Cùng với Nghị định 70/CP (11/07/1994) đã đánh dấu sự xuất hiện của kiểm toán ở Việt Nam trong thời kỳ nền kinh tế chuyển đổi. Sự xuất hiện của kiểm toán là một đòi hỏi tất yếu của công cuộc phát triển kinh tế phù hợp với xu hướng chung của kinh tế thế giới.
Kiểm toán là một lĩnh vực mới ở Việt Nam. Cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, sâu sắc về một hệ thống kiểm toán hoàn chỉnh. Mục đích của chuyên đề này chỉ nhằm làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản nhất. Từ đó áp dụng vào thực tiễn nước ta trên cơ sở kế thừa những ưu điểm và có sự cân nhắc để phù hợp với những đặc điểm riêng.
Xuất phát từ ý nghĩa trên em đã chọn đề tài “Hoạt động Kiểm toán báo cáo tài chính tại một số Công ty Kiểm toán độc lập Việt nam”, để mong tìm kiếm những giải pháp tích cực hỗ trợ phát triển của các Công ty Kiểm toán độc lập Việt nam.
Nội dung đề án bao gồm:
- I. TỔNG QUAN VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP.
- II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP Ở VIỆT NAM.
- III. MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA KTNN VIỆT NAM.
24 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề án Hoạt động Kiểm toán báo cáo tài chính tại một số Công ty Kiểm toán độc lập Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Cùng với Nghị định 70/CP (11/07/1994) đã đánh dấu sự xuất hiện của kiểm toán ở Việt Nam trong thời kỳ nền kinh tế chuyển đổi. Sự xuất hiện của kiểm toán là một đòi hỏi tất yếu của công cuộc phát triển kinh tế phù hợp với xu hướng chung của kinh tế thế giới.
Kiểm toán là một lĩnh vực mới ở Việt Nam. Cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, sâu sắc về một hệ thống kiểm toán hoàn chỉnh. Mục đích của chuyên đề này chỉ nhằm làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản nhất. Từ đó áp dụng vào thực tiễn nước ta trên cơ sở kế thừa những ưu điểm và có sự cân nhắc để phù hợp với những đặc điểm riêng.
Xuất phát từ ý nghĩa trên em đã chọn đề tài “Hoạt động Kiểm toán báo cáo tài chính tại một số Công ty Kiểm toán độc lập Việt nam”, để mong tìm kiếm những giải pháp tích cực hỗ trợ phát triển của các Công ty Kiểm toán độc lập Việt nam.
Nội dung đề án bao gồm:
I. Tổng quan về Kiểm toán độc lập.
II. Thực trạng hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt nam..
- III. Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính của KTNN Việt nam.
I.Tổng quan về kiểm toán độc lập
1. Kiểm toán độc lập là gì ?
Kiểm toán độc lập là một hoạt động kiểm toán được tiến hành bởi các kiểm toán độc lập thuộc các Công ty, các văn phòng kiểm toán chuyên nghiệp. Kiểm toán độc lập là hoạt động tư vấn được pháp luật thừa nhận và bảo hộ, được quản lý chặt chẽ bởi các hiệp hội chuyên ngành kiểm toán. Theo định nghĩa của Liên Đoàn Kế toán Quốc tế thì kiểm toán độc lập là quá trình kiểm tra các số liệu tài liệu của doanh nghiệp do các kiểm toán viên độc lập thực hiện xác nhận tính trung thực, hợp lý của các báo cáo tài chính và cung cấp kết quả kiểm toán cho những người trả phí kiểm toán. Để đảm bảo tính độc lập khách quan, kiểm toán độc lập thường được tổ chức thành các Công ty cổ phần, chi nhánh hoặc văn phòng kiểm toán và các kiểm toán viên độc lập. Các kiểm toán độc lập là đội ngũ hành nghề chuyên nghiệp có kỹ năng nghề nghịêp và đạo đức, phải trải qua các cuộc thi tuyển quốc gia và phải đạt được tiêu chuẩn nhất định về bằng cấp và kinh nghiệm.
