Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Thần Kinh  483
ĐÁNH GIÁ NGUY CƠ NHỒI MÁU NÃO TÁI PHÁT  
BẰNG THANG ĐIỂM ESSEN 
 Cao Phi Phong*, Nguyễn Hồng Vũ** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Nhồi máu não tái phát sớm có tiên lượng xấu hơn vì thời gian nằm viện kéo dài, mức độ tàn phế 
và tử vong do thần kinh cao hơn. Thang điểm Essen được chứng minh có giá trị phân tầng nguy cơ và dự báo 
NMN tái phát. 
Mục tiêu: Xác định giá trị của thang điểm Essen trong phân tầng và tiên lượng nhồi máu não tái phát. 
Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu. Bệnh nhân nhồi máu não được tính điểm theo thang điểm 
Essen, và được theo dõi nhồi máu não tái phát sau 3 tháng. Các biến số thu thập được xử lý bằng phần mềm 
thống kê SPSS 16.0. 
Kết quả: Tổng số 136 bệnh nhân, tuổi trung bình 67,74 ± 11,86; Nam giới chiếm 58,1%. Tỷ lệ bệnh nhân 
nhồi máu não tái phát sau 1 tháng, 3 tháng lần lượt là 4 (2,9%), 18 (13,2%). Bệnh nhân có điểm Essen ≥3, có 
nguy cơ hồi máu não  tái phát gấp 4,01  lần so với bệnh nhân có  điểm Essen <3. Diện  tích dưới  đường cong 
(AUC) là 0,67 
Kết luận: Thang Essen là công cụ hữu ích để phân tầng những bệnh nhân có nguy cơ cao nhồi máu não tái 
phát; mặc dù giá trị tiên lượng chỉ ở mức trung bình khá, nhưng Thang điểm Essen có ưu diểm là đơn giản, dễ 
sử dụng trong thực hành lâm sàng hằng ngày. 
Từ khóa: Thang điểm Essen, nhồi máu não tái phát. 
ABSTRACT 
THE RECURRENT ISCHEMIC STROKE PREDICTION BY ESSEN SCALE 
 Cao Phi Phong, Nguyen Hong Vu  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 483 ‐ 487 
Background: Recurrent ischemic stroke patients are associated with severe consequences including longer 
duration of hospital and  increased neurologic disability and death. The Essen  scale has been validated  in  risk 
stratification and prediction of recurrent ischemic stroke. 
Objective: We  aimed  to  validate  the  usefulness  of  the Essen  scale  to  stratify  and  predict  recurrent 
ischemic stroke. 
Methods: We use prospective cohort study.  Ischemic  stroke patients are  scored based on Essen  scale, 
and follow‐up recurrent ischemic stroke after 3 months. Statistical analysis is done with the software SPSS 
16.0 for window. 
Results: 136 patients could be studied, Mean age is 67.74 ± 11.86; Male ratio is 58.1%. Number of patients 
with  recurrent  ischemic  stroke after 1 month, 3 months are 4  (2.9%), 18  (13.2%)  respectively. Patients with 
Essen score ≥3 had 4.01 times higher risk of recurrent ischemic stroke, whose Essen score <3. The area under the 
curve (AUC) was 0.67. 
Conclusion: The Essen scale  is a useful  instrument  for stratification of high‐risk patients with recurrent 
ischemic stroke. However, the accuracy of predictions based on the Essen scale is modest, it is simple point score 
and easy to use in daily clinical routine. 
Keywords: Essen Score, recurrent ischemic stroke. 
* Bộ môn thần kinh, ĐH Y Dược TP.HCM ** Ban chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh ủy Đồng Tháp 
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Nguyễn Hồng Vũ ĐT: 0906681422 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 484
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Mỗi năm taị Mỹ có khoảng 700 ngàn người 
đôt  quỵ,  trong  đó  có  200  ngàn  người  bị  đột 
quỵ  tái phát,  là nguyên nhân dẫn  tới  tử vong 
đứng hàng thứ ba tại các nước phát triển và là 
nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế(4,12). Những 
tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị đột quỵ cấp 
tính có thể giúp làm giảm tỷ lệ tử vong và tỷ lệ 
tàn phế, nhưng chính việc dự phòng  trước và 
sau  đột  quỵ mới mang  lại  nhiều  lợi  ích  hơn 
trong việc  làm giảm hậu quả do  đột quỵ gây 
ra. Cho đến nay theo nhiều công trình nghiên 
cứu,  ước  tính  tỷ  lệ  nhồi  máu  não  tái  phát 
khoảng  4,4  –  7,4 %(1,6,10,11). Nhồi máu  não  tái 
phát  sớm  có  tiên  lượng  xấu hơn  vì  thời  gian 
nằm viện kéo dài, mức độ tàn phế và tử vong 
do  thần  kinh  cao  hơn(10,11).  Vì  vậy  để  phòng 
ngừa  đột  quỵ  tái  phát  có  hiệu  quả  thì  phân 
tầng những bệnh nhân có nguy cơ cao rất cần 
thiết trong thực hành lâm sàng.  
