Bài viết trình bày những khía cạnh liên quan đến hoạt động đào tạo kế toán, trong bối
cảnh áp dụng chuẩn mực lập báo cáo tài chính quốc tế (IFRS), thông qua phân tích
những điểm cơ bản của kế toán, dựa trên nguyên tắc – nền tảng của IFRS. Đồng thời, chỉ
rõ những điểm khác nhau giữa kế toán dựa trên nguyên tắc và kế toán dựa trên quy tắc,
cũng như hàm ý của hai cách tiếp cận kế toán này trong đào tạo kế toán nói chung và
giảng dạy IFRS nói riêng. Từ đó, liên hệ với hoạt động giảng dạy IFRS tại Việt Nam.
6 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 24/05/2022 | Lượt xem: 290 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đào tạo kế toán đáp ứng nhu cầu thực hiện IFRS, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam
257
ĐÀO TẠO KẾ TOÁN ĐÁP ỨNG NHU CẦU THỰC HIỆN IFRS
#Trần Thị Thu Trâm
Phân hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
Bài viết trình bày những khía cạnh liên quan đến hoạt động đào tạo kế toán, trong bối
cảnh áp dụng chuẩn mực lập báo cáo tài chính quốc tế (IFRS), thông qua phân tích
những điểm cơ bản của kế toán, dựa trên nguyên tắc – nền tảng của IFRS. Đồng thời, chỉ
rõ những điểm khác nhau giữa kế toán dựa trên nguyên tắc và kế toán dựa trên quy tắc,
cũng như hàm ý của hai cách tiếp cận kế toán này trong đào tạo kế toán nói chung và
giảng dạy IFRS nói riêng. Từ đó, liên hệ với hoạt động giảng dạy IFRS tại Việt Nam.
Đặt vấn đề
IFRS hiện đang áp dụng toàn bộ hoặc gần như toàn bộ tại hơn 100 quốc gia trên toàn
thế giới, trong đó có các nước ở khu vực Đông Nam Á. Tại Việt Nam, khi nền kinh tế đang
bước vào giai đoạn hội nhập mạnh mẽ trong cả phạm vi khu vực và quốc tế, IFRS càng trở
thành đề tài nóng và thu hút nhiều hơn sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách, các
chuyên gia trong nước cũng như cộng đồng doanh nghiệp (DN), đặc biệt là các DN niêm yết
trên sàn chứng khoán – những DN đầu tiên được yêu cầu tiên phong áp dụng IFRS. Điều này
cũng đồng thời tác động đến hoạt động đào tạo kế toán tại các nước áp dụng bộ chuẩn mực
này. Một điểm đáng chú ý đối với IFRS đó là các chuẩn mực này được xây dựng trên nền
tảng kế toán nguyên tắc. Trong khi đó, kế toán Việt Nam cũng như một số quốc gia khác lại
đang vận hành dựa trên các quy tắc. Do đó, đối với hoạt động đào tạo cũng như những người
hành nghề kế toán, thấu hiểu được kế toán dựa trên nguyên tắc là điều kiện quan trọng để thực
hiện IFRS.
Kế toán dựa trên quy tắc và kế toán dựa trên nguyên tắc.
Kế toán dựa trên quy tắc (rules-based accounting) về cơ bản dựa trên các quy tắc cụ
thể được tuân thủ khi lập báo cáo tài chính (BCTC). Nhiều kế toán viên thích sử dụng chuẩn
mực dựa trên quy tắc vì nếu thiếu vắng các quy tắc này, họ sẽ gặp nhiều khó khăn trong kiện
tụng nếu phán xét hay đánh giá của họ về BCTC là không chính xác. Khi có những quy tắc
chặt chẽ được tuân thủ, khả năng xảy ra các tranh chấp là rất thấp. Sự tồn tại của bộ quy tắc
giúp gia tăng độ chính xác và giảm đi sự mơ hồ khi thực hiện quyết định báo cáo.
Hệ thống chuẩn mực kế toán (CMKT) dựa trên quy tắc, đưa ra các giải pháp cụ thể
cho hầu hết các tình huống kế toán, trong đó cho biết khi nào các tình huống được vận dụng
và vận dụng như thế nào. Lợi ích chủ yếu của CMKT dựa trên quy tắc đó là tăng cường tính
có thể so sánh được các thông tin tài chính, hỗ trợ kiểm toán viên xác minh, kiểm tra các TK.