ở Việt nam, quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân (Ban hành theo nghị định số 07 - CP - 29/1/1994 của chính phủ) đã ghi rõ: "Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thuộc các tổ chức kiểm toán độc lập về tình đúng đắn hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp, các cơ quan, các tổ chức đoàn thể, các tổ chức xã hội (gọi tắt là các đơn vị kiểm toán) khi có yêu cầu của các đơn vị này".
2. Sự ra đời và phát triển của kiểm toán độc lập ở Việt nam
Kiểm toán độc lập ra đời xuất phát từ nhu cầu khách quan kiểm tra và xác nhận độ tin cậy của báo cáo tài chính theo các chuẩn mực và nguyên tắc đã được xây dựng. Kiểm toán độc lập ra đời và phát triển cùng với nền kiểm toán thị trường, tiền thân của nó là dịch vụ kiểm toán độc lập có từ hơn trăm năm nay, phát triển mạnh mẽ thâm nhập vào mọi ngành, mọi lĩnh vực kiểm toán. Trước năm 1975 thành phố Sài Gòn đã có văn phòng kiểm toán của Công ty Price Waterhouse, công ty SGV. Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng cả nước đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì văn phòng đại diện trên chấm dứt hoạt động. Sau một thời gian thực thi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì ít người biết đến kiểm toán độc lập là gì?
Sau khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường để đáp ứng nhu cầu quản lý, những người quan tâm đến lĩnh vực thông tin tài chính trong doanh nghiệp và thẩm định các dự án sao cho có hiệu quả, giúp nhà nước giảm bớt công tác điều tiết vĩ mô có hiệu qủa, tính tất yếu, khách quan là phải tồn tại kiểm toán. Đánh dấu một bước ngoặt nổi bật: 5/1991 Chính phủ ra Quyết định 70/CP thành lập Công ty Kiểm toán Việt nam (VACO). Công ty Kiểm toán Việt nam (VACO) là Công ty đầu tiên được thành lập, cùng với nhu cầu của nền kinh tế và hệ thống các văn bản và quy chế về kiểm toán của Bộ Tài Chính được ban hành, các chuẩn mực kiểm toán được áp dụng thì các loại hình kiểm toán độc lập dần dần ra đời dưới các hình thức khác nhau như 100% vốn nước ngoài, Công ty liên doanh, Công ty trong nước bao gồm:
- Công ty Kiểm toán Việt nam Thuỷ Chung.
- Công ty Kiểm toán Việt nam (VACO).
- Công ty dịch vụ tư vấn tài chính, kiểm toán kế toán (AASC).
- Công ty tư vấn kiểm toán (AC).
- Công ty tư vấn và kiểm toán Sài Gòn (AFC).
- Công ty kiểm toán Đà Nẵng.
- Công ty kiểm toán và dịch vụ tin học (AISC).
- Công ty kiểm toán Hạ Long (HAACO).
Các Công ty liên doanh:
- Công ty kiểm toán Việt nam - Deloitte Touch Touhmatsu (VACO - DTT).
- Công ty Cooper and Lybrand - AISC.
Công ty 100% vốn nước ngoài:
- Peat Marwick Việt nam (KPMG).
- Pice & Water house - Coopers Việt nam(PWC).
- arthur Andersen Việt nam (AA).
- earnst & Young Việt nam (E&Y).
Các tổ chức trong nước và ngoài nước.
- Văn phòng đại diện của các Công ty kiểm toán quốc tế: Một số Công ty chưa được phép thành lập Công ty liên doanh hoặc Công ty 100% vốn nước ngoài hoặc đang tìm hiểu thị trường Việt nam thì có thể xin giấy phép đặt văn phòng đại diện. Văn phòng đại diện của Công ty kiểm toán, nếu có giấy uỷ quyền của Công ty mẹ thì có thể phối hợp với Công ty kiểm toán ở Việt nam để cùng ký hợp đồng kinh tế.
