Ngày nay cùng với sự hội nhập và phát triển sâu rộng của nền kinh tế thị trường, người ta càng có nhiều điều kiện và lý do để quan tâm tới môi trường, chẳng hạn do sự phát triển quá nóng của nền kinh tế hay sự phát triển thiếu bền vững khiến những nhà chức trách phải xem xét lại trong phương hướng và chính sách của mình những vấn đề liên quan đến môi trường bởi lẽ môi trường và phát triển có những mối quan hệ chặt chẽ.
Trong quan điểm truyền thống đã không tính đến yếu tố môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đây là một khiếm khuyết cơ bản dẫn đến hậu quả là nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, chất thải ra môi trường không được đánh giá một cách đầy đủ, ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên.
Trong quan điểm hiện nay người ta cho rằng hệ thống kinh tế được gắn kết với hệ thống tự nhiên thông qua hai dòng vật chất cơ bản: các yếu tố đầu vào dưới dạng tài nguyên thiên nhiên và chất lượng môi trường và các yếu tố đầu ra dưới dạng chất thải, việc lượng hóa được đầu vào và đầu ra của các sản phẩm tức là chúng ta đã lượng hóa được các chi phí và lợi ích của tài nguyên và môi trường, điều này có nghĩa chúng ta đã khắc phục được những thất bại của thị trường.
Nhìn nhận mang tính chất toàn diện thì môi trường có 3 vai trò chính đó là: cung cấp tài nguyên thiên nhiên, chứa chất thải, dịch vụ sinh thái và cung cấp thông tin. Từ vai trò của môi trường con người đã biết vận dụng những quy luật tự nhiên để đưa ra các vấn đề như vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học ở những vùng nhiệt đới có đa dạng sinh học cao.
Việt Nam là một nước nằm trong khí hậu nhiệt đới gió mùa có độ ẩm và nền nhiệt cao có những điều kiện thuận lợi để phát triển rừng cùng hệ đa dạng sinh học cao. Đó là những tiềm năng cho phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái, du lịch vườn, một trong những ngành vừa mang lại giá trị kinh tế cao lại gìn giữ được cảnh quan tự nhiên nếu có những biện pháp và chính sách đúng đắn.
Vườn quốc gia Cát Bà là một trong sáu khu sinh thái Việt Nam được Unesco công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới (Cần Giờ, Cát Tiên, Đồng bằng sông Hồng, Cát Bà, Kiên Giang và Tây Nghệ An). Cho đến ngày nay, Cát Bà đã trở thành địa chỉ du lịch quen thuộc với nhiều người, nhất là với khách thích đi du lịch sinh thái.
Đây là một điểm du lịch hấp dẫn du khách bởi có chất lượng môi trường tốt, số lượng du khách đến nơi này hàng năm là tương đối lớn.Chính vì vậy tôi quyết định chọn đề tài của mình là: “Áp dụng phương pháp chi phí du lịch để đánh giá giá trị cảnh quan vườn quốc gia Cát Bà, Hải Phòng”.
81 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Áp dụng phương pháp chi phí du lịch để đánh giá giá trị cảnh quan vườn quốc gia Cát Bà, Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
GIẢI NGHĨA TỪ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
Tiếng anh
Tiếng việt
1
ITCM
Individual travel cost method
Phương pháp chi phí du lịch cá nhân
2
ZTCM
Zonal travel cost method
Phương pháp chi phí du lịch theo vùng
3
TEV
Total economic value
Tổng giá trị kinh tế
4
VQG
Vườn quốc gia
5
DLST
Du lịch sinh thái
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
TÊN BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Lượng du khách đến VQG Cát Bà qua các năm
36
Bảng 3.1: Đặc điểm kinh tế - xã hội của du khách phỏng vấn
46
Bảng 3.2: Số du khách trong mỗi nhóm tại VQG Cát Bà
48
Bảng 3.3: Mục đích du khách tới VQG Cát Bà
49
Bảng 3.4: Các hoạt động được du khách ưa thích
50
Bảng 3.5: Những điểm làm du khách chưa hài long
51
Bảng 3.6: Phân vùng xuất phát
54
Bảng 3.7: Số lượt tham quan của mỗi vùng
56
Bảng 3.8: Tỷ lệ tham quan/1000dân/năm
57
Bảng 3.9: Chi phí ăn, ở của mỗi vùng
60
Bảng 3.10: Chi phí đi lại của du khách
61
Bảng 3.11: Chi phí cơ hội
63
Bảng 3.12: Tổng hợp các chi phí
63
Bảng 3.13: Giá trị VRi, Pi ở các vùng
64
Bảng 3.14: Lợi ích giải trí và thặng dư tiêu dùng của du khách các vùng
67
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
TÊN HÌNH
Trang
Hình 1.1: Sơ đồ tổng giá trị kinh tế
6
Hình 2.1: Bản đồ vị trí địa lý VQG Cát Bà
20
Hình 2.2: Bản đồ du lịch VQG Cát Bà
22
Hình 2.3: Một trong những làng nổi ở Cát Bà
33
Hình 2.4: Lượng khách đến VQG Cát Bà qua các năm
37
Hình 3.1: Đồ thị hàm cầu giải trí VQG Cát Bà
66
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay cùng với sự hội nhập và phát triển sâu rộng của nền kinh tế thị trường, người ta càng có nhiều điều kiện và lý do để quan tâm tới môi trường, chẳng hạn do sự phát triển quá nóng của nền kinh tế hay sự phát triển thiếu bền vững khiến những nhà chức trách phải xem xét lại trong phương hướng và chính sách của mình những vấn đề liên quan đến môi trường bởi lẽ môi trường và phát triển có những mối quan hệ chặt chẽ.
