Thế giới ngày nay là một thể thống nhất, trong đó các quốc gia là những đơn vị độc lập, tự chủ, nhưng phụ thuộc vào nhau về nền kinh tế và khoa học công nghệ. Sự phụ thuộc giữa các quốc gia bắt nguồn từ những yếu tố khách quan. Do điều kiện địa lý, do sự phân bố không đều tài nguyên thiên nhiên, không một quốc gia nào có khả năng tự cấp tự túc những sản phẩm cơ bản như: năng lượng, than, dầu thô, gỗ, lương thực, thiết bị kỹ thuật.Mặt khác, sự phụ thuộc giữa các quốc gia còn bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất và cuộc cách mang khoa học công nghệ trên toàn thế giới.
Việt Nam đã và đang thực hiện công cuộc “CNH-HĐH ” đất nướcvới chiến lược phát triển kinh tế “hướng về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu có chọn lọc”, trong những năm gần đây đã mang lại hiệu quả to lớn, ngành dệt may đã có vị trí quan trọng trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực , làm tăng kim ngạch xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động kinh tế đối ngoại có vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện chiến lược CNH - HĐH đất nước. Do vậy, việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ngang bằng với nhu cầu nhập khẩu của mỗi quốc gia sẽ giúp quốc gia đó ổn định và phát triển. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu còn vận động các yếu tố sản xuất, tăng nguồn thu ngoại tệ, đa dạng hoá nhu cầu tiêu dùng của người dân . .
Đề án này trình bầy “thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt nam”. Nội dung gồm có:
Phần1 : Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.
Phần 2: Tình hình kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang một số thị trường chủ yếu.
Phần3 : Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các thị trường trên thế giới.
42 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1224 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Thế giới ngày nay là một thể thống nhất, trong đó các quốc gia là những đơn vị độc lập, tự chủ, nhưng phụ thuộc vào nhau về nền kinh tế và khoa học công nghệ. Sự phụ thuộc giữa các quốc gia bắt nguồn từ những yếu tố khách quan. Do điều kiện địa lý, do sự phân bố không đều tài nguyên thiên nhiên, không một quốc gia nào có khả năng tự cấp tự túc những sản phẩm cơ bản như: năng lượng, than, dầu thô, gỗ, lương thực, thiết bị kỹ thuật...Mặt khác, sự phụ thuộc giữa các quốc gia còn bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất và cuộc cách mang khoa học công nghệ trên toàn thế giới.
Việt Nam đã và đang thực hiện công cuộc “CNH-HĐH ” đất nướcvới chiến lược phát triển kinh tế “hướng về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu có chọn lọc”, trong những năm gần đây đã mang lại hiệu quả to lớn, ngành dệt may đã có vị trí quan trọng trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực , làm tăng kim ngạch xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động kinh tế đối ngoại có vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện chiến lược CNH - HĐH đất nước. Do vậy, việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ngang bằng với nhu cầu nhập khẩu của mỗi quốc gia sẽ giúp quốc gia đó ổn định và phát triển. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu còn vận động các yếu tố sản xuất, tăng nguồn thu ngoại tệ, đa dạng hoá nhu cầu tiêu dùng của người dân . ...
Đề án này trình bầy “thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt nam”. Nội dung gồm có:
Phần1 : Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.
Phần 2: Tình hình kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang một số thị trường chủ yếu.
Phần3 : Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các thị trường trên thế giới.
Nội dung
Phần1:Lý luận chung về hoạt động xuất khẩ
I- Khái niệm và vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân.
1. Khái niệm :
Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ là những hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên và cơ bản của các công ty tham gia kinh doanh quốc tế. Đây là một hình thức kinh doanh quốc tế quan trọng nó phản ánh quan hệ thương mại giữa các quốc gia trong phạm vi khu vực và thế giới. Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ là hoạt động kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp nhằm đa hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài. Có thể nói xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quan trọng nhất trong việc thúc đẩy quan hệ thương mại, buôn bán giữa các quốc gia trong phạm vi khu vực và thế giới. Hình thức kinh doanh xuất khẩu thường là hoạt động kinh tế quốc tế cơ bản của một quốc gia, nó làm tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo hệ thống cơ sở hạ tầng cho việc thúc đẩy nền kinh tế...