Tổ chức hiệp hội kế toán Việt nam (VAC): Là một tổ chức quần chúng, tự nguyện của những công dân Việt nam làm nghề kế toán và kiểm toán. Mục đích của Hội Kế toán Việt nam là tập hợp, đoàn kết và động viên công dân Việt nam làm nghề kế toán và kiểm toán để phổ biến kiến thức, trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp, nâng cao trình độ, giúp đỡ nhau trong công tác chuyên môn
Các tổ chức kiểm toán quốc tế: Các tổ chức nước ngoài muốn hoạt động ở Việt nam phải được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép. Nhà nước Việt nam khuyến khích các tổ chức kiểm toán quốc tế vào hoạt động ở Việt nam, đó là điều kiện thúc đẩy các tổ chức kinh tế phát triển và là điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư vào Việt nam.
II. Thực trạng hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt nam
1. Một vài nét tìm hiểu hoạt động của các công ty kiểm toán tại Việt nam.
Công ty Kiểm toán Việt nam được thành lập theo quyết định QĐ 165/ QQĐ/TCCB ngày 13 tháng 5 năm 1991 với tê giao dịch VACO và Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính, Kế toán, Kiểm toán theo quyết định QĐ164/QQD/TCCB với tên giao dịch AASC. VACO và AASC không chỉ là người tiên phong trong ngành nghề kiểm toán ở Việt nam, mà còn là người - bằng việc thực tế của mình đã truyền bá kiến thức, chuẩn mực và các nguyên tắc kiểm toán quốc tế vào Việt nam, cũng như qua nghiên cứu hoạt động thực tiễn đã xây dựng nền móng cho phát triển nguyên tắc và chuẩn mực kiểm toán ở Việt nam.
2. Cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm toán độc lập.
Xét về môi trường pháp lý cho dịch vụ kiểm toán đến nay đã có 4 văn bản pháp luật là Nghị định 07/CP ngày 29/01/1994 của Chính phủ ban hành qui chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Thông tư số 22 TC/CĐKT ngày 19/3/1994 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện qui chế kiểm toán độc lập. Quyết định số 237 TC/QĐ/CĐKT ngày 19/3/1994 của Bộ Tài chính ban hành qui chế thi tuyển và cấp chứng chỉ kiểm toán viên và thông tư số 04/1999/TC-BTC ngày 12/01/1999 của Bộ Tài chính hướng dẫn đăng ký hành nghề kiểm toán.
Ngoài ra Ngân hàng nhà nước có Quyết định số 322/1999/QĐ-NHNN ngày 14/9/1999 ban hành qui chế tổ chức thực hiện kiểm toán độc lập với các tổ chức tín dụng, uỷ ban chứng khoán Nhà nước có Quyết định số 26/2000/QĐ-UBCK ngày 05/01/2000 ban hành qui định về lựa chọn tổ chức kiểm toán độc lập cho các tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán.
Chuẩn mực (CM) là những nguyên tắc có hiệu lực để đo lường chất lượng công việc. Các chuẩn mực kiểm toán (CMKT) được ban hành để hướng dẫn KTV làm việc với chất lượng cao, đồng thời để đánh giá công việc của KTV. Do đó, CMKT đóng vai trò chủ yếu trong việc chuẩn hóa hoạt động kiểm toán và giải quyết vấn đề trách nhiệm pháp lý cuả KTV. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
- Căn cứ vào Nghị định số 15/CP ngày 2/3/1993 của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý Nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
Căn cứ vào Nghị định số 178/CP ngày 28/10/1994 của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Bộ Tài chính.
Căn cứ vào Nghị định số 07/CP ngày 29/1/1994 của Chính phủ ban hành quy chế KTDL trong nền kinh tế quốc dân.
Bộ tài chính đã quyết định ban hành 10 CMKT:
CM số 200: Mục tiêu của nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo là quy định và hướng dẫn áp dụng các mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính.
