TÓM TẮT NỘI DUNG MÔN HỌC
Mô tả các điểm chính yếu của hệ điều hành
Vai trò và năng lực của hệ điều hành trong hệ thống máy tính.
Những vấn đề phát sinh trong quá trình thiết kế hệ điều hành cũng như những tiếp
cận khác nhau được dùng để phân tích và giải quyết những vấn đề đó.
Xem xét những chiến lược hệ điều hành phổ biến và cách chúng tác động đến những
dịch vụ của các hệ điều hành hiện đại.
238 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 566 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề cương môn học Hệ điều hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tìm và cấp phát bộ nhớ cho tất cả các phân đoạn của
chương trình người dùng. Trường hợp này tương tự như phân trang ngoại trừ các phân
đoạn có chiều dài thay đổi; các trang có cùng kích thước. Do đó, với cơ chế phân khu
có kích thước thay đổi, cấp phát bộ nhớ là một vấn đề cấp phát lưu trữ động, thường
giải quyết với giải thuật best-fit hay first-fit.
Phân đoạn có thể gây ra sự phân mãnh, khi tất cả khối bộ nhớ trống là quá nhỏ
để chứa một phân đoạn. Trong trường hợp này, quá trình có thể phải chờ cho đến khi
nhiều bộ nhớ hơn (hay ít nhất một lỗ lớn hơn) trở nên sẳn dùng, hay cho tới khi việc
hợp nhất các lỗ nhỏ để tạo một lỗ lớn hơn. Vì sự phân đoạn dùng giải thuật tái định vị
động nên chúng ta có thể gom bộ nhớ bất cứ khi nào chúng ta muốn. Nếu bộ định thời
biểu CPU phải chờ một quá trình vì vấn đề cấp phát bộ nhớ, nó có thể (hay không thể)
bỏ qua hàng đợt CPU để tìm một quá trình nhỏ hơn, có độ ưu tiên thấp hơn để chạy.
Phân mãnh ngoài đối với cơ chế phân đoạn là vấn đề quan trọng như thế nào?
Định thời biểu theo thuật ngữ dài với sự cô đặc sẽ giúp giải quyết vấn đề phân mãnh
phải không? Câu trả lời phụ thuộc vào kích thước trung bình của phân đoạn. Ở mức
độ cao nhất, chúng ta có thể định nghĩa mỗi quá trình là một phân đoạn. Tiếp cận này
cắt giảm cơ chế phân khu có kích thước thay đổi. Ở cấp độ khác, mỗi byte có thể
được đặt trong chính phân đoạn của nó và được cấp phát riêng. Sắp xếp này xoá đi
việc phân mãnh bên ngoài; tuy nhiên mỗi byte cần một thanh ghi nền cho mỗi tái định
vị của nó, gấp đôi bộ nhớ được dùng! Dĩ nhiên, bước luận lý tiếp theo-các phân đoạn
nhỏ có kích thước cố định-là phân trang. Thông thường, nếu kích thước phân đoạn
trung bình là nhỏ, phân mãnh ngoài cũng sẽ nhỏ. Vì cá nhân các phân đoạn là nhỏ hơn
toàn bộ quá trình nên chúng có vẻ thích hợp hơn để đặt vào trong các khối bộ nhớ sẳn
dùng.
VI.3 Phân đoạn với phân trang
Cả hai phân đoạn và phân trang có những lợi điểm và nhược điểm. Thật vậy,
hai bộ vi xử lý phổ biến nhất hiện nay là: dòng Motorola 68000 được thiết kế dựa trên
cơ sở không gian địa chỉ phẳng, ngược lại, họ Intel 80x86 và Petium dựa trên cơ sở
phân đoạn. Cả hai là mô hình bộ nhớ hợp nhất hướng tới sự kết hợp của phân trang và
phân đoạn. Chúng ta có thể kết hợp hai phương pháp để tận dụng lợi điểm của chúng.
Sự kết hợp này được thể hiện tốt nhất bởi kết trúc của Intel 386.
Ấn bản IBM OS/2 32-bit là một hệ điều hành chạy trên đỉnh của kiến trúc Intel
386 (hay cao hơn). Intel 386 sử dụng phân đoạn với phân trang cho việc quản lý bộ
nhớ. Số tối đa các phân đoạn trên quá trình là 16KB và mỗi phân đoạn có thể lớn tới
4GB. Kích thước trang là 4 KB. Chúng ta sẽ không cho một mô tả đầy đủ về cấu trúc
quản lý bộ nhớ của Intel 386 trong giáo trình này. Thay vào đó, chúng ta sẽ trình bày
các ý tưởng quan trọng.