Trong quan điểm truyền thống đã không tính đến yếu tố môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đây là một khiếm khuyết cơ bản dẫn đến hậu quả là nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt, chất thải ra môi trường không được đánh giá một cách đầy đủ, ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên.
Trong quan điểm hiện nay người ta cho rằng hệ thống kinh tế được gắn kết với hệ thống tự nhiên thông qua hai dòng vật chất cơ bản: các yếu tố đầu vào dưới dạng tài nguyên thiên nhiên và chất lượng môi trường và các yếu tố đầu ra dưới dạng chất thải, việc lượng hóa được đầu vào và đầu ra của các sản phẩm tức là chúng ta đã lượng hóa được các chi phí và lợi ích của tài nguyên và môi trường, điều này có nghĩa chúng ta đã khắc phục được những thất bại của thị trường.
Nhìn nhận mang tính chất toàn diện thì môi trường có 3 vai trò chính đó là: cung cấp tài nguyên thiên nhiên, chứa chất thải, dịch vụ sinh thái và cung cấp thông tin. Từ vai trò của môi trường con người đã biết vận dụng những quy luật tự nhiên để đưa ra các vấn đề như vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học ở những vùng nhiệt đới có đa dạng sinh học cao.
Việt Nam là một nước nằm trong khí hậu nhiệt đới gió mùa có độ ẩm và nền nhiệt cao có những điều kiện thuận lợi để phát triển rừng cùng hệ đa dạng sinh học cao. Đó là những tiềm năng cho phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái, du lịch vườn, một trong những ngành vừa mang lại giá trị kinh tế cao lại gìn giữ được cảnh quan tự nhiên nếu có những biện pháp và chính sách đúng đắn.
Vườn quốc gia Cát Bà là một trong sáu khu sinh thái Việt Nam được Unesco công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới (Cần Giờ, Cát Tiên, Đồng bằng sông Hồng, Cát Bà, Kiên Giang và Tây Nghệ An). Cho đến ngày nay, Cát Bà đã trở thành địa chỉ du lịch quen thuộc với nhiều người, nhất là với khách thích đi du lịch sinh thái.
Đây là một điểm du lịch hấp dẫn du khách bởi có chất lượng môi trường tốt, số lượng du khách đến nơi này hàng năm là tương đối lớn.Chính vì vậy tôi quyết định chọn đề tài của mình là: “Áp dụng phương pháp chi phí du lịch để đánh giá giá trị cảnh quan vườn quốc gia Cát Bà, Hải Phòng”.
2. Mục tiêu
- Áp dụng phương pháp chi phí du lịch vào một địa điểm cụ thể để làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn để nâng cao nhận thức.
- Xác định giá trị cảnh quan môi trường VQG Cát Bà để đề xuất các giải pháp cho phát triển bền vững.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian lãnh thổ: Vườn quốc gia Cát Bà.
- Thời gian nghiên cứu: Điều tra phỏng vấn khách du lịch vào tháng 3, tháng 4 năm 2009.