CM số 210: "Hợp đồng kiểm toán" mục tiêu của CM là quy định các nguyên tắc và nội dung cơ bản của thoả thuận giữa Công ty kiểm toán với khách hàng về các điều khoản và điều kiện:
+ Của hợp đồng kiểm toán.
+ Về trách nhiệm của Công ty kiểm toán và khách hàng khi thực hiện hoặc thay đổi các điều khoản của hợp đồng kiểm toán.
CM còn hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc và nôi dung cơ bản các hoạt động kiểm toán về ký kết và thực hiện hợp đồng kiểm toán phải phù hợp với quy định của pháp luật về hợp đồng kinh tế và CM kiểm toán này.
CM số 230: "Hệ số kiểm toán" quy định các nguyên tắc thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ bản liên quan đến việc lập, thu thâp, phân loại, sử dụng việc lưu trữ hồ sơ kiểm toán BCTC.
CM số 700: " Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính quy định các nguyên tắc thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ bản đối với nội dung và hình thức của báo cáo kiểm toán, do KTV và Công ty kiểm toán công bố sau khi thực hiện Công ty kiểm toán báo cáo tài chính của một đơn vị.
CM số 250: "Xem xét tính tuân thủ pháp luật và các quy định trong kiểm toán báo cáo tài chính, quy định, các nguyên tắc thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc, thủ tục cơ bản cho KTVvà Công ty kiểm toán khi xem xét tính tuân thủ pháp luật và các quy định của đơn vị được kiểm toán khi kiểm toán báo cáo tài chính.
CM số 310: "Hiểu biết về tình hình kinh doanh" quy định, các nguyên tắc thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc, thủ tục cơ bản để tìm hiểu tình hình kinh doanh và hướng dẫn nội dung cần thiết về tình hình kinh doanh, tầm quan trọng của sự hiểu biết đối với KTV thực hiện công việc kiểm toán, mối quan hệ giữa hiểu biết đến các giai đoạn trong quá trình kiểm toán, cách thu thập và sử dụng hiểu biết đó.
CM số 500: "Bằng chứng kiểm toán" quy định các nguyên tắc thủ tục cơ bản về hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ bản đối với số lượng và chất lượng các bằng chứng kiểm toán cần thu thập khi kiểm toán báo cáo tài chính.
CM số 520: "Các thủ tục phân tích" CM này quy định các nguyên tắc thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ bản liên quan đến thủ tục phân tích trong quá trình kiểm toán
CM số 570: "Tính liên tục hoạt động kinh doanh", quy định các nguyên tắc thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ bản đối với trách nhiệm của KTV trong việc xem xét tính liên tục hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp đã sử dụng để lập và trình bày báo cáo tài chính
CM số 580: "Giải trình cuả quy định các nguyên tắc, thủ tục cơ bản hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc và thủ tục cơ bản trong việc thu thập và sử dụng các giải trình của giản đối đơn vị được kiểm toán như nhiều báo cáo kiểm toán, các thủ tục được áp dụng để đánh gía và lưu trữ các giải trình của giản đối, các biện pháp xử lý giản đối từ chối cung cấp các giải trình.
3. Vai trò của kiểm toán độc lập trong nền kinh tế
Dù hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực kinh tế nào thì kết quả kinh doanh hàng năm của doanh nghiệp đều thể hiện trên báo cáo tài chính (bảng tổng kết tài sản, báo cáo các kết quả kinh doanh, bản giải trình).
Vì nhiều nguyên nhân khác nhau, các chủ doanh nghiệp - người có trách nhiệm lập báo cáo tài chính đều muốn che giấu những phần yếu kém hoặc khuyếch trương kết quả kinh doanh của mình trên các báo cáo tài chính đó.