Không gian địa chỉ luận lý của quá trình được chia thành hai phân khu. Phân
khu thứ nhất chứa tới 8 KB các phân đoạn dành riêng cho quá trình đó. Phân khu thứ
Biên soạn: Th.s Nguyễn Phú Trường - 09/2005 Trang 170
Đại Học Cần Thơ - Khoa Công Nghệ Thông Tin - Giáo Trình Hệ Điều Hành – V1.0
hai chứa tới 8 KB các phân đoạn được chia sẻ giữa tất cả quá trình. Thông tin về phân
khu thứ nhất được giữ trong bảng mô tả cục bộ (Local Descriptor Table-LDT), thông
tin về phân khu thứ hai được giữ trong bảng mô tả toàn cục (Global Descriptor Table-
GDL). Mỗi mục từ trong LDT và GDT chứa 8 bytes, với thông tin chi tiết về phân
đoạn xác định gồm vị trí nền và chiều dài của phân đoạn đó.
Địa chỉ luận lý là một cặp (bộ chọn, độ dời), ở đây bộ chọn là một số 16-bit
S G P
13 1 2
Trong đó: s gán tới số phân đoạn, g hiển thị phân đoạn ở trong GDT hay LDT,
và p giải quyết vấn đề bảo vệ. Độ dời là một số 32-bit xác định vị trí của byte (hay từ)
trong phân đoạn.
Máy này có 6 thanh ghi, cho phép 6 phân đoạn được xác định tại bất cứ thời
điểm nào bởi một quá trình. Nó có 6 thanh ghi vi chương trình 8-byte để quản lý bộ
mô tả tương ứng từ LDT hay GDT. Bộ lưu trữ này để Intel 386 tránh phải đọc bộ mô
tả từ bộ nhớ cho mỗi lần tham chiếu bộ nhớ.
Địa chỉ vật lý trên 386 dài 32 bits và được hình thành như sau. Thanh ghi đoạn
chỉ tới mục từ tương ứng trong LDT hay GDT. Thông tin nền và giới hạn về phân
đoạn được dùng để phát sinh một địa chỉ tuyến tính. Đầu tiên, giới hạn được dùng để
kiểm tra tính hợp lệ của địa chỉ. Nếu địa chỉ không hợp lệ, lỗi bộ nhớ được tạo ra, dẫn
đến một trap tới hệ điều hành. Nếu nó là hợp lệ, thì giá trị của độ dời được cộng vào
giá trị của nền, dẫn đến địa chỉ tuyến tính 32-bit. Sau đó, địa chỉ này được dịch thành
địa chỉ vật lý.
Như được nêu trước đó, mỗi phân đoạn được phân trang và mỗi trang có kích
thước 4 KB. Do đó, bảng trang có thể chứa tới 1 triệu mục từ. Vì mỗi mục từ chứa 4
bytes nên mỗi quá trình có thể cần 4 MB không gian địa chỉ vật lý cho một bảng
trang. Rõ ràng, chúng ta không muốn cấp phát bảng trang liên tục trong bộ nhớ. Giải
pháp này được thông qua trong Intel 386 để dùng cơ chế phân trang 2 cấp. Địa chỉ
tuyến tính được chia thành số trang chứa 20 bits, và độ dời trang chứa 12 bits. Vì
chúng ta phân trang bảng trang, số trang được chia nhỏ thành con trỏ thư mục trang
10-bit và con trỏ bảng trang 10-bit. Địa chỉ luận lý như sau:
P1 P2 D
10 10 12
Cơ chế dịch địa chỉ cho kiến trúc này tương tự như cơ chế được hiển thị trong
hình VII-18. Dịch địa chỉ Intel được hiển thị chi tiết hơn trong hình VII-27dưới đây.
Biên soạn: Th.s Nguyễn Phú Trường - 09/2005 Trang 171
Đại Học Cần Thơ - Khoa Công Nghệ Thông Tin - Giáo Trình Hệ Điều Hành – V1.0
Hình 0-27 Dịch địa chỉ Intel 386
Để cải tiến tính hiệu quả của việc sử dụng bộ nhớ vật lý, bảng trang Intel 386
có thể được hoán vị tới đĩa. Trong trường hợp này, mỗi bit được dùng trong mục từ
thư mục trang để hiển thị bảng mà mục từ đang chỉ tới ở trong bộ nhớ hay trên đĩa.