Tuy nhiên, vì tính nghiêm ngặt, chặt chẽ của nó mà kế toán viên hoặc kiểm toán viên lại gặp
nhiều hạn chế trong đưa ra nhận định, đánh giá.
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam
258
Ngược lại, kế toán dựa trên nguyên tắc(principles-based-accounting) được sử dụng
như là một cơ sở khái niệm cho kế toán viên. Đặc điểm phổ biến nhất và quan trọng nhất của
IFRS, đó là IFRS được thiết kế dựa trên các nguyên tắc. Một tập hợp các mục tiêu cơ bản
được thiết lập để đảm bảo cho lập BCTC. Thuận lợi cơ bản của kế toán dựa trên nguyên tắc
đó là sự hướng dẫn đa dạng của nó có thể được áp dụng cho nhiều tình huống khác nhau. Tuy
nhiên, vấn đề tồn tại trong các hướng dẫn dựa trên nguyên tắc đó là sự thiếu hụt các hướng
dẫn có thể tạo ra các thông tin không phù hợp và không đáng tin cậy, điều này gây nên khó
khăn trong đánh giá thông tin giữa các tổ chức với nhau. Khi xem xét phương pháp kế toán
nào là tốt nhất, chắc chắn phải luôn đảm bảo thông tin trên BCTC là phù hợp, đáng tin cậy và
có thể so sánh được giữa các thời kỳ và giữa các đơn vị kế toán.
Hệ thống CMKT dựa trên nguyên tắc có nền tảng bao quát và linh hoạt, hỗ trợ người
hành nghề đưa ra nhận định, đánh giá và giải quyết tình huống. Nhưng có ý kiến cho rằng,
chính sự linh hoạt này có thể được dùng để bóp méo thông tin kế toán thông qua kỹ thuật điều
chỉnh lợi nhuận.
Nguyên tắc và quy tắc trong đào tạo kế toán
Mặc dù sự phân biệt kế toán dựa trên quy tắc và kế toán dựa trên nguyên tắc không
mang nhiều ý nghĩa trong quy định kế toán, nhưng trái lại nó mang tầm quan trọng đáng kể
trong đào tạo kế toán. Những nước theo kế toán “Quy tắc” đối mặt với rủi ro rằng hệ thống
giáo dục nhấn mạnh vào kỹ thuật ghi sổ kế toán và học vẹt các quy tắc mang tính chất tạm
thời(Carmona, S. & Trombetta, M, 2010).Bài tập được thiết kế theo hướng lựa chọn phương
án “đúng” và “sai” và chỉ có một đáp án đúng cho một nghiệp vụ kinh tế cụ thể. (Sunder,
2010) cũng đã chỉ ra ảnh hưởng của sự gia tăng các quy tắc đến đào tạo kế toán. Một khi
phạm vi các CMKT được mở rộng, bài giảng được thiết kế theo hướng để sinh viên ghi nhớ
một cách máy móc các quy tắc và dễ dàng truy xuất trong quá trình làm bài kiểm tra. Bên
cạnh đó, giáo viên muốn phát triển năng lực phân tích của người học sẽ gặp nhiều áp lực, để
chuyển tải hết các chuẩn mực được mở rộng đó. Với lượng thời gian đã được quy định trước
cho từng môn học, những quy tắc được viết ra rõ ràng sẽ được ưu tiên xem xét hơn so với các
quy tắc không được viết ra và so với việc phát triển các đánh giá chủ quan.
Giảng dạy một bộ các quy tắc chi tiết, giúp giảng viên và người học cảm thấy an tâm
nhưng cũng đưa đến một số trở ngại, chẳng hạn như, những cá nhân xuất sắc sẽ không bị lôi
cuốn bởi sự khuôn mẫu, cứng nhắc củanghề kế toán ((Barth, 2008); (Sunder, 2010)). Đào tạo
kế toán theo hướng xem trọng “Học vẹt” hơn là am hiểu, gây ra tình trạng “Tê liệt” trong việc
ra quyết định khi sinh viên hay người hành nghề xem xét tình huống không dựa trên quy tắc
mà họ đã được học hoặc khi các quy tắc còn mơ hồ.