- Giới hạn nghiên cứu: Nghiên cứu và tính toán giá trị cảnh quan môi trường tại Vườn quốc gia Cát Bà.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin: tổng hợp tài liệu thứ cấp và phỏng vấn trực tiếp
Phương pháp thực địa: Đây là phương pháp rất cần thiết và không thể thiếu trong nghiên cứu định giá môi trường, đặc biệt là khi sử dụng phương pháp chi phí du lịch, kết hợp với việc nghiên cứu qua các tài liệu khác, phương pháp thực địa được coi là một phương pháp chủ đạo trong chuyên đề vì lãnh thổ nghiên cứu nhỏ đòi hỏi phải có những khảo sát thực địa tương đối cụ thể để nắm được đặc trưng lãnh thổ một cách thực tế. Phương pháp này được kết hợp với phương pháp điều tra xã hội học các đối tượng khách du lịch. Vì thế các thông tin thực tế qua quan sát, nghe, trao đổi, thu thập được càng phong phú hơn.
Phương pháp điều tra xã hội học: Đây cũng là một phương pháp không kém phần quan trọng trong việc lượng giá giá trị cảnh quan của địa điểm nghiên cứu, các thông tin thu thập được qua điều tra giúp nhà nghiên cứu tổng hợp được các ý kiến và các số liệu cần thiết cho tính toán. Cùng với phương pháp thực địa, phương pháp này khá quan trọng trong việc phân tích các hiện tượng thực tế.
Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các chuyên gia về kinh tế môi trường trong việc xây dựng, thiết kế bảng hỏi, phương pháp phỏng vấn khách du lịch cũng như việc xây dựng các mô hình tính toán trong đề tài này.
Phương pháp xử lý số liệu bằng các phần mềm Excel: Các số liệu điều tra sẽ được tổng hợp và tính toán bằng các hàm cơ bản trên Excel ví dụ như min, max, average…hàm cầu du lịch được hồi quy bằng công cụ Regression Analysis trong excel.
Phương pháp lượng giá gía trị cảnh quan: Để lượng giá giá trị cảnh quan của địa điểm nghiên cứu, trong đề tài này tôi sử dụng phương pháp chi phí du lịch theo vùng (ZTCM).
5. Cấu trúc chuyên đề
Chương I. Phương pháp TCM cho đánh giá hàng hóa chất lượng môi trường
Chương II. Tổng quan về VQG Cát Bà
Chương III. Áp dụng phương pháp TCM để lượng giá giá trị kinh tế VQG Cát Bà
CHƯƠNG I. PHƯƠNG PHÁP TCM CHO ĐÁNH GIÁ HÀNG HÓA CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG
1.1. Hàng hóa môi trường
Khái niệm
Hàng hoá môi trường là một loại hàng hoá mà người ta mơi đưa vào trong kinh tế học môi trường để xem xét giá trị của nó mà trong định nghĩa người ta cho rằng chất lượng môi trường là hàng hoá nên nó có giá trị và giá trị sử dụng.
Khi xem xét về hàng hoá môi trường cho đến nay thì các nhà kinh tế môi trường đều thống nhất cho rằng muốn nghiên cứu nó thì phải nhìn nhận trên góc độ tổng giá trị kinh tế.
Tổng giá trị kinh tế của hàng hóa môi trường
Hiện nay các nhà kinh tế môi trường cho rằng để đánh giá một hệ sinh thái trước hết phải có quan điểm nhìn nhận có tính tổng hợp bởi lẽ thực chất của một hệ thống môi trường hay hệ sinh thái bản thân nó đã có tính tổng hợp, cụ thể đó là tổng giá trị kinh tế (TEV: Total economic value). Minh họa qua sơ đồ sau:
Hình 1.1: Sơ đồ tổng giá trị kinh tế
UV
TEV
IDUV
NUV
EXVV
BV
OV
DUV
TEV = UV+NUV = (DU + IDUV) + (OV + BV + EXV)
=
Nguồn: Giáo trình kinh tế môi trường
Sự phân biệt đầu tiên và quan trọng nhất đó là giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng
UV (Use values): Giá trị sử dụng của một loại hàng hoá là tính chất có ích, công dụng của hàng hoá đó có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó cho việc sản xuất hoặc cho sự tiêu dùng cá nhân, là những giá trị bắt nguồn từ lợi ích của xã hội do sử dụng hoặc có tiềm năng sử dụng một tài nguyên môi trường nhất định hay các dịch vụ của nó. Nói cách khác giá trị sử dụng được hình thành từ việc thực sự sử dụng môi trường. Nó bao gồm:
DUV (Direct use values): Giá trị sử dụng trực tiếp là các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trực tiếp cung cấp mà chúng ta có thể tính được về giá cả và khối lượng trên thị trường. Một cá nhân có thể trực tiếp thưởng thức nguồn tài nguyên bằng cách tiêu dùng nó. Ví dụ: giá trị cảnh quan của một công viên hay một khu rừng.
