Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh

Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề “Bốn phương vô sản để là anh em”; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hưu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.

Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắnliền với chủ nghĩa yêu nước, nưn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng.

 

doc18 trang | Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1364 | Lượt tải: 3download
Nội dung tài liệu Đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kĩ thuật tiên tiến. “Trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được xoá bỏ dần, đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ngày càng được cải thiện”. + Nền kinh tế xã hôi chủ nghĩa phải được tạo lập trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Ơ thơi kỳ quá độ, nên kinh tế đó còn tồn tại bốn hình thức sở hữu chính: “Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Sở hữu của người lao động riêng lẻ. Một ít tư liêu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”, trong đó “kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu của toàn dân, nó lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và Nhà nước phải đảm bảo cho nó phát triển ưu tiên”. Như vậy, Hồ Chí Minh là người sớm đưa ra chủ trương phát triển cơ câu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. + Người nhấn mạnh: Nhiệm vụ quan trọng thứ nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và khẳng định tính tất yếu phải công nghiệp hoá: “Muốn đảm bảo đời sông sung sướng mãi mãi phải công nghiệp hóa chủ nghĩa xã hội”, “công nghiệp hoá xã hôi chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thực sự của nhân dân ta”. Người nói đến vai trò của công nghiệp nặng: “Để xây dựng thắng lợi xã hôi chủ nghĩa, chúng ta phải quyết tâm phát triển tốt công nghiệp nặng”. + Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đến công tác nghiên cứu và phổ biến khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất. Người chỉ rõ: “Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sông nhân dân… nhiệm vụ của khoa học, kỹ thuật là cực kỳ quan trọng, cho nên mọi ngành, mọi người đều phải tham gia công tác khoa học kỹ thuật”. + Coi vấn đề quản lý, hạch toán kinh tế, cho đó là chìa khoá phát triển kinh tế quốc dân, Người nói: “Quản lý một nước cũng như quản lý một doanh nghiệp: phải có lãi”, “ở xí nghiệp phải quản lý, mới biết ai làm tốt, ai làm vượt mức, ai không làm vượt mức”. + Hồ Chí Minh đề xuất chính sách mở cửa và hợp tác với các nước để thu hút ngoại lực và phát huy nội lực. + Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã bước đầu đề cập đến vấn đề khoán trong sản xuất. Người nói: “Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến kíchngười công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và công bằng dưới chế độ ta hiện nay”. Câu 21: Tư tưỏng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển văn hoá bao gồm những nội dung chủ yếu nào? Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về văn hoá với nghĩa rộng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài ngưòi mới sáng tạo và phát minh ra những ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Định nghĩa này đã chỉ ra nguồn gốc, động lực và cấu trúc văn hoá. Cũng từ định nghĩa này văn hoá được xác định là lĩnh vực của đời sống tinh thần, thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Theo Hồ Chí Minh, văn hoá có những nhiệm vụ chủ yếu như sau: # Thứ nhất, bồi dưỡng con người có tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp. # Thứ hai, nâng cao dân trí, nghĩa là đề cập tới chức năng giáo dục của văn hoá. Người chủ trương nâng cao dân trí, trước hết là toàn dân ta phải quyết tâm diệt bằng được “giặc dốt”, xoá nạn mù chữ nâng cao dần trình độ, “học để làm việc, làm người, làm cán bộ”, biến nước ta thành một nước văn hoá cao. Học phải đi đôi với hành, gắn với thực tiễn. Học ở mọi nơi mọi lúc; phải không ngừng nâng cao kiến thức chính trị, chuyên môn, tu dưỡng về chủ nghĩa Mac-Lênin từ đó vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh nước ta. # Thứ ba, bồi sưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân. + Hồ Chí Minh xác định rõ văn hoá là động lực, là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. + Tư tưởng văn hoá là một mặt trận, nghệ sĩ là người chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, thể hiện một tư duy rất độc đáo, phản ánh cuộc đấu tranh phức tạp trên lĩnh vực tư tưởng- văn hoá, đòi hỏi sự bền bỉ, kiên cường và lòng dũng cảm của người hoạt động văn hoá phục vụ lý tưởng cách mạng, mục tiêu chính trị của Đảng và của dân tộc. Hồ Chí Minh có câu nói bất hủ: “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. + Văn hoá phải phục vụ quần chúng nông dân, đó là quan điểm xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá. Người