Khi hệ thống kế toán chuyển từ “Nền tảng quy tắc” sang “Nền tảng nguyên tắc” mở ra
cơ hội để người dạy đánh giá lại mô hình được sử dụng để thiết kế và giới thiệu chương trình
giảng dạy (CTGD) kế toán. Tập trung vào “Nguyên tắc” sẽ định hướng sự chú ý của người
dạy và người học vào tìm hiểu các khái niệm của BCTC và phát triển các kỹ năng thực hành
đánh giá nghề nghiệp, cho phép sinh viên vận dụng các khái niệm này để giải quyết các vấn
đề thực tế: (Barth, 2008), (Carmona, S. & Trombetta, M, 2010), (Wells, 2011). Hiểu các
nguyên tắc cơ bản lập BCTC và cách mà chúng được vận dụng, cho phép sinh viên đạt được
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam
259
kiến thức và kỹ năng quan trọng và các kiến thức, kỹ năng này sẽ được vận dụng phù hợp khi
các chuẩn mức kế toán và nghiệp vụ kinh tế thay đổi qua thời gian (Barth, 2008) (Carmona, S.
& Trombetta, M, 2010) (Sunder, 2010).
Bên cạnh đó, giảng dạy kế toán cần gắn với các bối cảnh của các lý thuyết cơ bản,
chẳng hạn như kinh tế học, khái niệm và kỹ thuật đinh giá, và quản trị kinh doanh. Ví dụ,
muốn ghi chép nghiệp vụ về sản phẩm tài chính thì cần hiểu các đặc điểm, bản chất của sản
phẩm tài chính đó, hoặc muốn phản ánh nghiệp vụ hợp tác kinh doanh thì kế toán cần nắm
được chiến lược hoặc mục đích của hoạt động hợp tác đó của DN.
Tóm lại, vận dụng IFRS với các chuẩn mực dựa trên nguyên tắc mở ra các cơ hội cho
đào tạo kế toán để xem xét lại mô hình giảng dạy, rằng sinh viên đang được đào tạo theo các
khái niệm hay các quy tắc?
Đào tạo kế toán khi vận dụng IFRS sẽ không như nhau ở các nước có xuất phát điểm
khác nhau. Ở các nước mà IFRS là bắt buộc, đơn vị đào tạo kế toán được mong đợi thiết kế
CTGD lập BCTC xoay quanh IFRS. Chi phí của việc này phụ thuộc vào mức độ “Phân kỳ”
giữa chuẩn mực hoặc chế độ kế toán quốc gia với IFRS và thời gian quy định chuyển tiếp từ
GAAP quốc gia và IFRS. Từ đó, giúp người dạy có thêm thời gian để tìm hiểu sự khác nhau,
thay đổi, sau đó sẽ điểu chỉnh tài liệu giảng dạy. Nếu người dạy nhận định rằng sự “Phân kỳ”
này là không nhiều thì cơ hội thay đổi phương pháp giảng dạy sẽ rất khó xảy ra. Nhiều giảng
viên vẫn tiếp tục với cách tiếp cận dựa trên quy tắc để giảng dạy các CMKT, trong đó tập
trung vào việc ghi sổ, nhất là ởgiai đoạn giới thiệu ban đầu.
Một thất bại nữa trong thay đổi phương pháp giảng dạy là do tính chất của các khóa
học về kế toán trong năm học đại cương tại các trường đại học. Theo đó, giảng viên thường
xây dựng bài giảng cho cả ngành chuyên và không chuyên kế toán, nên không thấy được nhu
cầu giảng dạy theo IFRS. Thêm vào đó, các giáo trình kế toán đang được sử dụng, trong đó có
các giáo trình của Mỹ, lại tập trung nhấn mạnh vào cách tiếp cận dựa trên quy tắc.