IUV (Indirect use values): Giá trị sử dụng gián tiếp là những giá trị chủ yếu dựa trên chức năng của hệ sinh thái và môi trường, hay nói cách khác đây là các chức năng môi trường cơ bản gián tiếp hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế và lợi ích của mọi người. Ví dụ một khu vực bảo vệ lưu vực sông hay tầng ôzôn bảo vệ trái đất khỏi tia cực tím. Tuy nhiên sự khác nhau giữa giá trị sử dụng trực tiếp và giá trị sử dụng gián tiếp chỉ mang tính chất tương đối.
OV (Option values): Giá trị tuỳ chọn là lượng mà mỗi cá nhân sẵn sàng chi trả để bảo tồn. Đây là giá trị do nhận thức của con người đặt ra trong hệ sinh thái. Giá trị này không có tính thống nhất chung và cũng phải được tính về mặt tiền tệ theo tínn chất lựa chọn của nó. Ví dụ bảo tồn một khu vực tự nhiên là một lựa chọn cho chúng ta khả năng biến đổi nó trong tương lai hay giữ lại nó dựa vào những thông tin thu thập về giá trị tương đối của khu vực tự nhiên.
NUV (Non use values): Giá trị phi sử dụng thể hiện các giá trị phi phưong tiện nằm trong bản chất của sự vật, không liên quan đến việc sử dụng thực tế hoặc thậm chí việc lựa chọn sự vật này. Tuy nhiên thay vào đó những giá trị này thường liên quan nhiều về mặt lợi ích của con người. Gía trị phi sử dụng bao gồm:
BV (Bequest values): Giá trị tuỳ thuộc hay giá trị để lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong một hàm nhiều biến và có thể có sự thay đổi trên cơ sở phát hiện của khoa học cũng như nhận thức của con người. Một số người cho rằng giá trị tuỳ thuộc là giá trị của việc để lại các giá trị sử dụng và phi sử dụng cho con cháu.
EXV (Existen values): Giá trị tồn tại xuất phát từ nhận thức của con người về tài nguyên và môi trường mà người ta cho rằng sự tồn tại của một cá thể hay một giống loài nào đó có ý nghĩa về mặt kinh tế không chỉ trước mắt mà cả lâu dài buộc người ta phải duy trì giống loài đó bằng mọi giá. Trong việc tính toán này thì việc xác lập tiền tệ là khó khăn nhưng việc xác lập nhận thức về mặt giá trị là rất dễ dàng.
Dưới đây là ví dụ về tổng giá trị kinh tế đối với khu rừng miền núi.
DUV: Lớn nhất là gỗ củi, các động vật, giá trị phi gỗ (mộc nhĩ, nấm hương…), tất cả những giá trị đó khi chúng ta lượng giá chúng đều có khả năng xác định dễ dàng nhờ giá thị trường.
IDUV: Duy trì nguồn nước ngầm, chống lũ quýet, chống xói mòn đất → khó lượng hóa hơn rất nhiều
OV: Tuỳ thuộc vào đặc trưng của từng khu vực mà có sự lựa chọn khác nhau. Ví dụ ở các khu rừng miền núi phía bắc, giá trị tuỳ chọn có thể là giá trị của các loại cây gỗ lim, sến, táu nhưng trong khi đó các khu rừng ở Tây Nguyên có giá trị tuỳ chọn Cẩm Lai, tuỳ thuộc vào tính chất sinh thái của từng khu vực.
BV: Giá trị này phụ thuộc vào tính đặc trung của từng hệ sinh thái mà các nhà kinh tế sinh thái cần thiết phải đưa ra đánh giá tính phụ thuộc của nó. Ví dụ đối với hệ sinh thái của khu vực xung quanh hồ Ba Bể, khu vực xung quanh rừng Nà Hang, duy trì khu rừng này là chỗ dựa của loài voọc mũi hếch.Việc lượng giá các giá trị này hết sức khó khăn, nó còn tuỳ thuộc vào cách tiếp cận của từng chuyên gia.