Nhìn từ khía cạnh khác, hoạt động xuất khẩu được chia ra làm các hình thức khác nhau như ; Xuất khẩu trực tiếp là do chính các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đảm nhận. Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm sẽ tạo được uy tín cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nếu hoạt động xuất khẩu diễn ra trong một thời gian dài. Hơn nữa xuất khẩu trực tiếp sẽ tạo đà phát triển những ngành nghề tiềm năng của đất nước. Nhưng nhược điểm của nó là nước xuất khẩu phải có uy tín, đảm bảo được chất lượng hàng hoá xuất khẩu . xuất khẩu dán tiếp được hiểu là do các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tổ chức kinh doanh trung gian đảm nhận. Hình thức này có lợi thế là các tổ chức kinh doanh trung gian có thể kiếm lợi nhuận bằng uy tín và khả năng trình độ kỹ thuật của mình. Do vậy, hình thức này thường phù hợp với những nước tiên tiến đã phát triển và có uy tín khá lớn trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó các nước đang phát triển có thể dựa vào hình thức này mà có thể thâm nhập được thị trường thế giới ,từ đó phát huy thế mạnh và tự khẳng định mình. Xuất khẩu dán tiếp làm cho nước xuất khẩu bị giảm lợi nhuận và phụ thuộc rất nhiều vào các tổ chức kinh tế trung gian. Hình thức gia công xuất khẩu cũng là một trong những chiến lược phát triển kinh tế . Nó có thể giúp các quốc chậm phát triển đang trong thời kỳ khủng hoảng mà muốn duy trì ngành nghề của mình . Nhưng nhược điểm của nó là các nước gia công xuất khẩu được hưởng lãi suất rất thấp, kéo theo sự trì trệ ngành hàng xuất khẩu đó nếu hình thức này diễn ra trong một thời gian dài.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Chúng ta khẳng định rằng hoạt động xuất khẩu có tầm quan trọng rất lớn trong hoạt động kinh tế quốc tế cơ bản của mỗi một quốc gia,nó là chiếc chìa khoá mở ra những giao dịch kinh tế của một quốc gia tọa nguồn thu chi ngoại tệ chủ yếu của một nước khi than gia vào các hoạt động kinh tế quốc tế tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu càng được thể hiện khi ta nhìn vào quá trình phát triển kinh tế của một số nước lớn. Nh chúng ta đã biết Nhật Bản là một nước lớn ở Châu á điều kiện về tài nguyên và địa hình không chỉ u thế tốt cho Nhật Bản phát triển kinh tế. Như trong chính sách ngoại thương của Nhật Bản từ 1985 đén nay cho thực hiện chính sách hạn chế nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu nên Nhật Bản luôn có thặng dư mậu dịch lớn. Ngoài Nhật Bản ta còn phải kể đến Mỹ là một cường quốc về kinh tế đặc biệt là hoạt động xuất khẩu trong những năm gần đây. Mỹ là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới và nhờ xuất khẩu Mỹ đã giảm được mức thâm hụt cán cân thương mại trong buôn bán với Nhật Bản và xây dựng được một khu vực với liên minh châu Âu (EU).
