Đề tài Bản chất của bảo hiểm xã hội Việt Nam

Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù luôn chú ý ngăn ngừa và để ý phòng ngừa nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Có người có thể vuợt qua nhưng có những người không thể vượt qua khỏi,chính vì vậy bảo hiểm ra đời. Do nhu cầu của con người của con người, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và không thể thiếu đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ngày nay, sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia ngày phát triển thì bảo hiểm cũng ngày càng mở rộng. Hình thức bảo hiểm xã hội cũng không ngoại lệ. Nó được khá sớm và đến nay đã được thực hiện ở tất cả nước trên thế giới. BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.

Sau hơn 10 năm mở cửa thị trường bảo hiểm, hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam đó đạt được tốc độ tăng trửởng rất cao, tổng doanh thu phí baỏ hiểm toàn thị trường tăng bình quân 26,5% trong giai đoạn 1993 - 2005 cơ cấu tỷ trọng doanh thu dịch vụ bảo hiểm trong GDP cũng tăng nhanh từ 0,37% GDP năm 1993 lên 2,03%/GDP năm 2005. Và góp phần vào quá trình tăng trưởng của đất nước thì BHXH Việt Nam cũng không ngừng được phát triển.

Ngay sau khi bộ luật lao động có hiệu lực từ ngày 01/01/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định 12/ CP ngày 26/01/1995 về điều lệ BHXH đối với người lao động trong các thành phần kinh tế.Nội dung của bản điều lệ này góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng và nhà nước đề ra góp phần thực hiện công bằng và sự tiến bộ xã hội, góp phần làm lạnh hoá thị trường lao động và đồng thời đáp ứng được sự mong mỏi của đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế của cả nước. Và trong suốt 10 năm hoạt động BHXH đã thực hiện tốt vai trò của mình: thay thế, bù đắp thu nhập cho người lao động khi gặp rủi ro, tiến hành phân phối phấn phối lai thu nhập giữa những tham gia BHXH, góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động, gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội.

Trước những biến động lớn của tình kinh tế Việt Nam đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO nhận thấy luật BHXH cũ còn nhiều thiếu sót, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá XI, ngày 29 tháng 6 năm 2006, Quốc hội thông qua một số Luật quan trọng trong đó có luật BHXH số 71/2006/ QH11 và Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký lệnh số 13/2006/ L- CTN ban hành ngày 12/7/2006. Với 11 chương, 141 điều Luật BHXH quy định về chế độ chính sách BHXH : quyền và trách nhiệm của người lao động, của cơ quan tổ chức , cá nhân tham gia BHXH, tổ chức BHXH, quỹ BHXH , thủ tục thực hiện BHXH và quản lý nhà nước về BHXH có lợi cho người lao động.

 

doc30 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Bản chất của bảo hiểm xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù luôn chú ý ngăn ngừa và để ý phòng ngừa nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Có người có thể vuợt qua nhưng có những người không thể vượt qua khỏi,chính vì vậy bảo hiểm ra đời. Do nhu cầu của con người của con người, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và không thể thiếu đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ngày nay, sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia ngày phát triển thì bảo hiểm cũng ngày càng mở rộng. Hình thức bảo hiểm xã hội cũng không ngoại lệ. Nó được khá sớm và đến nay đã được thực hiện ở tất cả nước trên thế giới. BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Sau hơn 10 năm mở cửa thị trường bảo hiểm, hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam đó đạt được tốc độ tăng trửởng rất cao, tổng doanh thu phí baỏ hiểm toàn thị trường tăng bình quân 26,5% trong giai đoạn 1993 - 2005 cơ cấu tỷ trọng doanh thu dịch vụ bảo hiểm trong GDP cũng tăng nhanh từ 0,37% GDP