Nếu bảng ở trên đĩa, hệ điều hành có thể dùng 31 bit còn lại để xác định vị trí đĩa của
bảng; sau đó bảng có thể được mang vào bộ nhớ theo yêu cầu.
VII Tóm tắt
Các giải thuật quản lý bộ nhớ cho hệ điều hành đa chương trải dài từ tiếp cận
hệ thống người dùng đơn tới phân đoạn được phân trang. Yếu tố quyết định lớn nhất
của phương pháp được dùng trong hệ thống cụ thể là phần cứng được cải thiện. Mỗi
địa chỉ bộ nhớ được được tạo ra bởi CPU phải được kiểm tra hợp lệ và có thể được
ánh xạ tới một địa chỉ vật lý. Kiểm tra không thể được cài đặt (hữu hiệu) bằng phần
mềm. Do đó, chúng ta bị ràng buộc bởi tính sẳn dùng phần cứng.
Các giải thụât quản lý bộ nhớ được thảo luận (cấp phát liên tục, phân trang,
phân đoạn, và sự kết hợp của phân trang và phân đoạn) khác nhau trong nhiều khía
cạnh. Trong so sánh các chiến lược quản lý bộ nhớ, chúng ta nên sử dụng các xem xét
sau:
• Hỗ trợ phần cứng: thanh ghi nền hay cặp thanh ghi nền và thanh ghi giới
hạn là đủ cho cơ chế phân khu đơn và đa, ngược lại phân trang và phân
đoạn cần bảng ánh xạ để xác định ánh xạ địa chỉ.
• Năng lực: khi giải thuật quản lý bộ nhớ trở nên phức tạp hơn thì thời gian
được yêu cầu để ánh xạ địa chỉ luận lý tới địa chỉ vật lý tăng. Đối với các
hệ thống đơn giản, chúng ta chỉ cần so sánh hay cộng địa chỉ luận lý-các
thao tác này phải nhanh. Phân trang và phân đoạn có thể nhanh như nếu
Biên soạn: Th.s Nguyễn Phú Trường - 09/2005 Trang 172
Đại Học Cần Thơ - Khoa Công Nghệ Thông Tin - Giáo Trình Hệ Điều Hành – V1.0
bảng được cài đặt trong các thanh ghi nhanh. Tuy nhiên, nếu bảng ở tron
bộ nhớ thì về thực chất truy xuất bộ nhớ của người dùng có thể bị giảm.
Một TLB có thể hạn chế việc giảm năng lực tới mức có thể chấp nhận.
Phân mãnh: một hệ thống đa chương sẽ thực hiện hiệu quả hơn nếu nó
g
• có
• . Cô đặc
• Tại những
• ột phương tiện khác để gia tăng cấp độ đa chương là chia sẻ mã
ỏ
à
• cấp, các phần khác nhau
à
cấp độ đa chương cao hơn. Đối với một tập hợp quá trình được cho, chúng
ta có thể tăng cấp độ đa chương chỉ bằng cách đóng gói nhiều quá trình
hơn trong bộ nhớ. Để hoàn thành tác vụ này, chúng ta phải giảm sự lãng
phí hay phân mãnh bộ nhớ. Các hệ thống với các đơn vị cấp phát có kích
thước cố định, như cơ chế đơn phân khu và phân trang, gặp phải sự phân
mãnh trong. Các hệ thống với đơn vị cấp phát có kích thước thay đổi như
cơ chế đa phân khu và phân đoạn, gặp phải sự phân mãnh ngoài.
Tái định vị: một giải pháp cho vấn đề phân mãnh ngoài là cô đặc
liên quan đến việc chuyển dịch một chương trình trong bộ nhớ không chú
ý những thay đổi của chương trình. Xem xét này yêu cầu địa chỉ luận lý
được tái định vị động tại thời điểm thực thi. Nếu địa chỉ được tái định vị
chỉ tại thời điểm nạp, chúng ta không thể lưu trữ dạng cô đặc.
Hoán vị: bất cứ giải thuật có thể có hoán vị được thêm tới nó.
khoảng thời gian được xác định bởi hệ điều hành, thường được mô tả bởi
các chính xác định thời, các quá trình được chép từ bộ nhớ chính tới vùng
lưu trữ phụ và sau đó được chép trở lại tới bộ nhớ chính. Cơ chế này cho
phép nhiều quá trình được chạy hơn là có thể đặt vào bộ nhớ tại cùng một
thời điểm.