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại có thể nói xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có quan hệ hữu cơ với nhau vì quan hệ kinh tế đối ngoại là tiền đề cho hoạt động xuất khẩu, mặt khác xuất khẩu sẽ mở rộng và thúc đẩy được quan hệ kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu chi nhập khẩu phục vụ cho công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bứoc đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của đất nước ta. Để CNH, HĐH đất nước chúng ta cần một số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ tiên tiến. Do vậy xuất khẩu với quy mô và tốc độ của nhập khẩu trong thời gian này sẽ giúp nền kinh tế của ta phát trriển nhịp nhàng và hợp lý. Trong tương lai nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhng thị trờng đầu tư và vay nợ của nước ngoài và cá tổ chức quốc tế chỉ thuận hợp khi các chủ đầu tư, người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu nguồn vốn để trả nợ thành hiện thực. Xuất khẩu đóng góp vào quá trrình chuyển dịch cơ cáu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cơ cấu kinh tế trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ, đó là thành quả của các cuộc khoa học cách mạng, công nghệ hiện đại. Chính vì vậy hoạt động xuất khẩu mỗi quốc gia đòi luôn phải đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị và sản xuất kinh doanh . ngoài xuất khẩu còn tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất tạo một mối quan hệ hữu cơ cho các nghành có liên quan về hoạt động xuất khẩu từng loại hàng hoá . Ví dụ khi phát triển ngành dệt may sẽ tạo đầy đủ cho việc phát triển sản xuất nguyên liệu như bông, thuốc nhuộm.... sự phát triển của ngành chế biến thực phẩm xuất khẩu gạo, cà, dầu có thể kéo theo sự phát triển của các ngành công nghệ chế tạo thiết bị phục vụ nó.
Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. nạn lạm phát thất ngiệp là một trong những vấn đề nổi cộm ở các quốc gia chậm phát triển, chính vì tính quan trọng của nó mà sản xuất hàng hoá xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào lầm việc và có thu nhập khá cao. Từ đó đời sống người dân được nâng cấp cải thiện rõ rệt quá quá trĩnh hàng hoá .
Bằng chứng thứ nhất nằm ở cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của ta. Xuất khẩu đã tăng trưởng rất nhanh trong thời kỳ sau đổi mới, trung bình là 19%/năm. Nhưng cơ cấu xuất khẩu lại hầu như không có thay đổi quan trọng trong suốt thời gian đó, và chỉ thiên về sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến (như lúa gạo, cà phê, thủy sản) và khoáng sản (chủ yếu là dầu thô). Những mặt hàng nông nghiệp và khoáng sản thô này luôn có mặt trong nhóm mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta, và chiếm đến trên 50% tổng giá trị xuất khẩu hơn 20 năm qua. Hàng công nghiệp chế biến lọt vào trong danh sách này là ba sản phẩm may, dệt, và giày dép, chiếm hơn 20% tổng giá trị xuất khẩu. Cần lưu ý là các mặt hàng công nghiệp chế biến này có hàm lượng giá trị gia tăng rất thấp. Các mặt hàng chủ yếu khác nằm ngoài tốp 10 này cũng lại là các sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến (như hạt điều, chè, cao su) và than. Tóm lại, cơ cấu xuất khẩu vẫn dựa chủ yếu vào khoáng sản, hàng nông nghiệp chưa chế biến, và hàng công nghiệp chế biến có giá trị gia tăng thấp, mặc dù có một số biến chuyển nhưng không đáng kể, đặc biệt là so với các nước Đông á trong giai đoạn phát triển ban đầu của họ vào thập kỷ 1970 và 1980.
Lý do thứ hai ngăn cản xuất khẩu đóng góp tích cực vào tăng trưởng là các mối liên hệ ngược trở lại (backward linkages) giữa khu vực xuất khẩu với phần còn lại của nền kinh tế còn rất yếu ở ta. Trước tiên, cần thấy rằng ta đã thất bại trong việc xây dựng mạng lưới các ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ trực tiếp cho các hoạt động sản xuất để xuất khẩu. Một thí dụ dễ thấy về tình trạng này là trong ngành lúa gạo. Do sự yếu kém của công nghiệp xay xát, chế biến, một tỷ trọng lớn gạo Việt Nam xuất đi không được xử lý thích hợp nên giá gạo Việt Nam bao giờ cũng thấp hơn giá gạo Thái-lan từ 15-20%. Trong các ngành khác như cà phê, rau quả, thủy sản, tình hình cũng tương tự. Giá xuất khẩu thấp hơn có nghĩa là ta phải chịu thiệt thòi nhiều hơn cho cùng một lượng các nguồn lực khan hiếm dùng trong quá trình sản xuất so với đối thủ.