EXV: Gía trị tồn tại giống hệ sinh thái rừng ngập mặn, là những giá trị có được nhờ duy trì hệ sinh thái của thế hệ trước để lại cũng như việc chúng ta phải đầu tư duy trì nó để mang lại lợi ích cho tương lai. Ví dụ: rừng miền núi, tính chất nguyên sinh của rừng, ví dụ cây trò chỉ của rừng Cúc Phương.
Như vậy, việc tính toán giá trị kinh tế của hệ sinh thái dựa trên quan điểm tổng hợp người ta đã đưa ra giá trị TEV, đây là cơ sở cho các nhà kinh tế học môi trường đưa ra phương pháp tiếp cận đánh giá nhằm lượng hoá các giá trị môi trường phục vụ cho việc hoạch định chính sách duy trì, bảo tồn đầu tư phát triển, đảm bảo tính bền vững.
1.2. Định giá giá trị hàng hóa chất lượng môi trường
1.2.1. Sự cần thiết phải định giá giá trị hàng hóa chất lượng môi trường
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường khi mà tất cả các loại hàng hóa đều được đem lên cân, đong, đo đếm và được định giá thông qua cung cầu trên thị trường thì hàng hóa chất lượng môi trường cũng ngày càng khẳng định vai trò cuả nó trong hệ thống nền kinh tế. Và việc định giá nó là cần thiết bởi các lý do sau:
Chất lượng môi trường trước hết nó là một loại hàng hóa bởi nó có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Như chúng ta đã biết các nhu cầu thiết yếu để duy trì sự sống của con người đó là: ăn, mặc, ở. Hàng hóa chất lượng môi trường thỏa mãn không chỉ những nhu cầu thiết yếu đó mà còn thỏa mãn vô số những nhu cầu khác của con người thông qua việc cung cấp không gian sống, các điều kiện sống, cung cấp các nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho các hoạt động sản xuất và sinh hoạt (giá trị)…Đồng thời việc phục hồi chất lượng môi trường là do lao động sản xuất của con người (hao phí lao động xã hội)- giá trị sử dụng. Như vậy cần định giá hàng hóa chất lượng môi trường để tránh gây ra thất bại trên thị trường.
Trong quá khứ người ta thường chưa chú trọng đến nguồn tài nguyên thiên nhiên vì người ta cho rằng tài nguyên thiên nhiên là thứ “thiên nhiên ban tặng” nên trong quá trình khai thác và sử dụng người ta không tính toán lượng sử dụng và cũng không quan tâm đến thiệt hại trong quá trình khai thác gây ra như việc cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm hay lượng thải phát sinh sau đó. Việc định giá môi trường là một cách nhắc nhở con người quan tâm và bảo vệ môi trường. Đồng thời qua định giá cũng đo được tốc độ sử dụng hết nguồn tài nguyên và dự báo cho con người mức độ khan hiếm nguồn tài nguyên càng gia tăng trong tương lai.
Khi đánh giá được chất lượng môi trường cũng như những thiệt hại của một hoạt động kinh tế gây ra cho môi trường sẽ góp phần tạo công bằng trong việc ra quyết định. Định giá góp phần thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền tức là qua định giá môi trường chúng ta sẽ xác định được đối tượng gây ô nhiễm phải trả bao nhiêu tiền cũng như có cơ sở cho việc xác định mức đền bù thiệt hại một cách cụ thể và rõ ràng.
Khi môi trường đã được định giá tức là giá trị của nó đã bao gồm cả giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng sẽ được lượng hóa, từ đó sẽ có tính thuyết phục cao hơn trong việc giáo dục nâng cao nhận thức của người dân cũng như có những chỉ dẫn trong việc quy trình thực hiện về mặt kinh tế đúng đắn hơn.