Tại một số nước chuyển tiếp qua IFRS hoặc đang cân nhắc quá trình này, đang tồn tại
nhiều quan điểm khác nhau về việc nên hay không đưa các nội dung về IFRS vào CTGD, điển
hình là Mỹ. Tại đây, Ủy ban chứng khoán và sàn giao dịch Mỹ (SEC) cho phép các công ty
nước ngoài nộp BCTC theo IFRS mà không cần phải cung cấp bản hòa hợp với GAAP Mỹ,
nhưng vẫn chưa quyết định rằng các công ty Mỹ có được lập BCTC theo IFRS cho mục đích
giao dịch trong nước hay không? Vấn đề này dẫn đến sự không chắc chắc trong một bộ phận
các đơn vị đào tạo tại Mỹ về việc giảng dạy IFRS. Vì vậy, các quốc gia đang đối mặt với tình
trạng trên như Mỹ cần xem xét các vấn đề sau đây: (i) Sự tồn tại song song giữa các hệ thống
CMKT, sự khác biệt giữa chúng cần được chỉ rõ trong CTGD, (ii) Sự “Hóa già” trong đội ngũ
giảng dạy dẫn đến một số ít sẽ xem xét lại hoạt động giảng dạy và một vấn đề nữa là “Tre già
khó uốn”, (iii) Các đơn vị đào tạo không được trang bị hợp lý, để tạo ra sự thay đổi cần thiết
cho chương trình đào tạo vì các bộ phận và người quản lý tại đây không hiểu được ảnh hưởng
tiềm năng của ứng dụng IFRS. Từ quan điểm tích cực, các công ty Big 4 tại Mỹ lại tạo động
lực cho các đơn vị đào tạo để đưa IFRS vào nội dung giảng dạy bằng cách, một là đưa tài liệu
giảng dạy lên website của họ, hai là thực hiện chính sách tuyển dụng ưu tiên đối với các ứng
viên có quan điểm toàn cầu (có hiểu biết về IFRS).
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam
260
Hàm ý của IFRS đối với giảng dạy kế toán trong tương lai
Số lượng các quốc gia vận dụng IFRS ngày một gia tăng. Điều này đồng nghĩa với
việc, cần xem lại vai trò của người hành nghề kế toán trong hình thành một tập hợp các kỹ
năng nghề nghiệp bao gồm kỹ năng chuyên môn, kỹ năng giao tiếp và tương tác, kỹ năng
quản trị kinh doanh và đánh giá nghề nghiệp. Kết quả là, những người dạy kế toán cần chuyển
đổi sự tập trung của họ từ việc chuyển tải kiến thức sang phát triển các kỹ năng và nguyên tắc
phù hợp hơn cho thực tế kinh doanh và kế toán. Do vậy, người dạy cần áp dụng phương pháp
giảng dạy dựa trên nguyên tắc, nền tảng chính của IFRS. Theo đó, cần thay đổi CTGD theo
hướng phát triển kỹ năng sâu rộng, là phương tiện phát triển đánh giá nghề nghiệp – yếu tố
được xem là tiêu chí nghề nghiệp. Khi có bất cứ sự mập mờ nào thì đánh giá là kỹ năng nghề
nghiệp cần phải có. Khi tập trung vào thực hành đánh giá nghề nghiệp, cách tiếp cận dựa theo
nguyên tắc trong đào tạo kế toán mở ra cơ hội cho phép sinh viên có thể học tập cách đối đầu
với sự không rõ ràng, hiểu tại sao có nhiều hơn một phương án giải quyết cho một câu hỏi kế
toán, phát triển khả năng sáng tạo và biện hộ cho quyết định của họ về chính sách kế toán.
Việc nhấn mạnh giảng dạy dựa vào các khái niệm cơ bản, thay vì quy tắc tạo ra tiềm năng giải
phóng các năng lực khan hiếm, vì người dạy cung cấp cho người học khả năng tự khám phá
giải pháp mà không cần phải học từng quy tắc.
Một thách thức lớn cho đào tạo kế toán toàn cầu đó là, đảm bảo người dạy được trang
bị phù hợp để dạy IFRS theo cách tiếp cận dựa vào nguyên tắc. Để sửa lại CTGD, (Wells,
2011) đã luận giải việc dạy dựa vào khuôn mẫu (Framework-based teaching) trong mối quan
hệ với các khái niệm trong khung khái niệm của IASB cho từng yêu cầu IFRS cụ thể. Bởi vì,
giảng dạy dựa trên khuôn mẫu đã ăn sâu vào các khái niệm làm nền tảng cho IFRS, việc giảng
dạy như thế này đặt nền tảng cố kết và vững chắc để có thể am hiểu, nắm bắt các yêu cầu của
IFRS. Vì khung khái niệm thiết lập các khái niệm làm nền tảng cho ước tính, đánh giá và mô
hình hóa khi IFRS được vận dụng để lập BCTC. Giảng dạy dựa trên khung khái niệm giúp
phát huy khả năng của sinh viên để thực hành năng lực đánh giá, điều mà rất cần thiết để ứng
dụng IFRS bằng cách liên kết các khái niệm này với các yêu cầu của IFRS được giảng dạy.