Hơn nữa, cần phải tỉnh táo nhìn nhận lại con số tăng trưởng ngoạn mục của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong thời gian qua. Hầu như các nhà làm chính sách đều bỏ qua hoặc xem nhẹ thực tế là những mặt hàng xuất khẩu này, như da giày, may mặc, đều có giá trị gia tăng rất thấp, chủ yếu nằm ở tiền công gia công, vốn đã ở mức rẻ nhất trong khu vực. Có một phân tích cho thấy, Việt Nam chỉ được hưởng tổng cộng khoảng 5% lợi nhuận của một cái áo sơ mi xuất khẩu. Như vậy, nếu xét đến giá trị gia tăng thì đóng góp từ tăng trưởng xuất khẩu lên tăng trưởng kinh tế trên thực tế sẽ nhỏ hơn nhiều so với những gì vẫn tưởng nếu chỉ dựa vào doanh số xuất khẩu danh nghĩa. Và điều quan trọng hơn ở đây là, vì tỷ lệ giá trị gia tăng thấp nên Việt Nam buộc phải duy trì tăng trưởng xuất khẩu mạnh các mặt hàng này nhằm tăng tỷ trọng giá trị gia tăng của chúng góp vào GDP. Mà điều này có nghĩa là ta phải xuất khẩu ồ ạt (bằng các biện pháp trợ cấp xuất khẩu chẳng hạn) các mặt hàng giày dép, quần áo vào các thị trường chính quốc tế như Mỹ và EU, và tức là sẽ luôn phải đối mặt với hàng rào tự vệ thương mại do các nước này dựng lên, như các mức thuế trừng phạt mà EU đang tiến hành hiện nay.
Lý do thứ ba nằm ở mối quan hệ lỏng lẻo giữa chủ trương khuyến khích xuất khẩu và chủ trương công nghiệp hóa ở Việt Nam. Không giống như các nước Đông á khác, nơi mà tăng trưởng kinh tế gắn liền với và được kéo đồng thời bởi cả hai quá trình tăng trưởng xuất khẩu và công nghiệp hóa, quá trình công nghiệp hóa nền kinh tế Việt Nam diễn ra rất chậm chạp. Mặc dù con số thống kê cho thấy tốc độ tăng trưởng công nghiệp là khá cao, nhưng cần lưu ý rằng nó bị “kéo” chủ yếu bởi tốc độ tăng trưởng của ngành khai khoáng (chủ yếu là dầu thô). Cần lưu ý thêm rằng chiến lược công nghiệp hóa dựa quá nhiều vào khai thác dầu thường không thành công, mà thí dụ điển hình là hai nước xuất khẩu dầu lửa lớn Nigeria và Venezuela.
Bên cạnh đó, các ngành dệt may, da giày, chế biến lương thực và thực phẩm đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất so với các ngành công nghiệp chế biến khác. Tuy nhiên, những ngành này sử dụng phần nhiều là lao động phổ thông từ nông thôn, thường chỉ được học nghề tại chỗ trong nhà máy trong một thời gian ngắn. Máy móc và thiết bị thường rất cũ kỹ, lạc hậu (thí dụ trong ngành chế biến lương thực), với quy mô sản xuất nhỏ bé. Vì vậy, chất lượng sản phẩm luôn là vấn đề trong những ngành này, và vì thế khó mà thuyết phục được rằng tăng trưởng nhanh của những ngành này đã đóng góp quan trọng vào tốc độ công nghiệp hóa ở ta.