Nếu tiến hành lượng giá một cách cẩn thận thì sẽ tạo ra được một cơ sở an toàn và hợp lý hơn, qua đó có phương cách sử dụng môi trường cẩn thận hơn, tránh lãng phí, thất thoát các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tóm lại việc định giá hàng hóa chất lượng môi trường là một việc làm cần thiết nhằm mục đích đưa ra những giải pháp tối ưu hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
1.2.2. Sử dụng phương pháp chi phí du lịch để đánh giá giá trị hàng
hóa chất lượng môi trường
Có nhiều phương pháp để lượng giá giá trị hàng hóa chất lượng môi trường
Phương pháp đánh giá có sử dụng hàm cầu
Phương pháp đáp ứng liều lượng
Phương pháp chi phí thay thế
Phương pháp dựa vào hàm sản xuất
Phương pháp chi phí cơ hội
Phương pháp đánh giá có sử dụng hàm cầu
Phương pháp chi phí du lịch (TCM)
Phương pháp định giá ngẫu nhiên (CVM)
Trong đó phương pháp chi phí du lịch là phương pháp phù hợp hơn cả trong việc đánh giá giá trị cảnh quan tại VQG Cát Bà. Vì thế tôi đi sâu tìm hiểu về phương pháp này.
1.2.2.1. Khái niệm
Được hiểu là phương pháp dựa trên cơ sở của những điểm du lịch có sức hấp dẫn đối với du khách, thường là những điểm có chất lượng môi trường tốt. Và để đánh giá chất lượng môi trường đó người ta dựa vào chi phí du lịch để đánh giá. Chính vì vậy về nguyên tắc đối với phương pháp này thì nhu cầu về giải trí bằng nhu cầu về chất lượng môi trường tại khu vực cần đánh giá. Đây là phương pháp đánh giá gián tiếp. Trong đó đặc biệt chú ý đến nguyên tắc của phương pháp:
Nhu cầu về giải trí = Nhu cầu về chất lượng môi trường tại khu vực cần đánh giá
Là phương pháp phổ biến nhất trên thế giới trong lượng giá giá trị cảnh quan.
Được xây dựng trên giả định chi phí mà người tiêu dùng phải bỏ ra để được tiêu dùng một loại hàng hóa được xem là sự thay thế cho giá trị của hàng hóa đó.
Chi phí bỏ ra bao gồm: chi phí đi lại, chi phí thời gian, chi phí cơ hội,…
1.2.2.2. Các cách tiếp cận
ITCM (Phương pháp chi phí du lịch theo cá nhân): Cách tiếp cận này xác định mối quan hệ giữa số lần đến điểm du lịch hàng năm của một cá nhân với chi phí du lịch mà cá nhân đó phải bỏ ra
Vi = f (TCi, Si)
Trong đó:
- Vi là số lần đến địa điểm du lịch của cá nhân i trong một năm
- TCi là chi phí du lịch của cá nhân i
- Si là các nhân tố khác có ảnh hưởng đến cầu du lịch của cá nhân, ví dụ: thu nhập, chi phí thay thế, tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn…
Hàm cầu được thông qua chi phí đi lại và số lần đi như sau:
Số lần đi
Vùng dưới đường cầu = Lợi ích của giải trí = Lợi ích của khu vực tự nhiên theo giả định
Chi phí đi lại
Đường cầu về giải trí
Đơn vị quan sát của ITCM là các cá nhân đến thăm điểm du lịch, giá trị giải trí của mỗi cá nhân diện tích phía dưới đường cầu của họ, vì vậy tổng giá trị giải trí của khu du lịch được tính bằng cách tổng hợp các đường cầu cá nhân.
Theo Georgiou et al, 1997 “ITCM yêu cầu phải có sự dao động trong số lần đến địa điểm du lịch của một cá nhân hàng năm để ước lượng ra hàm cầu”. Vì vậy, cách tiếp cân ITCM sẽ gặp phải khó khăn khi sự dao động là quá nhỏ hoặc khi các cá nhân không đi đến địa điểm du lịch một vài lần trong năm. Do đó nếu mọi du khách đến địa điểm du lịch chỉ một lần trong năm thì khó có thể chạy hàm hồi quy.
Cách tiếp cận phương pháp chi phí du lịch theo cá nhân chỉ phù hợp cho các khu du lịch mà du khách đến nhiều lần trong năm như công viên hay vườn Bách Thảo…
ZTCM (Phương pháp chi phí du lịch theo vùng): Cách tiếp cận này xác định mối quan hệ giữa tỷ lệ tham quan của vùng xuất phát tới vị trí nghiên cứu với tổng chi phí du lịch của vùng xuất phát
Vi = V(TCi, POPi, Si)
Trong đó:
- Vi là số lần viếng thăm từ vùng i tới điểm du lịch
- POPi là dân số vùng i
- Si là các biến kinh tế - xã hội, ví dụ: thu nhập trung bình của mỗi vùng
Thông thường biến phụ thuộc được biểu hiện dưới dạng (Vi / POPi hay tỷ lệ tham quan trên 1000 người dân – VR)
Áp dụng ZTCM thì diện tích xung quanh điểm du lịch sẽ được chia thành nhiều các vùng với khoảng cách khác nhau tới điểm du lịch. Vì vậy đơn vị quan sát cuả ZTCM là vùng. ZTCM sử dụng tỷ lệ số lần viếng thăm của mỗi vùng tới điểm du lịch (VR) là hàm của chi phí du lịch. Bởi vậy số lần một cá nhân tới điểm du lịch không ảnh hưởng đến hàm.