Chia sẻ: m
và dữ liệu giữa các người dùng khác nhau. Thường việc chia sẻ yêu cầu
phân trang hay phân đoạn được dùng, để cung cấp những gói thông tin nh
(các trang hay các đoạn) có thể được chia sẻ. Chia sẻ là một phương tiện
chạy nhiều quá trình với lượng bộ nhớ giới hạn nhưng các chương trình v
dữ liệu được chia sẻ phải được thiết kế cẩn thận.
Bảo vệ: nếu phân trang hay phân đoạn được cung
của chương trình người dùng có thể được khai báo chỉ thực thi, chỉ đọc,
hay đọc-viết. Sự hạn chế này là cần thiết với mã và dữ liệu được chia sẻ v
thường có ích trong bất cứ trường hợp nào để cung cấp việc kiểm tra tại
thời gian thực thi cho các lỗi lập trình thông thường.
Biên soạn: Th.s Nguyễn Phú Trường - 09/2005 Trang 173
Đại Học Cần Thơ - Khoa Công Nghệ Thông Tin - Giáo Trình Hệ Điều Hành – V1.0
BỘ NHỚ ẢO
I Mục đích
Sau khi học xong chương này, người học nắm được những kiến thức sau:
• Hiểu kỹ thuật bộ nhớ ảo
• Hiểu bộ nhớ ảo ở dạng phân trang theo yêu cầu
• Hiểu độ phức tạp và chi phí trong từng kỹ thuật để cài đặt bộ nhớ ảo
II Giới thiệu
Trong chương trước, chúng ta thảo luận các chiến lược quản lý bộ nhớ được
dùng trong hệ thống máy tính. Tất cả những chiến lược này có cùng mục đích: giữ
nhiều quá trình trong bộ nhớ cùng một lúc để cho phép đa chương. Tuy nhiên, chúng
có khuynh hướng yêu cầu toàn bộ quá trình ở trong bộ nhớ trước khi quá trình có thể
thực thi.
Bộ nhớ ảo là một kỹ thuật cho phép việc thực thi của quá trình mà quá trình có
thể không hoàn toàn ở trong bộ nhớ. Một lợi điểm quan trọng của cơ chế này là các
chương trình có thể lớn hơn bộ nhớ vật lý. Ngoài ra, bộ nhớ ảo phóng đại bộ nhớ
chính thành bộ nhớ luận lý cực lớn khi được hiển thị bởi người dùng. Kỹ thuật này
giải phóng người lập trình từ việc quan tâm đến giới hạn kích thước bộ nhớ. Bộ nhớ
ảo cũng cho phép các quá trình dễ dàng chia sẻ tập tin và không gian địa chỉ, cung cấp
cơ chế hữu hiện cho việc tạo quá trình.
Tuy nhiên, bộ nhớ ảo không dễ cài đặt và về thực chất có thể giảm năng lực nếu
nó được dùng thiếu thận trọng. Trong chương này, chúng ta thảo luận bộ nhớ ảo trong
dạng phân trang theo yêu cầu và xem xét độ phức tạp và chi phí.
III Kiến thức nền
Các giải thuật quản lý bộ nhớ trong chương trước là cần thiết vì một yêu cầu cơ
bản: các chỉ thị đang được thực thi phải ở trong bộ nhớ vật lý. Tiếp cận đầu tiên để
thoả mãn yêu cầu này đặt toàn bộ không gian địa chỉ luận lý trong bộ nhớ vật lý. Phủ
lắp và nạp động có thể giúp làm giảm hạn chế này nhưng chúng thường yêu cầu sự đề
phòng đặc biệt và công việc phụ thêm bởi người lập trình. Hạn chế này dường như
cần thiết và phù hợp nhưng nó không may mắn vì nó giới hạn kích thước của một
chương trình đối với kích thước bộ nhớ vật lý.
Thật vậy, xem xét các chương trình thực thi chúng ta nhận thấy rằng trong nhiều
trường hợp toàn bộ chương trình là không cần thiết. Thậm chí trong những trường
hợp toàn bộ chương trình được yêu cầu nhưng không phải tất cả chương trình được
yêu cầu cùng một lúc.
