Đề cương ôn tập Luật Hành chính Việt Nam

Câu 7. Thủ tục hành chính. Vấn đề cải cách thủ tục hành chính trong giai

đoạn hiện nay?

TRẢ LỜI:

1. Thủ tục hành chính:

Thủ tục hành chính là cách thức thực hiện thẩm quyền quản lý hành chính nhà

nước của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước và cách thức tham gia vào các

công việc quản lý hành chính nhà nước của các tổ chức, cá nhân nhằm thực hiện

các quyền và nghĩa vụ của mình trong quản lý hành chính nhà nước theo quy định

của pháp luật.

pdf19 trang | Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đề cương ôn tập Luật Hành chính Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề cương ôn tập môn Luật Hành chính Việt Nam – Phần 2 Câu 7. Thủ tục hành chính. Vấn đề cải cách thủ tục hành chính trong giai đoạn hiện nay? TRẢ LỜI: 1. Thủ tục hành chính: Thủ tục hành chính là cách thức thực hiện thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước và cách thức tham gia vào các công việc quản lý hành chính nhà nước của các tổ chức, cá nhân nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong quản lý hành chính nhà nước theo quy định của pháp luật. Là một loại thủ tục pháp lý, thủ tục hành chính có một số đặc điểm sau: - Thủ tục hành chính là một loại thủ tục do nhiều cán bộ, công chức, cơ quan nhà nước thực hiện, những cơ quan hành chính nhà nước và các cán bộ, công chức thuộc cơ quan này là chủ thể chủ yếu thực hiện thủ tục hành chính. - Thủ tục hành chính được quy định trong Luật hành chính. - Thủ tục hành chính có tính phong phú, đa dạng. - Thủ tục hành chính là những loại thủ tục gắn với các loại công văn, giấy tờ. 2. Vấn đề cải cách thủ tục hành chính trong giai đoạn hiện nay: + Công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay tập trung vào ba nội dung lớn: - Cải cách bộ máy hành chính nhà nước trong đó tập trung vào việc điều chỉnh tổ chức và các mối quan hệ trong bộ máy hành chính nhà nước. - Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có năng lực, phẩm chất, đủ sức để thực hiện nhiệm vụ được giao. - Cải cách thể chế của nền hành chính và cải cách thủ tục hành chính, trong đó cải cách thủ tục hành chính là khâu đột phá. + Ở nước ta, thủ tục hành chính còn bộc lộ một số nhước điểm sau: - Đòi hỏi quá nhiều giấy tờ, gây phiền hà cho nhân dân nhất là đối với những người ít biết các quy định vể lề lối làm việc trong cơ quan nhà nước. - Nặng nề, nhiều cửa, nhiều cấp trung gian không cần thiết, rườm rà, không rõ ràng về trách nhiệm. - Trì trệ không phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới, còn có thói quen kinh nghiệm và dựa trên các cơ sở thực tế không còn thích hợp. - Thiếu thống nhất, thường bị thay đổi một cách tuỳ tiện. - Thiếu công khai. Chính những điều này đã làm cho việc thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân bị gây phiền hà, ảnh hưởng đến công việc chung của các cơ quan nhà nước, cản trở việc mở cửa giao lưu hợp tác của nước ta, gây ra tệ cửa quyền, bệnh giấy tờ, từ đó nảy sinh và phát triển nạn tham nhũng. Điều đó đòi hỏi phải cải cách thủ tục hành chính. Và đây là yêu cầu bức xúc đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta, là đòi hỏi của mọi tổ chức, cá nhân trong quản lý hành chính nhà nước. + Việc xây dựng và thực hiện thủ tục hành chính phải tuân thủ một số yêu cầu cụ thể sau: - Bảo đảm tính thống nhất của hệ thống thủ tục hành chính. - Bảo đảm sự chặt chẽ của hệ thống thủ tục hành chính và theo đúng quy định của pháp luật. - Bảo đảm tính hợp lý, khoa học, rõ ràng và dể hiểu, dễ thực hiện và công khai của thủ tục hành chính. - Bảo đảm tính ổn định cần thiết của thủ tục hành chính. - Xây dựng một cơ chế thích hợp cho việc thực hiện các thủ tục hành chính đã ban hành. + Những công việc cần xúc tiến để cải cách thủ tục hành chính là: - Tổ chức việc soát xét các thủ tục hành chính và các khoản phí, lệ phí đang áp dụng từ trung ương đến cơ sở; phân tích, đánh giá và phân loại: loại phải bãi bỏ, loại phải sửa đổi, loại cần được hợp pháp hoá, loại cần được hợp nhất thành một văn bản, loại cần giữ nguyên. - Việc xử lý các thủ tục hành chính đã được phân loại phải thực hiện đúng thẩm quyền đã quy định trong Nghị quyết 38/CP, ngày 04/05/1994 của Chính Phủ. - Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm tổ chức chỉ đạo thực hiện việc cải cách thủ tục hành chính trong phạm vi quản lý của mình và phối hợp để giải quyết các khâu liên quan đến cơ quan khác. Thực hiện công việc trên nhằm: - Tinh giản thủ tục hành chính; - Lập lại trật tự trong việc ban hành thủ tục hành chính và lệ phí, không được tuỳ tiện đặt thêm các thủ tục; - Xây dựng quy chế công vụ và quy chế phối hợp giữa các cơ quan, công chức có trách nhiệm giải quyết công việc của dân để thực hiện nguyên tắc một cửa; - Mở rộng thông tin công việc nhà nước có liên quan đến dân để dân biết, bảo đảm quyền được thông tin của dân. Câu 8. Quyết định hành chính. Phân loại quyết định hành chính? TRẢ LỜI: 1. Quyết định hành chính: Quyết định hành chính là kết quả của sự thể hiện ý chí quyền lực đơn phương của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước, được biểu hiện dưới những hình thức nhất định tác đống đến các đối tượng nhất định trong qua 1trình hành pháp. Với ý nghĩa như vậy. Quyết định hành chính cói thể là một hanh động hoặc một quyết định bằng văn bản. Quyết định hành chính có những dấu hiệu sau: - Được ban hành, được thực hiện trên cơ sở luật và để thi hành lluật. - Để tác động các quan hệ xã hội hoặc hành vi xử sự của con người (đối tượng) trong quá trình hành pháp. - Do các chủ thể quản lý hành chính nhà nước có thhẩm quyền ban hành thực hiện theo quy định của pháp luật. 2. Phân loại quyết định hành chính: Trong các hình thức quyết định hành chính, quyết định hành chính bằng văn bản thường có hai loại: a. Quyết định quy phạm: Trong Luật hành chính Việt nam- quyết định quy phạm hành chính được thể hiện dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật hành chính. Văn bản quy phạm pháp luật hành chính là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng XHCN. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hành chính bao gồm: - Văn bản do Quốc hội ban hành: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết. Văn bản do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành: pháp lệnh, nghị quyết. - Văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội: + Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước. + Nghị quyết, nghị định của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. + Quyết định, thông tư , chỉ thị của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ. + Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; Quyết định, chỉ thị, thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. + Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan nhà nước cóp thẩm quyền, giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội. - Văn bản do Hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của quốc hội, uỷ ban thưòng vụ quốc hội và văn bản của cơ quan nhà nứoc cấp trên; văn bản do uỷ ban nhân dân ban hành còn để thi hành nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp. bao gồm: nghị quyết cũa hội đồng nhân dan; quyết định, chỉ thị của uỷ ban nhân dân b. Quyết định hành chính cá biệt: Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Qua trên, Quyết định hành chính theo luật hành chính có nét đặc trưng là quyết định hành chính cá biệt bằng văn bản do các cơ quan hoặc cán bộ có thẩm quyền ban hành để giải quyết, xử lý một vấn đề nhất định trong lĩnh vực hành pháp; tác động trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích của các đối tượng có liên quan. Câu 9. Tài phán hành chính. Thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án nhân dân? TRẢ LỜI: 1. Tài phán hành chính: Tài phán hành chính Việt nam là hoạt động xét xử các vụ án hành chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính và chủ yếu do Toà hành chính, các thẩm phán hành chính trong hệ thống Toà án nhân dân thực hiện nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan nhà nước và tổ chức, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. 2. Thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án nhân dân: Theo Điều 11, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì Toà án có thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính các loại việc sau: - 1, Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng biện pháp tháo dỡ công trình xây dựng trái phép đối với nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố. - 2, Khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính đối với hình thức giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính. - 3, Khiếu kiện quyết định về buộc thôi việc, trừ các quyết định về buộc thôi việc trong quân đội nhân dân và các quyết định về sa thải theo quy định của Bộ luật lao động. - 4, Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp phép, thu hồi giấy phép trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, hoạt động sản xuất kinh doang, quản lý đất đai. - 5, Khiếu kiện quyết định trưng dụng, trưng mua tài sản, quyết định tịch thu tài sản. - 6, Khiếu kiện quyết định về việc thu thuế, truy thu thuế. - 7, Khiếu kiện quyết định về thu phí, lệ phí. - 8, Khiếu kiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính khác nhau theo quy định của pháp luật. Trước mắt UBTVQH đã giao 7 loại việc cụ thể mà khi có khởi kiện theo quy định của pháp luật, toà án có thẩm quyền có trách nhiệm thụ lý giải quyết. Riêng các khiếu kiện tại khoản 8 nếu sau này do yêu cầu nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Quốc hội hoặc UBTVQH qui định, Toà án nhân dân tối cao sẽ có thông báo kịp thời đến các toà án nhân dân. a. Thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án nhân dân cấp huyện: Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án hành chính các loại việc được quy định tại Pháp lệnh giải quyết các vụ án hành chính. Đó là khiếu kiện các quyết định hành chính của các cơ quan hành chính từ cấp huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ và quyết định hành chính của cán bộ, viên chức của các cơ quan nhà nước đó. b. Thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án nhân dân cấp tỉnh: Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính được quy định tại Điều 11, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm các khiếu kiện hành chính sau: - Quyết định hành chính của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, văn phòng Chủ tịch nước, văn phòng Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ. - Quyết định hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ và quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức của cơ quan nhà nước đó. - Quyết định hành chính của các đơn vị chức năng của cơ quan nhà nước trung ương đóng tại địa phương và quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, viên chức trong các đơn vị chức năng đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ. Ngoài ra trong trường hợp cần thiết, Toà án nhân dân cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết các vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện. c. Thẩm quyền xét xử hành chính của Toà án nhân dân tối cao: Toà án nhân dân tối cao giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm những khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân cấp tỉnh mà Toà án nhân dân tối cao lấy lên để giải quyết đối với quyết định hành chính của cơ quan nhà nước cấp trung ương và quyết định hành chính, hành vi hành chính của thủ trưởng các cơ quan đó liên quan đến nhiều tỉnh, phức tạp hoặc trong trường hợp khó xác định được thuộc thẩm quyền của toà án cấp tỉnh nào; khiếu kiện quyết định hành chính của UBND tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp hoặc trong trường hợp các thẩm phán của toà án cấp tỉnh đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi. Câu 10. Các giai đoạn tố tụng hành chính theo pháp luật hiện hành? TRẢ LỜI: Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức toà án, căn cứ pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Tố tụng hành chính được phân thành các giai đoạn chính sau: 1. Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính: Khi công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế tháy rằng quyết định, hành vi hành chính cũ thể nào đó xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Toà hành chính giải quyết. Trước khi khởi kiện, cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức phải khiếu nại với cơ quan hành chính mà họ mà họ cho là trái pháp luật; trong trường jợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì họ có quyền khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó hay khởi kiện vụ án hnàh chính tại toà án có thẩm quyền. Sau khi nhận được đơn kiện, Toà hành chính phải xem xét nếu xét thấy không tuộc trường hợp trả lại đơn thì Toà án thụ lý vụ việc kiện theo thẩm quyền. 2. Chuẩn bị xét xử: Trong giai đoạn này, Toà hành chính thực hiện các công việc chuẩn bị, như yêu cầu các bên cung cấp thông tin, tài liệu, ....khi xét thấy cần thiết Toà có thể thu thập chứng cứ, xem xét tại chỗ, trưng cầu giám định ... sau khi nhận thấy việc thu thập chứng cứ đã đầy đủ, Toà hành chính phải xem xét và đưa ra một trong các quyết định: Đưa vụ án ra xét xử, tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ giải quyết vụ án. 3. Xét xử sơ thẩm: Theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Hội đồng xét xử vụ án hành cính gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân. Phiên toà có sơ thẩm được tiến hành với sự có mặt của đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Đối với người làm chứng, người phiên dịch, người giám định thì tuỳ từng vụ án cụ thể mà Toà hành chính xét thấy cần có mặt hay không. Sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cũng được pháp lệnh quy định tại Điều 18. Về thủ tục phiên toà, pháp lệnh cũng quy định giống như thủ tục bắt đầu phiên toà xét xử vụ án dân sự hoặc vụ án kinh tế. Các quyết định của Hội đồng xét xử phải do các thành viên của hội đồng thảo luận và quyết định theo đa số. 4. Xét lại bản án và quyết định chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm: Để bảo vệ quyền lợi cho các đương sự, trong tố tụng hành chính có quy định về quyền kháng cáo của đương sự và kháng nghị của Viện kiểm sát để yêu cầu toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Xét lại bản án và quyết định chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm là một giai đoạn độc lập trong tố tụng hành chính. Giai đoạn này có nhiệm vụ sửa chữa những sai lầm và vi phạm của toà án cấp sơ thẩm, bảo đảm việc áp dụng pháp luật đúng đắn và thống nhất. Tính chất của việc xét lại bản án và quyết định theo thủ tục phúc thẩm là việc toà án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án sơ thẩm và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hay kháng nghị. Bản án và quyết định của toà án cấp phúc thẩm có hiệu lực ngay sau khi tuyên án. Về trình tự, thủ tục xét xử phúc thẩm cũng tương tự như trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên do tính chất của giai đoạn này, cho nên phiên toà phúc thầm có những đặc thù so với phiên toà sơ thẩm. Theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba thẩm phán. Quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng tương tự như khi xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động .... 5. Xét lại bản án , quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm: 6. Thi hành bản án hành chính. Câu 11. Vi phạm hành chính và cấu thành vi phạm hành chính? TRẢ LỜI: 1. Khái niệm vi phạm hành chính: Vi phạm hành chính là hành vi xâm phạm các quy định quản lý nhà nước, có lỗi và phải bị xử lý hành chính. 2. Cấu thành vi phạm hành chính: Cấu thành vi phạm hành chính là tổng hợp những dấu hiệu đặc trưng thể hiện đầy đủ tính xâm hại cho trật tự quản lý nhà nước của một loại vi phạm hành chính. - Mặt khách quan của hành vi vi phạm hành chính:bao gồm các dấu hiệu sau: + Hành vi vi phạm hành chính: Hành vi vi phạm hành chính là những biểu hiện của con người hoặc tổ chức tác động vào thế giới khách quan dưới những hình thức bên ngoài cụ thể gây tác hại tới sự tồn tại và phát triển bình thường của các trật tự quản lý nhà nước. Những biểu hiện này được kiểm soát và điều khiển bởi ý chí của chủ thể vi phạm hành chính. + Hậu quả và mối quan hệ nhân quả; Hậu quả của vi phạm hành chính là các quy tắc quản lý nhà nước bị hành vi vi phạm hành chính tác động tới, gây xâm hại. Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hành chính và hậu quả của vi phạm hành chính có mối liên hệ hữu cơ, trong đó hậu quả của vi phạm hành chính có tiền đề xuất hiện của nó là hành vi khách quan của vi phạm hành chính. Việc xác định mối quan hệ nhân quả dựa trên những căn cứ sau: Một là, hành vi trái pháp luật xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian. Hai là, hành vi trái pháp luật phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả xâm hại quy tắc quản lý nhà nước. Ba là, hậu quả xâm hại đã xảy ra phải chính là sự hiện thực hoá khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả. + Ngoài ra còn có một số dấu hiện khách quan như công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm ... những dấu hiệu này tuy không phổ biến nhưng trong một số trường hợp chúng sẽ trở thành dấu hiệu bắt buộc. - Mặt chủ quan của vi phạm hành chính: Mặt chủ quan là quan hệ tâm lý bên trong, bao gồm các yếu tố: Lỗi, mục đích, động cơ. Trong đó yếu tố lỗi được coi là một dấu hiệu cơ bản trong cấu thành của mọi vi phạm hành chính, có ý nghĩa quyết định đến các yếu tố khác trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính. + Lỗi: Là trạng thái tâm lý của người vi phạm, biểu hiện thái độ của người đó đối với hành vi vi phạm hành chính của mình. Lỗi trong Luật hành chính được quy định dưới hai hình thức cố ý và vô ý. Lỗi cố ý là thái độ tâm lý của một người khi thực hiện hành vi trái pháp luật nhận thức được nghĩa vụ pháp lý bắt buộc nhưng lại có ý thức xem thường mặc dù họ hoàn toàn có khả năng xử sự theo đúng nghĩa vụ đó. Lỗi vô ý trong vi phạm hành chính là lỗi của một người khi thực hiện hành vi trái pháp luật do vô tình hoặc thiiêú thận trọng mà đã không nhận thức được những nghĩa vụ pháp lý bắt buộc, mặc dù họ có khả năng và điều kiện xử sự theo đúng nghĩa vụ này. + Mục đích: Mục đích của vi phạm hành chính không phải là dấu hiệu bắt buộc phải có trong mọi cấu thành của mọi loại vi phạm hành chính. Nó chỉ có ở một số trường hợp vi phạm hành chính nhất định và những trường hợp này đều có hình thức lỗi là cố ý. + Động cơ: Là động lực bên trong thúc đẩy người vi phạm hành chính thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Trừ những vi phạm hành chính với lỗi cố ý có mục đích xác định, phần lớn động cơ trong vi phạm hành chính là không rõ rệt. Nó không được coi là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tất cả mọi lọi vi phạm hành chính. - Khách thể của vi phạm hành chính: Là các quy tắc quản lý hành chính nhà nước. Khách thể của vi phạm hành chính là yếu tố cơ bản bắt buộc phải có trong mọi cấu thành của vi phạm hành chính. Khách thể của vi phạm hành chính gồm: + Khách thể chung: là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nước hay nói cách khác là trật tự quản lý nhà nước nói chung. + Khách thể loại: là những quan hệ xã hội có cùng hoặc gần tính chhất với nhau trong từng lĩnh vực nhất định của quản lý nhà nước. + Khách thể trực tiếp: là quan hệ xã hội cụ thể được pháp luật quy định và bảo vệ bị chính hành vi vi phạm hành chính gây tác hại. - Chủ thể của vi phạm hành chính: + Cá nhân: một cá nhân khi có hành vi vi phạm hành chính sẽ trở thành chủ thể của vi phạm hành chính khi có đủ hai điều kiện: có năng lực trách nhiệm hành chính; đạt độ tuổi nhất định. + Tổ chức: Tổ chức là chủ thể đặc biệt của vi phạm hành chính. Trong cấu thành vi phạm hành chính của tổ chức, do không thể xác định được lỗi của nó nên yếu tố chủ quan không có ý nghĩa. Chỉ cần tổ chức đó có biểu hiện xâm hại đến khách thể trong lĩnh vực quản lý nhà nước, trái pháp luật hành chính là xem như đủ cơ sở để coi là chủ thể của vi phạm hành chính.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf71_0329.pdf
  • pdf60_9666.pdf
  • pdf70_8456.pdf
Tài liệu liên quan