năm 1993 lên 2,03%/GDP năm 2005. Và góp phần vào quá trình tăng trưởng của đất nước thì BHXH Việt Nam cũng không ngừng được phát triển. Ngay sau khi bộ luật lao động có hiệu lực từ ngày 01/01/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định 12/ CP ngày 26/01/1995 về điều lệ BHXH đối với người lao động trong các thành phần kinh tế.Nội dung của bản điều lệ này góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng và nhà nước đề ra góp phần thực hiện công bằng và sự tiến bộ xã hội, góp phần làm lạnh hoá thị trường lao động và đồng thời đáp ứng được sự mong mỏi của đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế của cả nước. Và trong suốt 10 năm hoạt động BHXH đã thực hiện tốt vai trò của mình: thay thế, bù đắp thu nhập cho người lao động khi gặp rủi ro, tiến hành phân phối phấn phối lai thu nhập giữa những tham gia BHXH, góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động, gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Trước những biến động lớn của tình kinh tế Việt Nam đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO nhận thấy luật BHXH cũ còn nhiều thiếu sót, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá XI, ngày 29 tháng 6 năm 2006, Quốc hội thông qua một số Luật quan trọng trong đó có luật BHXH số 71/2006/ QH11 và Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký lệnh số 13/2006/ L- CTN ban hành ngày 12/7/2006. Với 11 chương, 141 điều Luật BHXH quy định về chế độ chính sách BHXH : quyền và trách nhiệm của người lao động, của cơ quan tổ chức , cá nhân tham gia BHXH, tổ chức BHXH, quỹ BHXH , thủ tục thực hiện BHXH và quản lý nhà nước về BHXH có lợi cho người lao động. \Nội dung 1.Bản chất của Bảo hiểm xã hội 1.1 Sự ra đời của bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội là loại hình xã hội ra đời muộn hơn so với bảo hiểm thương mại tuy nhiên cho đến nay nó đã được triển khai ở tất cả các nước trên thế giới. Sự ra đời của bảo hiểm xã hội (BHXH) phù hợp với nhu cầu khách quan khi nền hàng hoá ra đời và phát triển. Khi nền đại công nghiệp ra đời ở hầu hết các nước Châu Âu thì việc thuê mước lao động làm thuê đã ra đời và ngày càng trở lên phổ biến. Việc thuê mướn hình thành mối quan hệ chủ thợ một cách rất tự nhiên . Mối quan hệ này lúc đầu tưởng rất suôn sẻ nhưng dần đã phát sinh một loạt các mâu thuẫn trong đó mâu thuẫn lớn và chủ yếu nhất là vấn đề tiền công ,tiền lương, vấn đề thời gian làm việc và đặc biệt là vấn đề khi người lao động không may bị tai nạn ốm đau , khi người lao động nữ sinh đẻ … chủ có trả tiền hay không. Lúc đầu giới chủ tuyên bố không trả lương cho nên người lao động phải tự lo.Và người lao động tự giải quyết bằng cách hình thành những hội tương hỗ để giúp đỡ lẫn nhau trong lúc khó khăn . Nhưng cách thức này hoàn toàn mang tính chất tự phát . Tuy nhiên giới chủ ngày càng bóc lột công nhân thậm tệ hơn bằng cách kéo dài thời gian làm việc ,tăng cường độ làm việc …. Từ đó làm cho người lao động bị tai nạn , ốm đau ngày càng nhiều , từ đó làm bùng phát những cuộc đấu tranh biểu tình đòi giới chủ phải trả tiền công tiền lương cho họ trong những ngày ốm, nghỉ thai sản. Cuộc đấu tranh ngày càng lan rộng buộc chính phủ các nước phải can thiệp . Chính phủ yêu cầu phải thực hiện theo đúng yêu cầu của người lao động nhưng giới chủ vẫn không nghe . Chính vì vậy cuộc đấu tranh đã trở nên cao trào và lan rộng khắp thế giới buộc chính phủ phải can thiệp bằng cách: + Yêu cầu thợ phải trích từ tiền lương của mình hàng tháng một số tiền nhất định để đóng góp vào quỹ chung. + Yêu cầu chủ cũng phải đóng góp vào quỹ này. + Nhà nước là người đứng ra boả trợ và quản lý quỹ và ding quỹ đó trợ cấp cho người lao động trong những trường hợp nói trên . Toàn bộ những mối quan hệ nói trên được thế giới lúc đó gọi là BHXH cho người lao động. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết phải tiến hành bảo hiểm cho người lao động .Vì vậy , BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con người như trong Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc họp thông qua ngày 10-12-1948; đã nêu: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng Bảo hiểm xã hội” 1.2 Bản chất của BHXH Có nhiều định nghĩa khác nhau về BHXH nhưng nhìn trung có thể hiểu BHXH là sự bù đắp một phần thu nhập bị mất khi gặp phải những rủi ro xã hội như ốm đau tai nạn lao động, bệnh nghê nghiệp dẫn đến bị giảm hoặc mất sức lao động , mất việc làm thông qua một quỹ tài chính tập trung từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động đồng thời có thêm sự hỗ trợ một phần của nhà nước .Từ đó người lao động và gia đình họ ổn định được cuộc sống . Từ định nghiã trên bản chất của bảo hiểm đựơc thể hiện ở những nội dung cơ bản sau: + BHXH là sự phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong xã hội sự phân phối lại thu nhập này được thực hiện theo cả chiều dọc và chiều ngang( theo thời gian và không gian) . Người sử dụng lao động và nhà nước không được trực tiếp hưởng mà chỉ có người lao động mới được hưởng .Người lao động mặc dù là người trực tiếp được hưởng nhưng phần lớn số tiền đóng góp chủ yếu là của người sử dụng lao động và một phần của nhà nước người lao động phải đóng rất ít. + Các rủi ro xã hội được bảo hiểm trong chính sách xã hội thường là những rủi ro liên quan đến quá trình lao động như tai nạn lao động , bệnh nghề nghiệp hoặc là những rủi ro biến cố hoặc sự kiện có tính chất tất yếu cơ bản trong cuộc sống con người như ốm đau , thai sản. +Mục đích của BHXH là góp phần ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ khi gặp phải những rủi ro xã hội, góp phần vào sự an toàn chung và sự ổn định kinh tế chính trị xã hội của đất nước +BHXH là tất yếu khách quan được hình thành và phát triển gắn liền với nền kinh tế thị trường khi sức lao động trở thành hàng hoá đặc biệt. 1.3 Đối tượng của BHXH Đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động , mất việc làm của những người lao động tham gia BHXH. Đối tượng tham gia BHXH là những người lao động và người sử dụng lao động. 1.4 Tác dụng của BHXH + Người lao động : thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Đồng thời kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. +Xã hội : tiến hành phân phối va phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử dụng sử dụng lao động, BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. Gắn bó lợi ích giữa người lao động –người sử dụng lao động , giữa ngưòi lao động –xã hội. Đối với nhà nước chi cho BHXH là cách thức chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế chính trị được phát triển và an toàn hơn. Giúp giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước đồng thời quỹ bảo hiểm còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. + Người sử dụng lao động : khi người lao động được đóng bảo hiểm thì sẽ kích thích người lao động hăng hái lao động hơn từ đó làm năng suất lao động tăng và lợi nhuận của người sử dụng lao động tăng. Sự tham gia đóng góp BHXH không chỉ người sử dụng lao động mà còn người lao động và nhà nước. Có sự san xẻ bớt gánh nặng cho người sử dụng lao động. 1.5 Tính chất của BHXH Tính bảo hiểm Người tham gia bảo hiểm không chỉ là người đóng góp duy nhất mà còn cả người sử dụng lao động và nhà nước +Nhằm giúp các thành viên trong xã hội ổn định thu nhập khi gặp rủi ro. + Thể hiện sự san xẻ rủi ro. + Hoạt động trên cơ sở số đông bù số ít. Bảo đảm nguyên tắc có đóng mới có hưởng Tính xã hội Mang đầy đủ tính chất xã hội nói chung. Người lao động đóng vai trò quan trọng và đông đảo nhất trong xã hội, có ảnh hưởng lớn nhất đến sự phát triển của đất nước.Mọi người trong xã hội đều có quyền bình đẳng tham gia bảo hiểm xã hội và BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ kể cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao động. 2.Những quan điểm cơ bản về bảo hiểm xã hội 2.1. Chính sách Bảo hiểm xã hội là một bộ phận cấu thành và là bộ phận quan trọng nhất trong chính sách xã hội Mục đích chủ yếu của chính sách này nhằm đảm bảo đời sống cho mọi người lao động và gia đình họ, khi người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động , mất việc làm. Thực chất , đây là một trong những chính đối với con người, nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người . Chính sách BHXH còn thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế , khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia. 2.2. Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho người lao động. Người sử dụng lao động thực chất là các tổ chức, các doanh nghiệp và các cá nhân có thuê mướn lao động. Họ phải có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH và có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động mà mình sử dụng theo đúng luật pháp quy định. Người lao động làm việc bình thường thì phải trả lương thoả đáng cho họ .Khi họ gặp rủi ro , bị ốm đau , tai nạn lao động … các doanh nghiệp phải có trách nhiệm BHXH cho họ. 2.3. Người lao động được bình đẳng về nghiã vụ và quyền lợi đối vối BHXH. Mọi người lao động trong xã hội đều được hưỏng BHXH như tuyên ngôn nhân quyền đã nêu, đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi trợ cấp BHXH . Người lao động khi gặp rủi ro nếu muốn được bảo hiểm thì bản thân người lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo vệ mình. 2.4. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố - Tình trạng mất khả năng lao động - Tiền lương lúc đang đi làm - Ngành nghề công tác và thời gian công tác - Tuổi thọ bình quân của người lao động - Điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thời kỳ Về nguyên tắc mức trợ cấp BHXH phảI thấp hơn mức lương lúc đang đi làm, nhưng vẫn phải đảm bảo mức sống tối thiểu. Quan điểm này vừa phản ánh tính cộn động xã hội, vừa phản ánh nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho những người tham gia BHXH. Trợ cấp BHXH là loại trợ cấp thay thế tiền lương. Mà tiền lương là khoản tiền mà người lao động trả cho người lao động khi họ thực hiện được những công việc hoặc định mức công việc nào đó. Nếu mức trợ cấp trợ cấp bằng hoặc cao hơn tiền lương thì không một người lao động nào phải cố gắng tìm kiếm việc làm và tích cực làm việc để có lương , mà ngược lại sẽ lợi dụng BHXH để được nhận trợ cấp. Hơn nữa , cách lập quỹ BHXH theo phương thức dàn trảI rủi ro cũng không cho phép trả trợ cấp BHXH bằng tiền lương lúc đang đi làm. 2.5. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH , tổ chức bộ máy thực hịên chính sách BHXH Thực tế cho thấy nếu không có sự can thiệp của nhà nước , nếu không có sự quản lý vĩ mô của nhà nước thì mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động sẽ không được duy trì bền vững. Nhà nước phải quản lý toàn bộ quy trình quản lý một cách chặt chẽ và thông nhất.Trước hết phải khẳng định rằng việc hoạch định chính sách BHXH là khâu đầu tiên và quan trọng nhất. Sự quản lý này của nhà nước về vấn đề này thể hiện ở việc xây dung các dự án luật, các văn bản pháp quy về BHXH và ban hành thực hiện . Sau đó là hướng dẫn , kiểm tra, thanh tra các tổ chức , cá nhân thực hiện chính sách. Để quản lý BHXH, nhà nước sử dụng các công cụ chủ yếu như luật pháp và bộ máy tổ chức. Nhìn chung ,hầu hết các nước trên thế giới , việc quản lý vĩ mô BHXH đều được nhà nước giao cho bộ lao động hoặc bộ xã hội trực tiếp điều hành 3. Quỹ BHXH 3.1. Khái niệm và đặc điểm BHXH là một chính sách xã hội tuy nhiên khác với các chính sách ở chỗ chi tiêu thường được lấy tù ngân sách nhà nước còn đối với BHXH lấy từ quỹ BHXH. BHXH là một quỹ tập trung độc lập nằm ngoài ngân sách , chỉ đảm bảo cho việc chi trả trong nội bộ của hệ thống để cân bằng