Lý do cuối cùng nằm ở việc phân bổ không hợp lý các nguồn lực khan hiếm sang cho khu vực sản xuất để xuất khẩu. Như đã nói, vai trò của xuất khẩu dường như đã được đánh giá cao quá mức ở nước ta, thể hiện qua các mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu, năm sau thường phải cao hơn năm trước, được thực hiện bằng tất cả các biện pháp khuyến khích có thể có, mà bỏ quên việc phân tích lợi - hại đi kèm với quá trình khuyến khích xuất khẩu. Chính việc khuyến khích và trợ cấp xuất khẩu như vậy đã bóp méo giá cả là yếu tố phản ánh mức độ khan hiếm tương đối của các nguồn lực sản xuất, tập trung sản xuất để xuất khẩu ở những ngành Việt Nam không hoàn toàn có lợi thế, dẫn đến làm giảm tổng phúc lợi trong xã hội vì các nguồn lực đã bị sử dụng không hiệu quả.
Thay cho lời kết, bài viết này muốn cảnh tỉnh rằng thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu về danh nghĩa rõ ràng không phải là lời giải cho vấn đề tăng trưởng bền vững và nhanh trong tương lai, đặc biệt khi Việt Nam sắp gia nhập WTO và phải chấp nhận sự minh bạch trong chính sách và cuộc chơi bình đẳng. Ngoài những lý do nêu trên đây, còn có một lý do đơn giản nữa là tốc độ tăng trưởng xuất khẩu ở Việt Nam đã đạt mức quá cao so với mức trung bình của thế giới và khu vực. Do đó, không thể tiếp tục duy trì xuất khẩu ở mức cao mãi như vậy được. Điều quan trọng hơn cho Việt Nam nếu muốn tiếp tục phát triển nhanh và bền vững trong tương lai là:
- cơ cấu, chất lượng, và hàm lượng giá trị gia tăng trong hàng xuất khẩu, là những vấn đề đòi hỏi nhiều công sức để tạo chuyển biến tích cực;
- những giải pháp về chính sách, trong số đó có những giải pháp giúp cải thiện năng suất và hiệu quả của khu vực sản xuất cho xuất khẩu.
II. Vị trí của ngành công nghiệp dệt may trên thị trường thế giới và ở Việt Nam.
1.Thị trường hàng dệt may trên thế giới
a.Những thay đổi cơ bản trong thương mại hàng dệt may thế giới
Trong giai đoạn hiện nay, các cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang từng bước phát triển không ngừng và tạo đà phát triển cho các ngành công nghiệp của từng quốc gia mỗi ngày một tiến xa hơn có thể nối không một ngành công nghiệp của quốc gia nào chỉ kinh doanh ở thị trường nội địa đặc biệt là ngành dệt may. Do thị trường hàng doanh dệt may thế giới đã có những thay đổi cơ bản và có ảnh hưởng tới mọi quốc gia có ngành dệt may phát triển. tại vòng đàm phán URUGOAY (1994) của tổ chức thương mại thế giới (WTO) hiệp định về hàng dệt may (ATC) ra đồi thay thế hiệp định đa sợi (MFA). Theo ATC buôn bán các sản phẩm dệt may sẽ hoà nhập trở lại theo nguyên tắc không phân biệt đối xử WTO, chấm dứt các trường hợp ngoại lệ trong buôn bán quốc tế các sản phẩm này. Tuy nhiên chỉ các thành viên WTO mới phải tuân theo các quy định ATC (đối với nước nhập khẩu) và được hưởng lợi ích của hiệp định(đối với nước xuất khẩu ). Ngoài ra quá trình tự do hoá thương mại đối với các sản phẩm dệt may được thể hiện trên 2 nội dung chính:
Một là mỗi nước nhập khẩu có quyền lựa chọn bất cứ sản phẩm nào trong 4 loại: sợi, vải, sản phẩm dệt và quần áo đa vào danh mục hội nhập dàn theo các quy định thông thường của GATT. Thông thường các sản phẩm được mỗi nước lựa chọn là những sản phẩm ít nhạy cảm đối với mỗi nước đó.