Tuy nhiên ZTCM cũng có những hạn chế riêng của nó. Theo Georgiou et al 1997 “ Mô hình chi phí du lịch theo thống kê không hiệu quả vì nó tổng hợp dữ liệu tứ số lượng lớn các cá nhân thành một vài vùng quan sát. Thêm vào đó mô hình chi phí du lịch theo vùng coi tất cả các cá nhân đến từ một vùng có các chi phí du lịch như nhau trong khi điều này không phải cũng đúng.
Tuy nhiên ZTCM vẫn được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam và nhiểu quốc gia khác trên thế giới và nó cũng được sử dụng để lượng giá giá trị cảnh quan VQG Cát Bà, lý do áp dụng sẽ được giải thích rõ ở chương III.
1.2.3. Các bước tiến hành
Bước 1: Chọn vị trí cần đánh giá chất lượng môi trường mà vị trí đó phải đảm bảo điều kiện phải có nhiều du khách lui tới.
Bước 2: Xây dựng bảng hỏi, hệ thống câu hỏi để điều tra khách du lịch, trong đó những thông tin cơ bản của bảng hỏi cần phải được thể hiện thông qua các yếu tố ràng buộc, trong đó những yếu tố cơ bản được xác định qua 2 yếu tố:
- Quãng đường khách du lịch tới vị trí đánh giá là bao xa, thường được phân dạng theo vùng và tính theo km, tâm của vùng để xác định bán kính chính là vị trí mà ta cần đánh giá.
- Hàng năm khách du lịch thường lui tới vị trí đánh giá bao nhiêu lần.
Phiếu điều tra cần các thông tin sau:
Họ từ đâu tới (thành phố nào, nước nào).
Số khách trên một phương tiện chuyên chở tới (ô tô, máy bay, xe máy).
Thời gian đi đến và ở tại địa điểm.
Tần suất du lịch, thời gian của chuyến đi.
Thu nhập của khách.
Chi phí du lịch trực tiếp (ăn, ở, đi lại).
Mục đích đi du lịch và sở thích du lịch của khách.
Bước 3: Phân loại những người thường đi tới vị trí đánh gía. Việc phân loại này về cơ bản chúng ta căn cứ vào yếu tố khoảng cách, và đương nhiên phải chia theo vùng và những người cùng khoảng cách thì ta ghép vào một nhóm.
Bước 4: Việc ước tính chi phí đi lại và số lần đi tới khu vực nghiên cứu của từng nhóm trên cơ sở đã phân nhóm ở bước 3.
Chi phí của mỗi chuyến đi
P = e + f + ac + OC + ct
e (entrance fee): phí vào cổng
f (food and drink): chi phí ăn uống
ac (accommodation): chi phí nghỉ ngơi
OC (opportunity cost): chi phí cơ hội hay chi phí thời gian
ct (cost of transport): chi phí phương tiện giao thông
Trong đó việc xác định chi phí cơ hội hay chi phí phương tiện giao thông là khó khăn hơn so với các loại chi phi khác.
Tính tỷ lệ tham quan trên 1000 dân ở mỗi vùng, là tổng lượt tham quan mỗi năm từ mỗi vùng chia cho dân số của vùng với đơn vị nghìn.
Bước 5: Xác định mối quan hệ giữa các chi phí đi lại và số lần lui tới vị trí đánh giá, đây là cơ sở để chúng ta xây dựng hàm cầu.
* Tuy nhiên để phương pháp chi phí du lịch có thể áp dụng được một số giả thiết sau cần được thoả mãn:
- Chi phí đi lại và giá vé vào cổng có ảnh hưởng như nhau tới hành vi, nghĩa là các cá nhân nhận thức và phản ứng về sự thay đổi trong chi phí đi lại theo cùng một kiểu đối với những thay đổi trong giá vé vào cổng. Điều này có ý nghĩa quan trọng để xác định tổng giá trị một cách chính xác.