Khả năng thực thi chương trình chỉ một phần chương trình ở trong bộ nhớ có
nhiều lợi điểm:
• Chương trình sẽ không còn bị ràng buộc bởi không gian bộ nhớ vật lý sẳn
có. Người dùng có thể viết chương trình có không gian địa chỉ ảo rất lớn,
đơn giản hoá tác vụ lập trình.
• Vì mỗi chương trình người dùng có thể lấy ít hơn bộ nhớ vật lý nên nhiều
chương trình hơn có thể được thực thi tại một thời điểm. Điều này giúp gia
Biên soạn: Th.s Nguyễn Phú Trường - 09/2005 Trang 178
Đại Học Cần Thơ - Khoa Công Nghệ Thông Tin - Giáo Trình Hệ Điều Hành – V1.0
tăng việc sử dụng CPU và thông lượng nhưng không tăng thời gian đáp
ứng.
• Yêu cầu ít nhập/xuất hơn để nạp hay hoán vị mỗi chương trình người dùng
trong bộ nhớ vì thế mỗi chương trình người dùng sẽ chạy nhanh hơn.
Do đó, chạy một chương trình mà nó không nằm hoàn toàn trong bộ nhớ có lợi
cho cả người dùng và hệ thống.
Bộ nhớ ảo là sự tách biệt bộ nhớ luận lý từ bộ nhớ vật lý. Việc tách biệt này cho
phép bộ nhớ ảo rất lớn được cung cấp cho người lập trình khi chỉ bộ nhớ vật lý nhỏ
hơn là sẳn dùng (hình VIII-1). Bộ nhớ ảo thực hiện tác vụ lập trình dễ hơn nhiều vì
người lập trình không cần lo lắng về lượng bộ nhớ vật lý sẳn có nữa hay về mã gì có
thể được thay thế trong việc phủ lắp; thay vào đó, người lập trình có thể quan tâm vấn
đề được lập trình. Trên những hệ thống hỗ trợ bộ nhớ ảo, việc phủ lắp hầu như biến
mất.
Hình 0-1 Lưu đồ minh hoạ bộ nhớ ảo lơn hơn bộ nhớ vật lý
Thêm vào đó, việc tách biệt bộ nhớ luận lý từ bộ nhớ vật lý, bộ nhớ ảo cũng
cho phép các tập tin và bộ nhớ được chia sẻ bởi những quá trình khác nhau thông qua
việc chia sẻ trang. Ngoài ra, chia sẻ trang cho phép cải tiến năng lực trong khi tạo quá
trình.
Bộ nhớ ảo thường được cài đặt bởi phân trang theo yêu cầu (demand
paging). Nó cũng có thể được cài đặt trong cơ chế phân đoạn. Một vài hệ thống cung
cấp cơ chế phân đoạn được phân trang. Trong cơ chế này các phân đoạn được chia
thành các trang. Do đó, tầm nhìn người dùng là phân đoạn, nhưng hệ điều hành có thể
cài đặt tầm nhìn này với cơ chế phân trang theo yêu cầu. Phân đoạn theo yêu cầu cũng
có thể được dùng để cung cấp bộ nhớ ảo. Các hệ thống máy tính của Burrough dùng
phân đoạn theo yêu cầu. Tuy nhiên, các giải thuật thay thế đoạn phức tạp hơn các giải
thuật thay thế trang vì các đoạn có kích thước thay đổi. Chúng ta không đề cập phân
đoạn theo yêu cầu trong giáo trình này.
Biên soạn: Th.s Nguyễn Phú Trường - 09/2005 Trang 179
Đại Học Cần Thơ - Khoa Công Nghệ Thông Tin - Giáo Trình Hệ Điều Hành – V1.0
IV Phân trang theo yêu cầu
Một hệ thống phân trang theo yêu cầu tương tự một hệ thống phân trang với
hoán vị (hình VIII-2). Các quá trình định vị trong bộ nhớ phụ (thường là đĩa). Khi
chúng ta muốn thực thi một quá trình, chúng ta hoán vị nó vào bộ nhớ. Tuy nhiên,
thay vì hoán vị toàn bộ quá trình ở trong bộ nhớ, chúng ta dùng một bộ hoán vị lười
(lazy swapper). Bộ hoán vị lười không bao giờ hoán vị một trang vào trong bộ nhớ trừ
khi trang đó sẽ được yêu cầu. Vì bây giờ chúng ta xem một quá trình như một chuỗi
các trang hơn là một không gian địa chỉ liên tục có kích thước lớn, nên dùng hoán vị
là không phù hợp về kỹ thuật. Một bộ hoán vị thao tác toàn bộ quá trình, ngược lại
một bộ phân trang (pager) được quan tâm với các trang riêng rẻ của một quá trình.