Trái lại những người quan tâm đến kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp lại đòi hỏi sự trung thực, chính xác của báo cáo tài chính. Vì vậy cần có sự kiểm tra và xác nhận của người thứ ba: kiểm toán viên độc lập - những người hoạt động theo những nguyên tắc bắt buộc và có đủ năng lực, uy tín với chủ doanh nghiệp và những người quan tâm đến báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Do đó có thể phân tích vai trò của kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng trên những mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất: kiểm toán tạo niềm tin cho những "người quan tâm". Trong cơ chế thị trường có nhiều người quan tâm đến tình hình tài chính và sự phát triển của nó trong tài liệu kế toán, có thể kể đến là:
Các cơ quan nhà nước cần có thông tin trong thực tế điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế của mình với mọi thành phần, mọi hoạt động xã hội.
Chỉ có hoạt động kiểm toán phát triển trên cơ sở khoa học thực sự mới đáp ứng được yêu cầu thông tin cho những quyết sách của nhà nước và kiểm toán mới thực sự trở thành "cái nền" vững chắc cho cả sự can thiệp trực tiếp lẫn quản lý gián tiếp của nhà nước.
Các nhà đầu tư cần có tài liệu tin cậy để trước hết cơ hướng đầu tư đúng đắn, sau có điều hành, sử dụng vốn đầu tư và cuối cùng có tài liệu trung thực về ăn chia phân phối kết quả đầu tư, chẳng hạn như:
Các cổ đông góp vốn kinh doanh hoặc mua cổ phiếu của doanh nghiệp nhưng cũng không dễ gì có thể kiểm tra kỹ lướng bản báo cáo tài chính (do không có nghiệp vụ hoặc không phải ai cũng có thể kiểm tra) do đó kho báo cáo tài chính đã được kiểm toán viên xác nhậ là trung thực, hợp lý thì có thể yên tâm ăn chia lợi tức và quyết định tiếp tục hoặc không tiếp tục tham gia kinh doanh.
Các ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn cũng phải nắm chắc tình hình tài chính kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng để quyết định cho vay, thu hồi vốn vay hoặc không cho vay. Kiểm toán viên sẽ giúp ngân hàng làm được việc đó.
Như vậy để thu hút của các nhà đầu tư và tạo cơ hội thuân lợi cho việc sử dụng hợp lý mọi nguồn đầu tư, cần có những thông tin trung thực và khách quan về tình hình tài chính trước hết và chủ yếu thông qua kiểm toán toàn bộ các bảng khai thác tài chính về tài sản, về thu nhập, về đồng tiền cùng các bảng thuyết minh kèm theo.
Các nhà quản lý doanh nghiệp và các nhà quản lý khác cần thông tin trung thực không chỉ trên các bảng khai tài chính mà còn thông tin cụ thể về tài chính, về hiệu quả và hiệu năng của mỗi bộ phận để có những quyết định trong mọi giai đoạn quản lý, thông qua những nhận xét của kiểm toán viên sẽ giúp cho các chủ doanh nghiệp kịp thời phát hiện ra những sai sót, lãng phí hay vi phạm pháp luật do cố tính hay cố ý, để xử lý kịp thời hoặc ngăn ngừa các tổn thất. Điều đó giúp doanh nghiệp hạn chế được nhiều rủi ro hoặc phát hiện ra những thế mạnh, những tiềm năng tài chính nội tại đang có trong doanh nghiệp mà chỉ có kiểm toán viên với bề dầy kinh nghiệm thực tế mới có thể phát hiện ra được.
Trong kinh tế thị trường người lao động có quyền lựa chọn nơi làm việc ổn định và có mức thu nhập cao.
Báo cáo tài chính của một doanh nghiệp làm ăn có lãi được kiểm toán viên xác nhận sẽ có sức hấp dẫn người lao động lành nghề, chất lượng.
