11,6 23,4 35,1 49,6 Chi BHXH (nghìn tỷ) 5,9 8,7 17,9 33,4 63 Chênh lệch thu chi (nghìn tỷ) +2,0 +2,8 +5,5 +1,8 -13,5 Qua bảng số liệu trên ta thấy chênh lệch thu-chi ngày càng giảm chứng tỏ số người được hưởng BHXH ngày càng tăng trong tương lai và họ được hưởng nhiều hơn họ đóng. 4. Hệ thống các chế độ Bắt đầu từ nghị định 43 trở lại đây, BHXHVN thực hiện 5 chế độ BHXH sau đây: 4.1 Chế độ trợ cấp ốm đau Con người sinh ra, lớn lên và chết đi nó như là một qui luật vận động tự nhiên, tất yếu của xã hội. Trong quá trình vận động đó con người nói chung và người lao động nói riêng không thể tranh khỏi ốm đau. Đặc biệt với người lao động, là người tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Vì vậy khi họ bị ốm đau phải được nghỉ nghơi, điều trị an dưỡng. Trong thời gian này họ được xét hưởng trợ cấp BHXH thay vì tiền lương, mức hưởng trợ cấp được quy định như sau: - Tất cả người lao động nghỉ việc và ốm đau, tai nạn, rủi ro mà có xác nhận của tổ chức y tế do bộ y tế quyết định được hưởng chế độ trợ cấp ốm đau, trừ những người tự huỷ hoại sức khoẻ do say rượu hoặc dùng chất ma tuý thì không được trợ cấp ốm đau. - Với những người lao động làm việc ở điều kiện bình thường thì được hưởng tối đa 30 ngày trong một năm, nếu đã đóng BHXH dưới 15 năm. Được hưởng 40 ngày trong năm nếu đã đóng BHXH từ 15 năm đến dưới 30 năm. Được hưởng 50 ngày trong một năm nếu đóng BHXH từ 30 năm trở lên. - Đối với những người lao động làm các nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, làm việc ở những nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên thì được hưởng 40 ngày trong một năm, nếu đóng BHXH dưới 15 năm; 50 ngày trong một năm nếu đã đóng BHXH từ 15 đến 30 năm và được hưởng 60 ngày trong một năm nếu đóng BHXH từ 30 năm trở lên. Mức tự cấp của những người mắc bệnh cần chữa từ 180 ngày trong một năm trở lên bằng 65% - 70% mức lương hưởng trước khi ốm đau. Với người lao động có con thứ 1, thứ 2 dưới 7 tuổi bị ốm đau thì được nghỉ chăm sóc con và được hưởng trợ cấp BHXH. Và nếu người lao động thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá dân số thì thời gian nghỉ do bộ y tế quy định và cũng được hưởng trợ cấp BHXH. ở Việt Nam khi thực hiện chế độ trợ cấp này có ưu điểm sau: - Đáp ứng được nguyện vọng, nhu cầu của người lao động trong thực tế giúp họ yên tâm lao động sản xuất để từ đó góp phần tăng năng suất lao động. - Trong vòn hơn 30 năm thực hiện, các chế độ này đã thực hiện cho hàng chục triệu lượt người bị ốm đau, đặc biệt là những người làm trong ngành nghề nặng nhọc, độc hại, từ đó góp phần ổn định cuộc sống cho gia đình họ, đặc biệt thời kỳ chiến tranh. Mặc dù đã đạt được một số ưu điểm nhưng khi thực hiện chế độ này vẫn còn tồn tại một số điểm sau: - Khâu giám định y khoa quá dễ dãi, vì vậy phát sinh hiện tượng tiêu cực làm thâm hụt quỹ BHXH. - Việc quản lý chế độ này còn lỏng lẻo và thiếu sự kiểm tra, kiểm soát. - Khi xét trợ cấp cho chế độ này còn mang tính bình quân giữa các ngành nghề cho nên không khuyến khích người lao động làm những ngành nghề nặng nhọc, độc hại. 4.2 Chế độ trợ cấp thai sản. Như chúng ta đã biết phụ nữ có vai trò chủ yếu trong việc tái sản xuất con người, tạo ra những sản phẩm tinh thần cho xã hội, và chiếm hơn một nửa lực lượng lao động trong xã hội. Do vậy trợ cấp thai sản cho lao động nữ là rất cần thiết và quan trọng, giúp lao động nữ sinh và nuôi con tốt hơn. Cụ thể chế độ hưởng như sau. Lao động nữ có thai sinh con thứ nhất, thứ hai được hưởng trợ cấp theo những nội dung sau: - Trước khi sinh con, đối với người làm việc trong điều kiện bình thường được nghỉ ba ngày trong ba lần đi khám thai. Trong trường hợp người lao động có thai làm việc ở xa tổ chức y tế hoặc người mang thai có bệnh lý, thai không bình thường thì được nghỉ 2 ngày cho mỗi lần đi khám thai, trường hợp xảy thai thì được nghỉ 20 ngày nếu thai dưới 3 tháng, 30 ngày nếu thai 3 tháng trở lên. - Sau khi sinh con, với những người làm việc ở điều kiện bình thường thì được nghỉ 4 tháng. Còn trong điều kiện hệ số khu vực là 0,5 - 0,7 thì được nghỉ 4 tháng. Nếu hệ số khu vực là một và làm việc ở điều kiện độc hại thì được nghỉ 6 tháng. Hết thời hạn nghỉ nếu muốn nghỉ thêm phải được sự đồng ý của người sử dụng lao động và không được hưởng trợ cấp. Nếu đã làm trước thời hạn nghỉ thì phải báo trước 1 tuần lễ và được hưởng trợ cấp theo quy định. Người lao động nam hay nữ nếu muốn nuôi con sơ sinh theo quy định của luật hôn nhân và gia đình thì được nghỉ việc và được hưởng trợ cấp BHXH 4 tháng, mức hưởng là 100% lương làm căn cứ đóng BHXH. Việt Nam khi thực hiện chế độ này có ưu điểm: - Góp phần động viên chị em phụ nữ yên tâm và hăng hái lao động sản xuất. Đặc biệt trong thời kỳ chiến tranh. - Góp phần làm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng khi sinh đẻ. - Góp phần thực hiện quyền bình đẳng về mọi mặt giữa nam và nữ. Những tồn tại: + Có những thời kỳ việc quy định thời gian nghỉ đẻ của lao động nữ còn thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn. + Đại đa số lao động nữ khi sinh đẻ bị suy dinh dưỡng nghiêm trọng cả mẹ và con. + Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay chế độ này có ảnh hưởng tiếp tục đến công ăn việc làm của lao động nữ. 4.3 Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Người lao động không may bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, Nhà nước hoặc cơ quan doanh nghiệp phải có trách nhiệm xét trợ cấp BHXH để

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc63003.doc
Tài liệu liên quan