Hai là hiệp định ATC đã ra một công hình thức gia tăng tốc độ hạn ngạch đối với các sản phẩm còn bị hạn chế theo các thảo thuận song phương trước đây của MFA. Hiệp định cũng cho phép các nước thành viên có thể áp dụng các biện pháp tự vệ tạm thời đối với các sản phẩm cha chịu sự điều chỉnh. Nhưng các nước cần phải chứng minh rằng các sản phẩm này đang được nhập khẩu với số lượng lớn, làm thiệt hại nghiêm trọng hay có nguy cơ làm thiệt hại sản xuất các sản phẩm tương tự trong nước. Như vậy những thay đổi cơ bản trong thơng mại hàng dệt may thế giới từ trước MFA đến ATC được diễn ra theo hướng taọ cơ hội, tiếp cận thị trường nhập khẩu cho các sản phẩm dệt may xuất khẩu thông qua việc với công hạn ngạch và tạo cơ hội thâm nhập thị trường nhập khẩu cho các nước xuất khẩu thông qua việc bãi bỏ đần các hạn chế song phương.
b.ảnh hưởng của những thay đổi thương mại hàng dệt may thế giới với cục diện cạnh tranh xuất khẩu hiện nay.
Những thương lượng trong khuôn khổ các thành viên của GATT và sau này là WTO đã thay đổi đối với những nước nhập khẩu phải nhượng bộ. Cụ thể là loại bỏ MFA , sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may ở hầu hết các nước xuất khẩu đều tăng. Với việc thực hiện ATC, xuất khẩu từ các nước bị hạn chế theo MFA song các nước áp đặt hạn ngạch sẽ tăng 26% đối với hàng may mặc và 10% đối với hàng dệt. Đồng thời sản xuất và xuất khẩu hàng may ở các nước xuất khẩu lớn( các nước đã phát triển và mới phát triển ) có thể bị thu hẹp do giảm khả năng cạnh tranh vì giá lao động đã tăng cao tương đối so với suất đầu tư.
Tuy nhiên theo ATC thước đo về hội nhập của hàng dệt may trong các giai đoạn đều được tính bằng tổng khối lượng nhập khẩu chứ không phải tính riêng cho các mặt hàng đang bị hạn chế. Thực tế ở các nước không phải tất cả các hàng dệt may đều bị hạn chế nhập khẩu, do đó các nước nhập khẩu sẽ đa vào hội nhập trước hết là các mặt hàng không bị hạn chế hoặc ít bị hạn chế, hoặc các sản phẩm có khối lượng lớn nhưng giá trị gia tăng thấp. Trên phương diện xem xét về cạnh tranh hàng dệt may trong thương mại quốc tế, thì ATC cũng đang bộc lộ những ảnh hưởng của nó đến cục bộ cạnh tranh giữa các nước và các khối khác. Cơ hội xuất khẩu sẽ gia tăng cho tất cả các nước. Trong khi Bắc Mỹ và EU là thị trường nhập khẩu lớn của thế giới thì chính các nước xuất khẩu khác cũng sẽ là một thị trường nhập khẩu tiềm năng .
Cạnh tranh xuất khẩu giữa các nước ngày càng mở rộng quyết liệt hơn và sẽ đi đến khai thác triệt để hơn các lợi thế tại thành sức mạnh cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu. Như vậy cục diện cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may trong xu thế tự do hoá thương mại sẽ có xu hướng trở lại gần hơn với sức cạnh tranh thực của nó. Hơn nữa nó phát triển theo cả chiều rộng (cạnh tranh giữa các quốc gia) và theo chiều sâu (cạnh tranh theo mặt hàng, nhóm hàng) cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may không chỉ là cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu với nhau trên thị trường nhập khẩu mà nước xuất khẩu này hòng phải đối mặt với cạnh tranh của nước xuất khẩu khác ở chính ngay thị trường nội địa.