Thêm vào đó, đào kế toán cần thực hiện hai việc: (i) Biên soạn chương trình giảng dạy
IFRS trên nền tảng khung mẫu; (ii) Sử dụng nhiều tài liệu để giảng dạy IFRS. Để làm được
việc này, (Coetzee và Schmulian, 2012) chỉ ra rằng, giáo viên cần thực hiện một số phương
pháp giảng dạy đổi mới như mô phỏng và đóng vai, học tập dựa trên vấn đề, phân tích tình
huống với nhiều phương án khác nhau và thuyết trình. Ngoài ra, chuyển đổi từ đào tạo tập
trung vào người dạy sang tập trung vào người học, giúp sinh viên chịu trách nhiệm nhiều hơn
trong các tình huống học tập của mình. Tuy nhiên, cơ hội truy cập tài liệu để hỗ trợ và phát
triển dạy IFRS bị hạn chế ở các nền kinh tế mới nổi và ở các nước mà việc dịch thuật tài liệu
còn hạn chế. Thách thức này cũng tồn tại ở các nước phát triển liên quan đến việc đào tạo lại
người dạy về phương pháp giảng dạy dựa trên nguyên tắc theo IFRS, cụ thể là ở nơi mà cách
tiếp cận dựa trên quy tắc đã được thực hiện lâu dài.
Bên cạnh đó, đào tạo kế toán cũng gặp nhiều khó khăn để đáp ứng mục tiêu của IASB
trong việc phát triển các “Chuẩn mực BCTC chất lượng cao, có thể hiểu được, có thể thi hành
được và được thừa nhận chung cho toàn cầu”. Dịch thuật và các vấn đề về thể chế như chính
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam
261
trị, văn hóa, rào cản pháp luật đã vạch ra những cản trở trong giảng dạy kế toán khi một bộ
CMKT chung được chấp nhận thực hiện. Người dạy kế toán cần nhận thấy các khác biệt này
trong việc dạy các chuẩn mực lập BCTC, điều chỉnh việc dạy để các khác biệt chính yếu này,
nếu có thể, sẽ được xác định trong phân tích và ứng dụng IFRS.
Sự thiếu hụt các nghiên cứu về đào tạo kế toán gắn với vận dụng IFRS càng củng cố
cho quan điểm rằng, các đơn vị đào tạo chưa thực sự quan tâm đến sự cần thiết của các chuẩn
mực dựa trên nguyên tắc. Nói cách khác, sự vận dụng IFRS chưa tạo ra sự thay đổi trong quá
trình, lộ trình giảng dạy kế toán ngày nay (Jackling và Natoli, 2013). Đào tạo kế toán trong
tương lai cần được đảm bảo nhắm đến các cách tiếp cận trong dạy IFRS, đánh giá nguồn lực
trong giảng dạy IFRS và đánh giá việc gia tăng những người tốt nghiệp sử dụng cách tiếp cận
dựa trên nguyên tắc đã được học. Tác động của sự khác biệt về văn hóa, chính trị và luật pháp
đến giảng dạy IFRS cũng cần được nghiên cứu bởi các chuyên gia hoặc các đơn vị ban hành
quy định.