thu chi ,có chi có hưởng. Quỹ bảo hiểm có những đặc điểm sau: + Quỹ ra đời, tồn tại và phát triển gắn với mục đích đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp phải các biến cố, rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động. +Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn trả. Tính chất hoàn trả : người lao động là đối tượng tham gia và đóng góp BHXH đồng thời họ cũng là đối tượng được nhận trợ cấp . Tính không hoàn trả : cùng tham gia đóng BHXH nhưng có người được hưởng trợ cấp nhiều lần và nhiều chế độ khác nhau , nhưng cũng có những người được nhận ít lần hơn, thậm chí không được nhận . Mức trợ cấp thường lớn hơn so với mức đóng góp của họ. + Quá trình tích luỹ để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn về tài chính đối với quỹ BHXH là một vấn đề mang tính nguyên tắc. Đặc điểm này xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là đảm bảo an toàn về thu nhập cho người lao động.Vì vậy đến lượt mình, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. + Quỹ BHXH là hạt nhân , là nội dung vật chất của tài chính BHXH. Nó là khâu tài chính trung gian cùng với ngân sách nhà nước và tài chính doanh nghiệp hình thành nên hệ thống tài chính quốc gia. + Sự ra đời , và tồn tại phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước. 3.2. Nguồn hình thành Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ những nguồn cơ bản sau: +Về phía người lao động : sự đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của mình , vừa có thể hiện ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ. +Về phía người sử dụng lao động: sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn. Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp , kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ và thợ. +Về phía nhà nước: BHXH không thể thiếu được sự đóng góp của nhà nước.Trước hết các luật lệ của nhà nước về BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và người sủ dụng lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sở để giải quyết. Ngoài ra bằng nhiều hình thức , biện pháp và mức độ can thiệp khác nhau đã làm chỗ dựa cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định. Về mức đóng góp BHXH một số nứơc quy định người sử dụng lao động phải chụi toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động. Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình,các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cung đóng góp mỗi bên bằng nhau. Đối với nước ta: + Người sử dụng lao động đóng bằng tổng quỹ tiền lươngcủa những người tham gia BHXH trong đơn vị .Trong đó , 10% chi trả các chế độ hưu trí, rử tuất và 5% để chi các chế độ thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghê nghiệp. + Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử tuất. +Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ bảo hiểm đối với người lao động + Các nguồn khác Mức đóng BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Khi xác định phí BHXH vẫn phải đảm bảo nguyên tắc : Cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất. Phí BHXH được xác định theo công thức: P = f1 + f1 + f3 Trong đó: P: Phí BHXH f1: Phí thuần tuý trợ cấp BHXH f2 : Phí dự phòng f3 : Phí quản lý 3.3. Mục đích sử dụng Quỹ BHXH trước hết được sử dụng để chi trả trợ cấp cho người lao động khi gặp phải các rủi ro xã hội. Chi trả cho các chi phí quản lý của bộ máy hành chính công đứng ra tổ chức thực hiện BHXH. Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Tuy nhiên quá trình sử dụng quỹ BHXH mà phần sử dụng nhiều nhất là để chi trả các chế độ còn phụ thuộc vào việc thành lập quỹ BHXH theo phương thức nào: + Nếu chỉ thành lập một quỹ BHXH tập trung thống nhất thì việc chi trả cũng phải đảm bảo tính thống nhất theocác nội dung chi trả. + Nếu quỹ BHXH được hình thành 2 loại : Quỹ BHXH ngắn và quỹ BHXH dài hạn thì việc chi trả và và quản lý sẽ cụ thể hơn. Phương thức này đảm bảo cho công tác chi trả sát thực tế và đúng mục đích hơn. + Nếu quỹ BHXH được thành lập theo từng chế độ thì việc chi trả sẽ càng trở nên đơn giản và đảm bảo đúng mục đích. Theo công ứơc quốc tế Giơnevơ số 102/1952 của tổ chức lao động ILO rủi ro xã hội đã khuyến nghị các nước thực hiện theo 9 chê độ. Đây còn được gọi là hệ thống các chế độ BHXH bao gồm: +Chăm sóc y tế: Hiện nay phát triển lên một bậc cao hơn đó chính là bảo hiểm y tế, nó trả cho phí khám chữa bệnh. Sự cần thiết của bảo hiểm y tế: Bù đắp chi phí khám chữa bệnh phát sinh khi người lao động bị ốm đau bệnh tật Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm y tế được thực hiện trên cơ sỏ đảm bảo công bằng xã hội trong việc khám chữa bệnh đối với tất cả các thành viên trong xã hội thuộc các tầng lớp dân cư khác nhau đặc biệt đảm bảo cho người nghèo khám chữa bệnh đầy đủ Khi nền kinh tế phát triển, đời sống con người được nâng cao và nhu cầu khám chữa bệnh được nâng cao, và chi phi khám chữa bệnh cũng tăng lên, các trang thiết bị y tế ngày một hiện đại vốn đầu tư lớn và để bù đắp chi phi tăng lên. Ngoài ra sự xuất hiện của các bệnh nan y đòi hỏi các chi phí biệt dược tăng va chi phí tiền công cho thầy thuốc cũng tăng lên. Vấn đề chăm sóc sức khoẻ cho người dân luôn đựơc coi là một chương trình quan trọng ở các nứơc trên thế giới. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào từng điều kiện của từng nước mà mỗi nước sử dụng những phương thức khác nhau : Nhà nước trợ giúp một phần. Nhà nước trợ cấp hoàn toàn chi phí khám chữa bệnh. Nhà nước chi trả toàn bộ chi phí khám chữa bệnh. Đối tượng tham gia bảo hiểm: là toàn bộ người dân có nhu cầu bảo hiểm y tế cho sức khoẻ của mình hoặc cũng có thể là một người đại diện cho một tập thể…đứng ra ký kết hợp đồng bảo hiểm y tế. Hoạt động y tế bao gồm: phòng bệnh, chữa bệnh, và phục hồi chức năng. Nguồn hình thành: do người sử dụng lao động, người lao động và nhà nước. Thông thường người lao động đóng 34 – 50% va người sử dụng lao động 50 – 66%. Phí bảo hiểm thường được tính trên cơ sở các dữ liệu thống kê: P = f + d P – phí bảo hiểm y tế/người /năm f - phí thuần d – phụ phí Mục đích: Chi thanh toán chi phí y tế, đây là khoản chi thường xuyên và lớn nhất. Chi dự trữ, dự phòng dao động lớn. Chi để phòng hạn chế tổn thất. Chi quản lý Tỷ lệ và quy mô các khoản chi này thường được quy định trước bởi cơ quan bảo hiểm y tế và có thể thay đổi theo từng điều kiện cụ thể. Trong thực tế khi chưa thực hiện được bảo hiểm y tế toàn dân ở các nước còn có thể thực hiện thêm các loại hình bảo hiểm tự nguyện cho người dân lao động tự do và bảo hiểm y tế bảo hiểm y tế trong các chương trình bảo hiểm con người của các công ty bảo hiểm thương mại hoàn toàn chỉ có người tham gia bảo hiểm đóng góp. + Chế độ trợ cấp ốm đau: được chi trả khi người được bảo hiểm bị ngừng thu nhập do ốm đau hay tai nạn không liên quan đến nghề nghiệp đã được giám định. Thời gian định lượng: thời gian này có thể là 4 tháng tham gia đóng bảo hiểm trong số 6 tháng đi làm Tỷ lệ hưởng : tiêu chuẩn của ILO quy định tỷ lệ này là 45% (1952) và 60% (1969) Thời gian hưởng chế độ: khoảng thời gian chờ đợi tối đa là 3 ngày đối với mỗi thời kỳ bị ốm, thời gian tối thiểu là 26 tuần hoặc 13 tuần nếu có ngoại lệ. Ngừng bảo hiểm: khi cố tình lừa dối không tuân thủ thực thi lời khuyên về y tế.. +Chế độ trợ cấp về thất nghiệp: hay chính là bảo hiểm thất nghiệp Theo định nghĩa của tổ chức quốc tế ILO: Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động, muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức lương thịnh hành. Dù quan niệm như thế nào đi chăng nữa thì một người lao động được coi là thất nghiệp phải thể hiện đầy đủ các đặc trưng sau: Là người lao động, có khả năng làm lao động. Đang không có việc làm. Đang đ tìm việc làm. Thất nghiệp xảy ra ở tất cả