Tất cả những người quan tâm này không cần hoặc không thể biết tất cả các nghiệp vụ của "nghề" tài chính kế toán nhưng cần biết thực trạng của hoạt động này. Chỉ có kiểm toán mới đen lại cho họ niềm tin vào những xác minh độc lập và khách quan. Có thể nói việc tạo ra niềm tin cho những người quan tâm là yếu tố quyết định sự ra đời và phát triển của kiểm toán với tư cách là một hoạt động độc lập
Thứ hai: kiểm toán góp phần hướng dẫn nghiệp vụ có nền nếp hoạt động tài chính kế toán nói riêng và hoạt động của đơn vị kiểm toán nó chung. Hoạt động tài chính bao gồm nhiều mối quan hệ về đầu tư, về kinh doanh, về phân phối, về thanh toán. Tính phức tạp của hoạt động này càng tăng lên bởi quan hệ chặt chẽ giữa các quan hệ tài chính với lợi ích của con người. Trong khi đó thông tin kế toán là sự phản ánh của hoạt động tài chính. Ngoài vật chứa đựng những phức tạp của quan hệ tài chính, thông tin kế toán còn là sản phẩm của quá trình xử lý thông tin bằng phương pháp kỹ thuật rất đặc biệt. Do đó nhu cầu hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nền nếp trong quản lý tài chính càng đòi hỏi thường xuyên và cao hơn.
Thứ ba: là kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý. Kiểm toán không chỉ có chức năng xác minmh mà còn có chức năng tư vấn.
Trong điều kiện chuyển đổi của nền kinh tế xuất hiện nhiều quan hệ mới phức tạp mà hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh, kinh nghiệm và chuyên gia giỏi về quản lý chưa có nhiều. Do đó duy trì ky cương và bảo đảm phát triển đúng hướng chỉ có thể có được trên cơ sở xây dựng đồn bộ và tổ chức thực hiện tốt kiểm toán trên mọi lĩnh vực để trên cơ sở tích luỹ kinh nghiệm từ xác minh đi đến tư vấn cho mọi lĩnh vực hoạt động
4. Đội ngũ kiểm toán viên độc lập ở Việt nam:
Đội ngũ nhân viên hoạt động trong các công ty kiểm toán độclập ở Việt nam.
Do kiểm toán là một lĩnh vực còn mới mẻ đối với nước ta nên khi hoạt động không tránh khỏi những bất cập và khó khăn. Tuy nhiên kiểm toán nói riêng và kiểm toán độc lập nói chung đã có được những bước tiến đáng kể.
Để có thể tiếp nhận một cách đầy đủ và có hệ thống quy trình kiểm toán tiên tiến của quốc tế Nhà nước đã cho phép thành lập công ty liên doanh để tận dụng tối đa những trợ giúp của các nước có nền kiểm toán phát triển về chuyển giao công nghệ kiểm toán và đào tạo nhân viên về cả kĩ thuật kiểm toán và quản lý quốc tế.
Hiện nay chưa có số liệu thống kê chính thức số lao động và cơ cấu lao động trong các công ty kiểm toán độc lập. Theo tạp chí kế toán số 26 tháng 10/2000 số lao động ước tính khoảng 1.500 lao động, trong đó có khoảng 300 kiểm toán viên cấp quốc tế. Nhìn chung, đội ngũ kiểm toán viên độc lập ở Việt nam còn nhiều hạn chế do đó chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường. Nhận thức được điều này các công ty kiểm toán đã bắt đầu coi trọng chiến lược đào tạo nhân viên. Thông qua nhiều hình thức đào tạo như trong nước, ngoài nước trong công ty, ngoài công ty, thuê giảng viên, thảo luận theo nhóm...chất lượng nhân viên sẽ càng được nâng cao. Trong đó phải kể đến chương trình “Quốc tế hoá đội ngũ nhân viên” mà biện pháp chủ yếu là tăng cường các khoá đào tạo nhân viên thông qua các khoá đào tạo về kĩ thuật nghiệp vụ và kĩ năng quản lý. Cùng với việc cử nhân viên ra nước ngoài để tiếp thu kiến thức tiên tiến của quốc tế, các công ty kiểm toán đã xây dựng và thực hiện các khoá đào tạo nghiệp vụ quản lý ngang tại công ty.