Một bước rất quan trọng đối với đào tạo kế toán và chuẩn bị hành nghề trong tương lai
đó là các đơn vị đào tạo tiến hành rà soát và sửa đổi CTGD, thông qua việc sử dụng các tài
liệu giảng dạy của IFRS và tham gia các hoạt động phát triển nghề nghiệp được liên kết với
cách tiếp cận trong giảng dạy. Bên cạnh đó, cần sự hỗ trợ tương tác của đơn vị thiết lập chuẩn
mực và đơn vị tuyển dụng trong giúp đỡ các kế toán viên tiềm năng, để họ ý thức được thách
thức mà họ sẽ đối mặt trong phân tích và ứng dụng IFRS như là kết quả của sự khác biệt về
văn hóa và ngôn ngữ khi mà hai vấn đề này ảnh hưởng đến tính so sánh được của IFRS giữa
các quốc gia, trong điều kiện như nhau của các yếu tố còn lại. Một bộ phận các chuyên gia
hành nghề kế toán đóng vai trò quan trọng, trong cải thiện chất lượng giảng dạy IFRS. Đó là
việc sử dụng tình huống gắn với đánh giá trong các đợt tuyển dụng, cho phép kiểm tra năng
lực đánh giá các yêu cầu hiện hành của IFRS.
Tóm lại, cần củng cố cam kết với cách tiếp cận dựa trên nguyên tắc đối với IFRS, ưu
tiên sử dụng tài liệu giảng dạy và nghiên cứu kế toán gắn với IFRS để nâng cao chất lượng
giảng dạy IFRS.
Liên hệ đào tạo kế toán theo IFRS tại Việt Nam
Trong quyết định về việc phê duyệt Chiến lược Kế toán – Kiểm toán đến năm 2010,
tầm nhìn 2030, do Thủ tướng Chính phủ ban hành vào ngày 18/3/2013, đã đưa ra các giải
pháp thực hiện chiến lược này. Một trong số đó là “Xây dựng, ban hành CMKT và Kiểm toán
của Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện của Việt Nam”. Đối với lĩnh vực kế
toán, cần cập nhật và xây dựng mới các CMKT DN. Trong đó, giai đoạn 2016- 2020, xây
dựng và ban hành đầy đủ các CMKT còn lại, ngoài 26 chuẩn mực hiện có. Từ đó, phải thừa
nhận rằng, khuôn khổ pháp lý về kế toán của nước ta đang còn thiếu hụt, dẫn đến đào tạo kế
toán theo IFRS sẽ rất khó có cơ hội thực hiện. Bên cạnh đó, Chiến lược cũng đưa ra giải pháp
để phát triển nguồn nhân lực kế toán. Đó là, nâng cao chất lượng nhân viên, chất lượng dịch
vụ thông qua đẩy mạnh tổ chức đào tạo, cập nhật kiến thức theo các hình thức phù hợp trên cơ
sở tiếp thu thông lệ quốc tế, điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tuy nhiên, để có thể thực hiện
được việc này, nhân lực kế toán Việt Nam cần được đào tạo phù hợp về tiếng Anh – ngôn ngữ
chính của IFRS. Bên cạnh đó, các đơn vị ban hành chính sách cần hoàn thiện các yếu tố về thể
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam
262
chế, để giảm bớt rào cản khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập kế toán
nói riêng.
------------------------
Tài liệu tham khảo
Barth, M. E., 2008. Global financial reporting: Implications for U.S Academics. The Accounting Review, 83 (5),
1159-1179.
Carmona, S. & Trombetta, M, 2010. The IASB and FASB convergence process and the need for "concep-based"
accounting teaching. Advances in Accounting, 26, 1-5.
Coetzee, S.A. and Schmulian, A, 2012. A critical analysis of the pedagogical approach employed in an
introductory course to IFRS. Issues in Accounting Education, 27 (1), 83-100.
Jackling, B., de Lange, P. and Natoli, R, 2013. Transitioning to IFRS in Australian classrooms: Impact on
teaching approaches. Issues in Accounting Education, 28 (2), 263-275.
Quyết định 480/QĐ-TTg ngày 18/03/2013 của Thủ tướng Chính phủ.
Schipper, K., 2003. Principles-based accounting standards. Accounting Horizons, 17 (1), 61-72.
Sunder, S., 2010. Adverse effects of uniform written reporting on accounting practice, education, and research.
Journal of Accounting and Public Policy, 29 (2), 99-114.
Wells, M., 2011. Framework-based approach to teaching principle-based accounting Standards. Accounting
Education: An International Journal, 20 (4), 303–316.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dao_tao_ke_toan_dap_ung_nhu_cau_thuc_hien_ifrs.pdf