các quốc gia trên thế giới không phân biệt giầu hay nghèo. Có rất nhiều lý do xảy ra thất nghiệp và kèm theo là những tác động xấu đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nhưng chủ yếu là do nhưng nguyên nhân chính sau: Chu kỳ kinh doanh có thể mở rộng hay thu hẹp do sự điều tiết của thị trường của thị trường. Do cung cầu của thị trường sức lao động co giãn thay đổi phát sinh hiện tượng thất nghiệp. Do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật nên trong một trừng mực nào đó máy móc đã thay thế con người . Số công nhân bị máy móc thay thế đã bổ sung vào đội quan thất nghiệp. Sự gia tăng dân số và nguồn lao động cùng với qua trình quốc tế hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế làm một bộ phận người lao động bị thất nghiệp. Do người lao động không ưa thích công việc đang làm hoặc địa điểm làm việc , họ phải đi tìm công việc mới và địa điểm mới. Hậu quả của thất nghiệp ảnh hưởng hầu hết các mặt của đời sống xã hội cung như đến Người lao động cũng như gia đình họ: Đối với nền kinh tế: là một sự lãng phí nguồn lực xã hội, là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình đốn, chậm phát triển, làm thu nhập quốc gia (GHI)thực tế nhỏ hơn tiềm năng( GNI) Đối với xã hội: thất nghiệp làm người lao động hoang mang buồn chán và thất vọng, ngoài ra nó còn gây ra những hiện tượng tiêu cực trong xã hội như : trộm cắp, cờ bạc, mại dâm… Thất nghiệp gia tăng còn làm cho tình hình chính trị xã hội bất ổn hiện tượng bãi công, biểu tình có thể xảy ra, làm người lao động không tin vào khả năng lãnh đạo của đảng. Vì hậu quả của thất nghiệp là rất nghiêm trọng và ảnh hưởng rất lớn đến xã hội chính phủ các nước đã có những chính sách và những biện pháp giảI quyết như: Chính sách dân số. Ngăn cản di cư từ nông thôn ra thành thị. áp dụng các công nghệ thích hợp. Giảm độ tuổi nghỉ hưu. Chính phủ tăng cường đầu tư cho nền kinh tế. Trợ cấp thôi việc, mất việc làm. Trợ cấp thất nghiệp. Bảo hiểm thất nghiệp. Đối tượng được bảo hiểm: là những người lao động trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động bao gồm: Những người làm công ăn lương trong các doanh nghiệp có sử dụng một số lượng lao động nhất định. Những người làm việc theo hợp đồng lao động với mức thời gian nhất định (thường là 1 năm trở nên) trong các cơ quan đoàn thể, doanh nghiệp. Những công chức, viên chức nhà nứơc, những người lao động độc lập không có chủ, những người làm thuê theo mùa thời vụ không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm : là rủi ro nghề nghiệp, và điều kiện để hưởng trợ cấp : Người tham gia bảo hiểm phải nộp phí bảo hiểm trong một thời gian nhất định Thất nghiệp không phải do lỗi của người lao động. Phải đăng kí thất nghiệp. Phải sẵn sàng làm việc. Có sổ bảo hiểm thất nghiệp để chứng nhận có tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ thời hạn quy định. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp: là một quỹ tài chính độc lập tập trung nằm ngoài ngân sách nhà nước. Quỹ được hình thành từ 3 nguồn chủ yếu: người tham gia bảo hiểm thất nghiệp đóng, nhà sử dụng lao động đóng góp, nhà nước bù thêm. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp ít hay nhiều phụ thuộc vào tỷ lệ đóng góp của các bên tham gia và số người tham gia.Tỷ lệ đóng góp cũng tuỳ thuộc vào tỷ lệ thất nghiệp, mức hưởngvà thời gian hưởng ví dụ: ở Bỉ là 0,87 đối với người lao động, 1,23 đối với người sử dụng lao động và nhà nước bù thiếu còn ở pháp là: 2,97; 2. Mức trợ cấp : về nguyên tắc mức trợ cấp phảI thấp hơn thu nhập của người lao động khi đang làm việc. Mức trợ cấp phải dựa trên cơ sở đảm bảo cho người thất nghiệp đủ sống ở mức tối thiểu trong thời gian không có việc làm, đồng thời sao cho họ không thể lạm dụng để muốn hưởng trợ cấp hơn là đi làm.Hầu hết các n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc110837.doc
Tài liệu liên quan