Không chỉ đơn thuần là những đơn vị kinh doanh mà các công ty kiểm toán còn tích cực tham gia đóng góp vaò sự phát triển chung của ngành kiểm toán đó là những ý kiến thiết thực tại các cuộc hội thảo, nghiên cứu và soạn thảo chế độ kế toán doanh nghiệp, các chuẩn mực kế toán và kiểm toán ở Việt nam, đóng góp ý kiến với Bộ tài chính trong việc sửa đổi, bổ sung các thông tư hướng dẫn về kế toán tài chính, đầu tư nước ngoài.
5. Nhu cầu về dịch vụ kiểm toán.
Một khi báo cáo tài chính của doanh nghiệp được kiểm toán viên độc lập kiểm tra và xác nhận là "trung thực và hợp lý" sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Xuất phát từ vai trò rất quan trọng của kiểm toán trong quá trình kinh doanh phần lớn cảu doanh nghiệp đã tự nguyện kiểm toán khi:
- Doanh nghiệp muốn làm ăn chính đáng, luôn đòi hỏi sự chính xác. trung thực, khách quan của số liệu.
- Khi sát nhập hoặc chia tách doanh nghiệp.
- Khi xảy ra các sự cố, rủi ro lớn về kinh tế.
- Khi có sự tranh chấp trong nội bộ hoặc giữa các doanh nghiệp.
- Khi thay đổi người lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp.
- Khi thành lập mới xi nghiệp liên doanh với cá nhân hoặc tổ chức trong ngoài nước.
Bên cạnh sự tự nguyện của các doanh nghiệp còn có sự bắt buộc phải kiểm toán theo pháp luật.
ở Việt nam ngay sau khi có tổ chức kiểm toán độc lập cũng quy định " báo cáo tài chính của các Công ty nước ngoài và Công ty liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài phải được kiểm toán độc lập" (Công văn số 1248 TC/CĐKT ngày 10/9/1991 của Bộ tài chính).
Luật đầu tư nước ngoài ở Việt nam và Nghị định 18/CP của Chính phủ cũng đã quy định rằng. Báo cáo tài chính hàng năm của các xi nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải được một tổ chức kiểm toán độc lập hợp pháp ở Việt nam kiểm tra, xác nhận trước khi nộp cho cơ quan thuế.
Theo yêu cầu của một tổ chức nào đó như: Hội đồng quản trị của thị trường chứng khoán yêu cầu người tham gia phát hành cổ phiếu hoặc ngân hàng yêu cầu người cho vay tiền phải được kiểm toán báo cáo tài chính.
Doanh nghiệp nhà nước khi thực hiện cổ phần hoá cũng phải kiểm toán báo cáo tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp.
Phù hợp với sự phát triển của các tổ chức kiểm toán độc lập và yêu cầu quản lý nhà nước sẽ từng bước mở rộng diện các đối tượng phải được kiểm toán độc lập luôn làm cơ sở cho việc điều hành của nhà nước.
III. Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính của KTNN Việt nam
Tóm lại trong một nền kinh tế đang chuyển đổi, tuy còn nhiều vấn đề là những cản ngại cho quá trình phát triển thị trường kiểm toán nhưng đồng thời nó cũng mở ra nhiều cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp nói chung và công ty kiểm toán độc nói riêng. Đó là mảnh đất màu mỡ đang chờ đợi các công ty kiểm toán độc lập lựa chọn giống tốt để gặt hái thành công.
Trong phạm vi đề án này, tôi xin đưa ra một vài ý kiến nhận xét về tình hình thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính của các doanh nghiệp tại Công ty Kiểm toán độc lập cùng một số đề xuất nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty.
1. Những vần đè tồn tại.
a. Khung pháp lý.