- Từng chuyến đi tới điểm giải trí chỉ với mục đích thăm riêng điểm đó. Nếu giả thiết này bị vi phạm thì chi phí chung sẽ bị tính chung giữa nhiều nơi tham quan, thì rất khó có thể phân bổ chi phí một cách chính xác giữa nhiều mục đích khách nhau.
- Toàn bộ các lần viếng thăm đều có thời gian lưu lại giống nhau, có như vậy thì ta mới đánh giá được lợi ích của điểm giải trí thong qua số lần viếng thăm.
- Không có tiện ích hoặc bất tiện nào khác trong thời gian di chuyển tới điểm giải trí để đảm bảo chi phí đi lại không bị tính vượt quá mức.
1.2.4. Ưu điểm
- Rất thuận lợi để đánh giá giá trị môi trường tại những nơi mà có khách du lịch đông.
- Đây là một phương pháp dựa trên hàm cầu, xét về mặt kỹ thuật hiện nay nó rất phù hợp với các nhà kinh tế bởi vì các phương pháp kinh tế đã sử dụng: điều tra xã hội học, mô hình, các phần mềm liên quan đều sẵn có.
1.2.5. Hạn chế
Phương pháp này cũng tồn tại những hạn chế nhất định như:
- Kinh nghiệm sử dụng TCM cho thấy, khi đánh giá TCM yếu tố thời gian rất quan trọng với khách đi du lịch nhưng trong thực tế liệu thời gian đó trong ngày làm việc có được tính trong giá trị hay không?
- Một hành trình của khách, thông thường đều đi theo tour (lộ trình) nhưng khi đánh giá thì lại chủ yếu đánh giá tại một địa điểm, một vùng. Việc bóc tách chi phí như thế nào trong tổng chi phí mà người ta thực hiện tại điểm đánh giá là vấn đề mà người làm đánh giá phải có cách xử lý phù hợp nếu không thì kết quả trong phần chi phí sẽ phản ánh sai hoặc không chính xác, dẫn đến việc đánh giá chất lượng môi trường sẽ không đúng.
- Các cảnh quan thay thế: Trong nhiều trường hợp việc ta xác định điểm đánh giá mà chất lượng môi trường có thể thay thế bằng các cảnh quan khác thay vì cảnh quan mà chúng ta cần đánh gía đối với lựa chọn của khách. Trong trường hợp đó cách xử lý của các nhà đánh giá như thế nào để đảm bảo nguyên giá trị:
- Quyết định mua nhà: trong thực tế có nhiều trường hợp thay vì phải thường xuyên đi lại đến thưởng ngoạn về chất lượng môi trường, người ta quyết định phương án: không đi thường xuyên mà mua nhà hẳn ở đó, trong trường hợp này thì sử dụng phương pháp TCM là không phù hợp.
- Trường hợp không chi phí: Có nghĩa người khách du lịch đến vị trí đánh giá không mất tổn phí, ví dụ như những người ở gần trong trường hợp này phương pháp TCM cũng không phù hợp mặc dù vẫn phỏng vấn khách du lịch.
Tiểu kết
Đo lường giá trị cảnh quan môi trường là công việc khó khăn. Cái mà người ta muốn đo lường là sự thay đổi chất lượng môi trường tại một địa điểm. Phương pháp chi phí du lịch hạn chế trong việc phân tích chi phí lợi ích. Tuy nhiên nó lại rất hữu dụng trong việc tính giá trị kinh tế của một khu rừng, vườn quốc gia hay hệ sinh thái.
Tiếp theo tôi xin đề cập đến những thông tin liên quan đến VQG Cát Bà. Là địa điểm tôi chọn để nghiên cứu trong đề tài này.
CHƯƠNG II. GIỚI THIỆU VỀ VQG CÁT BÀ – HẢI PHÒNG
Đặc điểm tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
Hình 2.1: Bản đồ vị trí địa lý VQG Cát Bà
Nguồn: Trang web
Quần đảo Cát Bà có toạ độ 106o52’-107o07’ Đông, 20o42’- 20o54’ độ vĩ Bắc. Quần đảo có trên 300 đảo lớn nhỏ, trong đó lớn nhất là đảo chính Cát Bà rộng khoảng 100 km2. Quần đảo này nối tiếp các đảo của vịnh Hạ Long tạo nên một quần thể đảo và hang động trên biển.
R
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111409.doc