Do đó, chúng ta dùng bộ phân trang (hơn là bộ hoán vị) trong nối kết với phân trang
theo yêu cầu.
Hình 0-2 Chuyển bộ nhớ được phân trang tới không gian đĩa liên tục
IV.1 Các khái niệm cơ bản
Với cơ chế này, chúng ta cần một số dạng phần cứng hỗ trợ để phân biệt giữa
các trang ở trong bộ nhớ và các trang ở trên đĩa. Cơ chế bit hợp lệ-không hợp lệ có thể
được dùng cho mục đích này. Tuy nhiên, thời điểm này khi bit được đặt “hợp lệ”, giá
trị này hiển thị rằng trang được tham chiếu tới là hợp lệ và ở đang trong bộ nhớ. Nếu
một bit được đặt “không hợp lệ”, giá trị này hiển thị rằng trang không hợp lệ (nghĩa là
trang không ở trong không gian địa chỉ của quá trình) hoặc hợp lệ nhưng hiện đang ở
trên đĩa. Mục từ bảng trang cho trang không ở trong bộ nhớ đơn giản được đánh dấu
không hợp lệ, hay chứa địa chỉ của trang trên đĩa. Trường hợp này được mô tả trong
hình VIII-3.
Biên soạn: Th.s Nguyễn Phú Trường - 09/2005 Trang 180
Đại Học Cần Thơ - Khoa Công Nghệ Thông Tin - Giáo Trình Hệ Điều Hành – V1.0
Hình 0-3 Bảng trang khi một số trang không ở trong bộ nhớ chính
Chú ý rằng, đánh dấu một trang là “không hợp lệ” sẽ không có tác dụng nếu
quá trình không bao giờ truy xuất trang đó. Do đó, nếu chúng ta đoán đúng và tất cả
những trang thật sự cần đều ở trong bộ nhớ, quá trình sẽ chạy chính xác như khi
chúng ta mang tất cả trang vào bộ nhớ. Trong khi quá trình thực thi và truy xuất trang
đang định vị trong bộ nhớ, việc thực thi xử lý bình thường.
Nhưng điều gì xảy ra nếu quá trình cố gắng truy xuất trang mà trang đó không
được mang vào bộ nhớ? Truy xuất một trang được đánh dấu là “không hợp lệ” gây ra
một trap lỗi trang (page-fault trap). Phần cứng phân trang, dịch địa chỉ thông qua
bảng trang, sẽ thông báo rằng bit không hợp lệ được đặt, gây ra một trap tới hệ điều
hành. Trap này là kết quả lỗi của hệ điều hành mang trang được mong muốn vào bộ
nhớ (trong một cố gắng tối thiểu chi phí chuyển đĩa và yêu cầu bộ nhớ) hơn là lỗi địa
chỉ không hợp lệ như kết quả của việc cố gắng dùng một địa chỉ bộ nhớ không hợp lệ
(như một ký hiệu mảng không hợp lệ). Do đó, chúng ta phải sửa trường hợp sơ xuất
này. Thủ tục cho việc quản lý lỗi trang này là không phức tạp (hình VIII-4).
1) Chúng ta kiểm tra bảng bên trong (thường được giữ với khối điều khiển
quá trình) cho quá trình này, để xác định tham chiếu là truy xuất bộ nhớ
hợp lệ hay không hợp lệ.
2) Nếu tham chiếu là không hợp lệ, chúng ta kết thúc quá trình. Nếu nó là
hợp lệ, nhưng chúng ta chưa mang trang đó vào bộ nhớ, bây giờ chúng ta
mang trang đó vào.
3) Chúng ta tìm khung trống (thí dụ, bằng cách mang một trang từ danh sách
khung trống).
Biên soạn: Th.s Nguyễn Phú Trường - 09/2005 Trang 181
Đại Học Cần Thơ - Khoa Công Nghệ Thông Tin - Giáo Trình Hệ Điều Hành – V1.0
4) Chúng ta lập thời biểu thao tác đĩa để đọc trang mong muốn vào khung
trang vừa mới được cấp phát.
5) Khi đọc đĩa hoàn thành, chúng ta sửa đổi bảng bên trong với quá trình và
bảng trang để hiển thị rằng trang bây giờ ở trong bộ nhớ.