2. Thị trường hàng dệt may ở Việt Nam.
Sự ổn định hay bất ổn định về chính trị xã hội là nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Hệ thống chính trị và các quan điểm về chính trị xã hội suy đến cùng tác động trực tiếp đến phạm vi, lĩnh vực, mặt hàng, đối tác kinh doanh. Một trong những bộ phận của môi trường bên ngoài có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là hệ thống luật pháp. việc quản lý xuất khẩu hàng dệt may được thực hiện bằng cơ chế giấy phép hải quan, hạn ngạch xuất khẩu và bằng các quy chế quản lý ngoại tệ. Nếu hàng dệt may thuộc diện quản lý bằng giấy phép thì người xuất khẩu phải xin giấy phép tại cơ quan quản lý có thẩm quyền do pháp luật quy định. ở Việt Nam, Bộ thương mại đã thiết kế mẫu giấy phép xuất khẩu theo mẫu của liên hợp quốc với nội dung đã được tiêu chuẩn hoá theo quy định quốc tế. Giấy phép xuất khẩu hàng dệt may chỉ cấp cho các tổ chức có quyền kinh doanh xuất nhập khẩu hàng dệt may trong phạm vi hạn ngạch quy định cho mặt hàng đó. Hàng dệt may xuất khẩu phải làm thủ tục hảI quan khi xuất khẩu, theo các quy định chính thức về xuất khẩu hàng dệt may và có khi theo yêu cầu của nước nhập khẩu. Chế độ hạn ngạch xuất khẩu của VN được quy định theo quyết định ssố 96/HĐBT ngày 5/4/91của HĐBT về quản lý xuất nhập khẩu. Hàng năm Bộ Thương mại công bố danh mục hàng dệt may quản lý bằng hạn ngạch sau khi thống nhất với UBKH nhà nước. Bộ quản lý sản xuất được chủ tịch HDBT duyệt. Sau đó Bộ thương mại phân bố hạn ngạch xuất khẩu cho cán bộ ngành địa phương .
Trong thanh toán quốc tế bên xuất khẩu hàng dệt may phải biết là bên nhập khẩu có quyền thanh toán hàng hoá bằng ngoại tệ có thể nhận khi xuất khẩu, đó thường là các ngoại tệ tự do chuyển đổi. Một biện pháp quan trrọng nhà nước cần phải gửi loại ngoại tệ thu đựơc do xuất khẩu vào các ngân hàng ở nước ngoài. Nếu người đó mở tài khoản ở nước ngoài thì lô hàng đó cha được thanh toán và người xuất khẩu vi phạm chế độ quản lý ngoại tệ của nhà nước.
Khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất trong nước tại các thị trường nhập khẩu và xuất khẩu hàng dệt may cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu qua ta. Thuế nhập khẩu làm tăng giá cả trrong nước của hàng nhập khẩu cho nên chúng có ảnh hưởng tương tự như sự phá giá đối với tỷ giá chính thức. Thuế xuất khẩu hàng dệt may có xu thế làm giảm xuất khẩu hàng dệt may và do đó làm giảm nguồn thu ngoại hối của đất nước. Kinh nghiệm của nhièu quốc gia cho thấy trong việc phát triển nhanh xuất khẩu hàng dệt may là ý khí và sự khéo léo của chính phủ trong việc điều chỉnh tỷ giá chính thức, thuế quan và trợ cấp để duy trì tỷ giá thực tế kích thích hàng dệt may về lâu dài và ngăn ngừa tỷ giá nhập khẩu trượt lên cao với tỷ giá xuất khẩu.
Phần 2: Tình hình kinh doanh hàng dệt may của Việt Nam
I. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của VN qua các năm
1. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam.
Sự ổn định hay bất ổn định về chính trị xã hội là nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Hệ thống chính trị và các quan điểm về chính trị xã hội suy đến cùng tác động trực tiếp đến phạm vi, lĩnh vực, mặt hàng, đối tác kinh doanh. Một trong những bộ phận của môi trường bên ngoài có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là hệ thống luật pháp. việc quản lý xuất khẩu hàng dệt may được thực hiện bằng cơ chế giấy phép hải quan, hạn ngạch xuất khẩu và bằng các quy chế quản lý ngoại tệ.