Mặc dù hiện nay, Việt nam đã có quy chế về Kiểm toán độc lập, nó vẫn chưa xây dựng xong các chuẩn mực kế toán - kiểm toán tiến gần đến chuẩn mực quốc tế vì thế nhiều công ty kiểm toán độc lập phải vận dụng các chuẩn mực kế toán và kiểm toán quốc tế dù rằng biết rõ có nhiều điểm không phù hợp với khung cảnh nền kinh tế Việt nam đang trong giai đoạn chuyển đổi. Từ đó dẫn đến những hệ quả khác nhau chẳng hạn như:
Việc đánh giá chất lượng của một báo cáo kiểm toán còn thiếu căn cứ chung để làm thước đo.
Hoạt động có tranh chấp nổ ra, chúng ta cũng chưa có đến cơ sở giải quyết các vấn đề thuộc trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên.
Cũng chính vì thiếu một hệ thống chuẩn mực này cho nên quan điểm của các kiểm toán viên so với quan điểm của cơ quan thuế vụ vẫn còn nhiều khoảng cách. Điều này khiến cho nhiều doanh nghiệp có vốn nước ngoài ngạc nhiên vì sao các báo cáo kết quả kiểm toán ít được cơ quan thuế thừa nhận dẫn đến sự nghi ngờ về chất lượng kiểm toán.
- Một khía cạnh khác cũng cần lưu ý đó là tư cách pháp lý của các công ty kiểm toán độc lập.
Có nhiều công ty kiểm toán độc lập Việt nam thuộc loại hình doanh nghiệp, có cơ quan chủ quản là bộ tài chính đã khiến cho rất nhiều người băn khoăn, nghi ngờ về tính độc lập của những công ty này.
Đến nay, theo các đạo luật về loại hình doanh nghiệp Việt nam thì hầu hết các công ty kiểm toán độc lập ở Việt nam đều thuộc loại công ty trách nhiệm hữu hạn. Kể cả các công ty kiểm toán độc lập ở nước ngoài đang thuộc loại công ty hợp danh, chịu trách nhiệm vô hạn nhưng khi vào Việt nam, theo luật đầu tư nước ngoài lại được thành lập doanh nghiệp theo loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn. Điều này nếu cứ tiếp tục sẽ khiến cho những người sử dụng báo cáo kết quả kiểm toán nghi ngờ về khả năng bồi thường của công ty khi có sự cố xảy ra.
Việc cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm ăn tại Việt nam đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên nói riêng trong lĩnh vực kế toán - Kiểm toán còn có nhiều bất cập nảy sinh:
Quy định các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải thực hiện chế độ kế toán hiện hành của Việt nam, nếu có nhu cầu thực hiện chế độ kế toán khác phải được bộ tài chính chấp nhận bằng văn bản. Như vậy khó cho các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và các đơn vị hợp tác kinh doanh vì nếu áp dụng chế độ kế toán Việt nam sẽ gặp bất cập so với chế độ kế toán tại nước ngoài yêu cầu. Tính đặc thù ở các tài khoản, các báo cáo định kỳ, chứng từ gốc trong khi pháp lệnh kế toán thống kế đang có hiệu lực, không cho phép tồn tại hai hệ thống kế toán khó đánh giá hiệu quả kinh doanh.
Từ đó đặt ra vấn đề là mức độ áp dụng pháp lí của các báo cáo tài chính đã được kiểm toán.
Hiện nay các tiêu chuẩn của kiểm toán đang thu hút được nhiều nhà quản lí. ở Việt nam bên cạnh những công ty kiểm toán độc lập trong nước bộ tài chính đã cho phép một số công ty kiểm toán nước ngoài hoạt động nhưng vì có những bất cập về kế toán và kiểm toán nên báo cáo tài chính của nhiều doanh nghiệp có vốn nước ngoài và liên doanh được công ty kiểm toán nước ngoài không được bộ tài chính Việt nam thừa nhận đối phó với tình hình một số doanh nghiệp đã mời hai công ty kiểm toán một của Việt nam một của nước ngoài hai công ty này kiểm toán và xác nhận báo cáo tài chính, tuy nhiên đó không
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100094.doc