nhắc nhở các nhà văn hóa nhận thức đúng về vai trò của quần chúng, quần chúng là những người không phải chỉ sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội mà còn là những người sáng tác nữa; phải có cách viết phù hợp với trình độ đại đa số đồng bào, phải học cách nói của quần chúng. Khi cầm bút viết phải tự đặt ra: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào? Người kết luận “nghệ thuật phải gắn với cuộc sống”. Sau khi giành chính quyền về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nền văn hoá mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. Khi tiến hành cuộc cách mạng xã hôi chủ nghĩa, Người chỉ đạo xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có nội dung xã hôi chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Người khẳng định “Con đường đúng đắn duy nhất là xây dựng một nền văn hoá nghệ thuật xã hôi chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức.” +Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú y đến xây dựng đời sống văn hoá và nếp sống văn hoá. Tháng 4 năm 1946, Người ký Sắc lệnh thành lập Uỷ ban Trung ương vận động đời sống mới. Tháng 3 năm 1947, Người đă viết cuốn sách Đời sống mới, với bút danh Tân Sinh, nội dung cuốn sách nói về việc ăn, ở, mặc, đi lại, làm việc đối với cá nhân, gia đình, làng xóm. “Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới”. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ. Thí dụ: Ta phải bỏ hết tính lười biếng, tham lam. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ: Đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi. Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm. Thí dụ: Ta phải tưong thân tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân hơn khi trước. Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm. Thí dụ: Ăn ở cho hợp vệ sinh, làm việc cho có ngăn nắp”. Câu 22: Tư tưởng Hồ Chí Minh về không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ? Với quan niệm văn hoá theo nghĩa rộng, Hồ Chí Minh chỉ rõ “trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá”. Hồ Chí Minh chủ ra mối quan hệ vật thiết giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, nghĩa là mối quan hệ giữa kinh tế và văn hoá và Người khẳng định kinh tế phải đi trước. Người viết: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao không nói phát triển văn hoá và kinh tế? Tục ngữ có câu: Có thực mới vực được đạo: vì thế kinh tế phải đi trước… Phát triển dân tộc và văn hoá để nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ta”. Theo Hồ Chí Minh, dưới chế độ thực dân và phong kiến, chính trị bị đàn áp, nhân dân ta bị nô lệ thì đời sống tinh thần của dân ta cũng bị nô lệ, bị áp bức cho nên không thể phát triển lành mạnh được. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, theo Hồ Chí Minh: “Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của chúng ta hiện nay là phát triển sản xuất, đẻ nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân”. Tháng 9 năm 1945, khi chính quyền dân chủ nhân dân non trẻ được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiệu triệu đồng bào cả nước ra sức: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Diệt giặc đói được đặt lên vị trí hàng đầu và Người cũng khẳng định, nước tự do độc lập mà để dân chết đói, chết rét thì nền tự do độc lập ấy chẳng có ý nghĩa gì. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến đời sống vật chất của nhân dân và chỉ thị: “Chúng ta phải thực hiện ngay: Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân được học hành” Trong bốn vấn đề phải làm ngay thì ba vấn đề liên quan đến đời sống vật chất thiết thực của dân. Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến lợi ích cá nhân, nhưng trên cơ sở giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Người viết: “Phải chú ý giải quyết các vấn đề dầu khó đến đau mặc lòng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân”. Người thấy rõ động lực quan trọng của lợi ích cá nhân: “Kinh nghiệm của Đảng ta trong quá trình cách mạng đã chỉ rõ là nơi nào, lúc nào cán bộ ta giải quyết tốt lợi ích thiết thân của nông dân… thì nơi đó, lúc đó cách mạng đều tiến lên”. Theo Hồ Chí Minh nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nghĩa là phải nâng cao ý thức giác ngộ cách mạng, độc lập dân tộc, kiên trì phấn đấu cho ý tưởng xã hôi chủ nghĩa, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc, ý thức tự lực tự cường “không có gì quý hơn độc lập tự do” của nhân dân. Phải thực hiện công bằng xã hội. Người nhắc nhở chúng ta: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”. Công bằng không có nghĩa là cào bằng, bình quân chủ nghĩa, làm triệt tiêu mất động lực kinh tế- xã hội. Phải phát triển dân trí, coi giáo duc là quốc sách. Người đòi hỏi “Đảng và Nhà nước phải nắm vững khoa học- kĩ thuật, mỗi đảng viên đều phải cố gắng học tập văn hoá, học tập khoa học và kỹ thuật” , “cán bộ phải có văn hoá làm gốc… nông dân phải biết văn hoá”. VIII Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính chí công vô tư. Câu 23: tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức bao gồm những nội dung chủ yếu nào? + Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng. + Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc cùa cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “ Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đứclà người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. + Theo Hồ Chí Minh, những chuẩn vực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau: Một là, trung với nước hiếu với dân. Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ khái niệm cũ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. “Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị- đạo đức cho mỗi con người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau. Hai là, yêu thương con người. Quan niệmcủa Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là môt trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Người viết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái… không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người. Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những ngưòi có sai lầm khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn chúng ta: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi người nảy nở như hoa mùa xuân và phấn xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”. Trong di chúc, Người căn dặn Đảng: “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người. Ba là, cần, kiệm, liêm, chính chí công vô tư Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng: lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lưòi biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”. Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, không phô trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Liêm tức là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”; “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”. Phải “trong sạch, không tham lam”, “Không tham gia địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá”. Chính, “nghiã là không tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Đối với mình: không từ cao, tự đại luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn từ kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Chí công vô tư, Người nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc”. “Khi làm bất cử việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề “Bốn phương vô sản để là anh em”; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và hưu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắnliền với chủ nghĩa yêu nước, nưn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng. + Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng sự lãnh đạo của Đảng và việc rèn luyện của mỗi người. - Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức. Cán bộ, đảng viên phải đầu tầu gương mẫu “miệng nói tay làm”, phải nêu tấm gương đạo đức cách mạng trước quần chúng; cán bộ, đảng viên đi trước, làng nước đi sau. Sống theo phương châm “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Cổ vũ “người tốt, việc tốt”, các điển hình tiêu biểu. - Xây phải đi đôi với chống. Xây dựng nền đạo đức cách mạng, giáo dục chuẩn mực đạo đức mới, khơi dậy ý thức tự giác, đạo đức lành mạnh ở mọi người, hướng mọi người vào cuộc đấu tranh cho sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức. Nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân- nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn, thứ giặc “nội xâm” phá từ trong ra. - Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người cũng khẳng định đạo đức không phải là thứ có sẵn trong mỗi người mà đạo đức là do con người tiếp thu được qua giáo dục và tạo thành nhờ bản thân tích cực tu dưỡng, bền bỉ rèn luyện trong môi trường sống và trong cuộc đấu tranh cách mạng. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hắng ngày mà phát triển củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Câu 24: Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự nghiệp đổi mới hiện nay? Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, đỏi hỏi Đảng va nhân dân ta quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ra sức bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, vận dụng các nguyên tắc xây dựng đạo đức mà Người đã nêu ra. Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã xác định xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn gắn với kinh tế. Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời hy sinh cho cách mạng để giành lấy độc lập và tự do là nhằm xoá bỏ áp bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển mọi mặt của xã hội; phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, đạo đức, con người. Tinh thần nay đã được thể hiện trong câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hôi chủ nghĩa”. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước tiwps tục cổ động phonh trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu dương các tập thể, cá nhân xuất sắc, dấy lên phong trào “người tốt việc tốt”, nêu gương sáng đạo đức cách mạng để mọi người tôn vinh và noi theo. Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng, bên cạnh việc xây dựng những phẩm chất đạo đức: Trung với nước hiếu với dân, thương người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, tinh thần quốc tế trong sáng nêu trong di sản của Người, chúng ta còn phải đấu tranh quyết liệt chống các tệ nạn xã hội nảy sinh trong nền kinh tế thị trường đang làm phương hại đến nền đạo đức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã sớm nhận ra sự nguy hiểm của bệnh “cá nhân”, đó là nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực ảnh hưởng nghiêm trọng đến chế độ. Ngay từ năm 1952, Người đã nêu rõ những tệ nạn cần phải chống gồm ba loại chính là tham ô, lãng phí, quan liêu. Người coi những tệ nạn đó là tội ác, là kẻ thù khá nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, phá từ trong phá ra. Người đã chỉ rõ tội lỗi của những kẻ tham ô, lãng phí, quan liêu cũng nặng như tội lỗi “Việt gian, mật thám”. Người cho rằng: “Việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc đấu tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót”. Cuộc sống đang đòi hỏi phải trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống đạo đức của xã hội. Hai mặt đó phải tiến hành song song. Phả khắc phục các nguyên nhân đã để cho các tệ nạn tiêu cực; càng phải khắc phục nguyên nhân đã để cho các tệ nạn tiêu cực phát triển. Trong cuộc đấu tranh này, phải lấy việc xây dựng Đảng làm nhiệm vụ then chốt, như đã được nêu ra trong nhiều nghị quyết của Đảng. Chúng ta càng thâm thía lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm niêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn còn giữ nguyên tính thời sự, soi sáng cho Đảng và nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp vẻ vang, xây dựng nền đạo đức Việt Nam ngang tầm với những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Câu3: ý nghĩa của việc học tập và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh ? Việc học tập và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất to lớn, bởi vì: + Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mac-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trên nền tảng thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mac-Lênin. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mac-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, phù hợp với lịch sử và văn hoá Việt Nam; xuất phát từ đất nước và con người Việt Nam nhằm giải đáp những yêu cầu lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, phải nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mac-Lênin đồng thời phải đẩy mạnh nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. + Thứ hai, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành được những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời đại. Trong quá trình đổi mới, mở cửa, hội nhập, hợp tác liên quốc gia, khu vực, các thế lực thù địch cũng lợi dụng để ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Làm thế nào để không chệch hướng, làm thế nào để bảo vệ được độc lập, chủ quyền dân tộc? Chỉ có nắm vững cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì chúng ta mới đổi mới, hội nhập vững vàng, tự tin và chủ động. + Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo. Hồ Chí Minh là con người của độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo. Người luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, hết sức tránh lặp lại những lối cũ, đường mòn, không ngừng đổi mới, tìm ra câu trả lời mới cho thực tiễn không ngừng biến đổi. Đó là nét đặc sắc nhất của tinh thần và phong cách Hồ Chí Minh. Ngày nay, thế giới đang diễn biến theo xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá. Để tốt những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn đổi mới thì phải nắm cái tinh thần khoa học và cách mạng, tính biện chứng của chủ nghĩa Mac-Lênin, tính độc lập, tự chủ, đổi mới và không ngừng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, biết gắn lý luận với thực tiễn, lời nói và việc làm, thực sự cải biến hiện thực đất nước. Tóm lại, nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh là để thấm nhuầm sâu sắc hệ thống quan điểm, phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh để kiên định mục tiêu, lý tưởng, nâng cao lòng yêu nước, tinh thần phục vụ nhân dân, nâng cao đạo đức cách mạng, giương cao ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đến thắng lợi.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDe cuong tu tuong HCM.Doc
Tài liệu liên quan