Nếu hàng dệt may thuộc diện quản lý bằng giấy phép thì ngời xuất khẩu phải xin giấy phép tại cơ quan quản lý có thẩm quyền do pháp luật quy định. ở Việt Nam, Bộ thương mại đã thiết kế mẫu giấy phép xuất khẩu theo mẫu của liên hợp quốc với nội dung đã được tiêu chuẩn hoá theo quy định quốc tế. Giấy phép xuất khẩu hàng dệt may chỉ cấp cho các tổ chức có quyền kinh doanh xuất nhập khẩu hàng dệt may trong phạm vi hạn ngạch quy định cho mặt hàng đó. Hàng dệt may xuất khẩu phải làm thủ tục hải quan khi xuất khẩu, theo các quy định chính thức về xuất khẩu hàng dệt may và có khi theo yêu cầu của nước nhập khẩu. Chế độ hạn ngạch xuất khẩu của VN được quy định theo quyết định ssố 96/HĐBT ngày 5/4/91của HĐBT về quản lý xuất nhập khẩu. Hàng năm Bộ Thương mại công bố danh mục hàng dệt may quản lý bằng hạn ngạch sau khi thống nhất với UBKH nhà nước. Bộ quản lý sản xuất được chủ tịch HDBT duyệt. Sau đó Bộ thương mại phân bố hạn ngạch xuất khẩu cho cán bộ ngành địa phương .
Trong thanh toán quốc tế bên xuất khẩu hàng dệt may phải biết là bên nhập khẩu có quyền thanh toán hàng hoá bằng ngoại tệ có thể nhận khi xuất khẩu, đó thường là các ngoại tệ tự do chuyển đổi. Một biện pháp quan trrọng nhà nớc cần phải gửi loại ngoại tệ thu đựơc do xuất khẩu vào các ngân hàng ở nước ngoài. Nếu người đó mở tài khoản ở nước ngoài thì lô hàng đó không được thanh toán và người xuất khẩu vi phạm chế độ quản lý ngoại tệ của nhà nước.
Khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất tong nước tại các thị trường nhập khẩu và xuất khẩu hàng dệt may cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu qua ta. Thuế nhập khẩu làm tăng giá cả trrong nước của hàng nhập khẩu cho nên chúng có ảnh hưởng tương tự như sự phá giá đối với tỷ giá chính thức. Thuế xuất khẩu hàng dệt may có xu thế làm giảm xuất khẩu hàng dệt may và do đó làm giảm nguồn thu ngoại hối của đất nước. Kinh nghiệm của nhièu quốc gia cho thấy trong việc phát triển nhanh xuất khẩu hàng dệt may là ý khí và sự khéo léo của chính phủ trong việc điều chỉnh tỷ giá chính thức, thuế quan và trợ cấp để duy trì tỷ giá thực tế kích thích hàng dệt may về lâu dài và ngăn ngừa tỷ giá nhập khẩu trượt lên cao với tỷ giá xuất khẩu
Điều đáng nói là tất các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, EU và Nhật Bản đều có sự tăng trưởng khá. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đã bắt đầu khai thác thành công thị trường châu Phi. Chỉ riêng trong tháng 1/2006 xuất khẩu sang thị trường này đã tăng gấp 4 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Theo đánh giá, thị trường châu Phi đã được coi là thị trường mới, đầy tiềm năng với hơn 800 triệu dân thì với những triển vọng về hợp tác và phát triển kinh tế trong thời gian tới, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sẽ còn tăng cao hơn nữa. Ngành dệt may về lâu dài vẫn được xem là ngành công nghiệp có lợi thế của Việt Nam. Theo Quy hoạch điều chỉnh ngành dệt may đến năm 2015, tầm nhìn 2020 mới được bộ Công nghiệp xem xét thì dệt may sẽ được tập trung đầu tư nhằm phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu. Theo đó, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển ngành dệt may vào khoảng 3 tỷ USD cho giai đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 82.doc