6) Chúng ta khởi động lại chỉ thị mà nó bị ngắt bởi trap địa chỉ không hợp lệ.
Bây giờ quá trình có thể truy xuất trang mặc dù nó luôn ở trong bộ nhớ.
Hình 0-4 Các bước quản lý lỗi trang
Vì chúng ta lưu trạng thái (thanh ghi, mã điều kiện, bộ đếm chỉ thị lệnh) của
quá trình bị ngắt khi lỗi trang xảy ra, nên chúng ta có thể khởi động lại quá trình chính
xác nơi và trạng thái, ngoại trừ trang mong muốn hiện ở trong bộ nhớ và có thể truy
xuất. Trong cách này, chúng ta có thể thực thi một quá trình mặc dù các phần của nó
chưa ở trong bộ nhớ. Khi quá trình cố gắng truy xuất các vị trí không ở trong bộ nhớ,
phần cứng trap tới hệ điều hành (lỗi trang). Hệ điều hành đọc trang được yêu cầu vào
bộ nhớ và khởi động lại quá trình như thể trang luôn ở trong bộ nhớ.
Trong trường hợp xấu nhất, chúng ta bắt đầu thực thi một quá trình với không
trang nào ở trong bộ nhớ. Khi hệ điều hành đặt con trỏ chỉ thị lệnh tới chỉ thị đầu tiên
của quá trình. Tuy nhiên, chỉ thị này ở trên trang không nằm trong bộ nhớ, quá trình
lập tức báo lỗi đối với trang đó. Sau khi trang được mang vào trong bộ nhớ, quá trình
tiếp tục thực thi, báo lỗi khi cần cho tới khi mỗi trang nó cần ở trong bộ nhớ. Tại thời
điểm đó, nó có thể thực thi với không có lỗi nào nữa. Cơ chế này là thuần phân
trang yêu cầu (pure demand paging): không bao giờ mang trang vào bộ nhớ cho tới
khi nó được yêu cầu.
Về lý thuyết, một số quá trình có thể truy xuất nhiều trang mới của bộ nhớ với
mỗi sự thực thi chỉ thị (một trang cho một chỉ thị và nhiều trang cho dữ liệu), có thể
gây ra lỗi nhiều trang trên chỉ thị. Trường hợp này sẽ dẫn đến năng lực thực hiện hệ
thống không thể chấp nhận. May thay, phân tích các quá trình thực thi thể hiện rằng
hành vi này là không hoàn toàn xảy ra. Các chương trình có khuynh hướng tham
chiếu cục bộ dẫn đến năng lực phù hợp từ phân trang yêu cầu.
Phần cứng hỗ trợ phân trang theo yêu cầu là tương tự như phần cứng phân
trang và hoán vị.
Biên soạn: Th.s Nguyễn Phú Trường - 09/2005 Trang 182
Đại Học Cần Thơ - Khoa Công Nghệ Thông Tin - Giáo Trình Hệ Điều Hành – V1.0
• Bảng trang: bảng này có khả năng đánh dấu mục từ không hợp lệ thông
qua bit hợp lệ-không hợp lệ hay giá trị đặc biệt của các bit bảo vệ
• Bộ nhớ phụ: bộ nhớ này quản lý các trang không hiện diện trong bộ nhớ
chính. Bộ nhớ phụ thường là đĩa tốc độ cao. Nó được xem như là thiết bị
hoán vị và phần đĩa được dùng cho mục đích này được gọi là không gian
hoán vị.
Ngoài sự hỗ trợ phần cứng này, phần mềm có thể xem xét được yêu cầu. Ràng
buộc kiến trúc phải được áp đặt. Ràng buộc quan trọng được yêu cầu là có thể khởi
động lại bất cứ chỉ thị nào sau khi lỗi trang. Trong hầu hết các trường hợp, yêu cầu
này là dễ dàng thoả mãn. Lỗi trang có thể xảy ra tại bất cứ tham chiếu bộ nhớ nào.
Nếu lỗi trang xảy ra trên việc lấy chỉ thị, chúng ta có thể khởi động lại bằng cách lấy
lại chỉ thị. Nếu lỗi trang xảy ra trong khi chúng ta đang lấy một toán hạng, chúng ta
phải lấy và giải mã lại chỉ thị, và sau đó lấy toán hạng.
IV.2 Năng lực của phân trang theo yêu cầu
Phân trang theo yêu cầu có thể có một ảnh hưởng lớn trên năng lực của một hệ
thống máy tính. Để thấy tại sao, chúng ta tính thời gian truy xuất hiệu quả (effective
access time) cho bộ nhớ được phân trang theo yêu cầu. Đối với hầu hết các hệ thống
máy tính, thời gian truy xuất bộ nhớ, được ký hiệu ma, nằm trong khoảng từ 10 đến
200 nano giây. Với điều kiện là chúng ta không có lỗi trang, thời gian truy xuất hiệu
quả là bằng với thời gian truy xuất bộ nhớ. Tuy nhiên, nếu lỗi trang xảy ra, trước hết
chúng ta phải đọc trang tương ứng từ đĩa và sau đó truy xuất từ mong muốn.
Gọi p là xác suất của lỗi trang (0 ≤ p ≤ 1 ). Chúng ta mong đợi p gần bằng 0;
nghĩa là chỉ có một vài lỗi trang. Thời gian truy xuất hiệu quả là:
Thời gian truy xuất hiệu quả = (1 – p) x ma + p x thời gian lỗi trang
Để tính toán thời gian truy xuất hiệu quả, chúng ta phải biết phải mất bao lâu
để phục vụ một lỗi trang. Để duy trì ở mức độ chấp nhận được sự chậm trễ trong hoạt
động của hệ thống do phân trang, cần phải duy trì tỷ lệ phát sinh lỗi trang thấp.
V Thay thế trang
Thay thế trang thực hiện tiếp cận sau. Nếu không có khung trống, chúng ta tìm
một khung hiện không được dùng và giải phóng nó. Khi chúng ta giải phóng một
khung bằng cách viết nội dung của nó tới không gian hoán vị và thay đổi bảng trang
(và các bảng trang khác) để hiển thị rằng trang không còn ở trong bộ nhớ (hình VIII-
5). Bây giờ chúng ta có thể dùng khung được giải phóng để quản lý trang cho quá
trình bị lỗi. Chúng ta sửa đổi thủ tục phục vụ lỗi trang để chứa thay thế trang:
1) Tìm vị trí trang mong muốn trên đĩa
2) Tìm khung trang trống
a) Nếu có khung trống, dùng nó.
b) Nếu không có khung trống, dùng một giải thuật thay thế trang để chọn
khung “nạn nhân”
c) Viết trang “nạn nhân” tới đĩa; thay đổi bảng trang và khung trang
tương ứng.
3) Đọc trang mong muốn vào khung trang trống; thay đổi bảng trang và khung
trang.
4) Khởi động lại quá trình.
Biên soạn: Th.s Nguyễn Phú Trường - 09/2005 Trang 183
Đại Học Cần Thơ - Khoa Công Nghệ Thông Tin - Giáo Trình Hệ Điều Hành – V1.0
Hình 0-5 Thay thế trang
Chúng ta phải giải quyết hai vấn đề chính để cài đặt phân trang theo yêu cầu:
chúng ta phát triển giải thuật cấp phát khung và giải thuật thay thế trang. Nếu chúng ta
có nhiều quá trình trong bộ nhớ, chúng ta phải quyết định bao nhiêu khung cấp phát
tới quá trình. Ngoài ra, khi thay thế trang được yêu cầu, chúng ta phải chọn các khung
để được thay thế. Thiết kế các giải thuật hợp lý để giải quyết vấn đề này là một tác vụ
quan trọng vì nhập/xuất đĩa là rất đắt. Thậm chí một cải tiến nhỏ trong các phương
pháp phân trang theo yêu cầu sinh ra một lượng lớn năng lực hệ thống.
Có nhiều giải thuật thay thế trang khác nhau. Mỗi hệ điều hành có thể có cơ
chế thay thế của chính nó. Chúng ta chọn một giải thuật thay thế trang như thế nào?
Thông thường, chúng ta muốn một giải thuật tỉ lệ lỗi trang nhỏ nhất.
Chúng ta đánh giá một giải thuật bằng cách chạy nó trên một chuỗi các tham
chiếu bộ nhớ cụ thể và tính số lượng lỗi trang. Chuỗi các tham chiếu bộ nhớ được gọi
là chuỗi tham chiếu. Chúng ta có thể phát sinh chuỗi tham chiếu giả tạo (thí dụ, bằng
bộ phát sinh số ngẫu nhiên). Chọn lựa sau đó tạo ra số lượng lớn dữ liệu (trên thứ tự 1
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_cuong_mon_hoc_he_dieu_hanh.pdf