Thang  điểm  Essen  vốn  chỉ  dựa  hoàn  toàn 
vào các dữ  liệu  lâm sàng được chứng minh có 
giá  trị phân  tầng nguy cơ và dự báo nhồi máu 
não tái phát qua nhiều nghiên cứu trên dân số, 
cũng  như  trong  bệnh  viện,  và  trên  nhiều  đối 
tượng khác nhau(5,8,13,14,15). Tại Việt Nam hầu như 
các  nghiên  cứu  đều  tập  trung  vào  tiên  lượng 
nhồi máu não lần đầu mà ít quan tâm đến nhồi 
máu não tái phát. Xuất phát từ lý do trên chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá nguy 
cơ  nhồi  máu  não  tái  phát  bằng  thang  điểm 
Essen” với mục  tiêu  cụ  thể  sau: Khảo  sát mối 
liên quan giữa một số yếu  tố nguy cơ với nhồi 
máu  não  tái  phát;  Xác  định  giá  trị  của  thang 
điểm Essen trong phân tầng và tiên lượng nhồi 
máu não tái phát. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Các bệnh nhân nhồi máu não cấp nhập khoa 
Nội  thần  kinh  Bệnh  viện  đa  khoa  Đồng  Tháp 
trong  thời  gian  từ  tháng  10/2012  đến  tháng 
12/2012 thỏa các tiêu chuẩn chọn bệnh và không 
phạm các tiêu chuẩn loại trừ. Các bệnh nhân này 
sẽ  được  theo dõi  liên  tục  3  tháng  để  đánh giá 
nguy cơ nhồi máu não tái phát và các biến cố tim 
mạch. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
‐ Bệnh nhân được chẩn đoán nhồi máu não 
theo tiêu chuẩn lâm sàng của Tổ chức Y thế giớ 
và có hình ảnh học (CT Scan sọ não hoặc MRI 
não). 
‐  Nhập  viện  trong  thời  gian  nghiên  cứu, 
được lựa chọn liên tiếp. 
‐ Nhập viện trong vòng 72 giờ sau khởi phát 
triệu chứng. 
‐  Những  bệnh  nhân  này  không  tử  vong 
trong thời gian nhập viện. 
‐ Có hình ảnh chụp cắt lớp vi tính (CT Scan) 
hoặc hình ảnh cộng hưởng từ (MRI). 
Tiêu chuẩn loại trừ 
‐ Bệnh nhân bị xuất huyết não, xuyết huyết 
khoang dưới nhện. 
‐  Bệnh  nhân  bị  cơn  thiếu máu  não  thoáng 
qua (TIA). 
‐ Bệnh nhân có bệnh rung nhĩ (loại trừ theo 
tiêu chí trong Thang điểm Essen). 
‐  Bệnh  nhân  không  hoàn  tất  nghiên  cứu, 
không đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Thiết kế nghiên cứu 
Đoàn hệ tiến cứu (prospective cohort). 
Chúng tôi tiến hành khai thác bệnh sử, tiền 
sử  trực  tiếp bệnh nhân hoặc những người  thân 
chứng kiến bệnh nếu bệnh nhân không tiếp xúc 
được. Bệnh nhân được thăm khám tổng quát và 
thần  kinh  để  phát  hiện  những  thiếu  sót  thần 
kinh hoặc bệnh lý kèm theo. 
Chụp CT Scan hoặc MRI não  (chụp  lại  lần 
hai nếu lần đầu không thấy rõ tổn thương).  
Làm các xét nghiệm cận  lâm sàng, khảo sát 
điện tim, siêu âm tim, siêu âm động mạch cảnh 
vào  các  ngày  tiếp  theo.  Theo  dõi  huyết  áp  để 
đánh giá hiện  tại có  tăng huyết áp hay không. 
Phân nhóm nguyên nhân  theo TOAST  sau khi 
có đủ thông tin. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Thần Kinh  485
Bệnh nhân được tính điểm theo thang điểm 
nguy cơ đột quỵ Essen ; Ngoài ra bệnh nhân còn 
được  đánh  giá  thêm một  số  yếu  tố  khác  như 
trình độ học vấn, điểm NIHSS, phân loại nguyên 
nhân theo TOAST, phân loại theo Bamford 
Các bệnh nhân được điều  trị nội khoa  theo 
phát đồ thống nhất. 
Theo dõi nhồi máu não tái phát, tử vong, các 
biến cố  tim mạch của bệnh nhân sau xuất viện 
dưới  hình  thức  gọi  điện  thoại  hoặc  tái  khám 
định kỳ tại thời điểm 1 tháng, 3 tháng. 
Số  liệu  được mã  hóa  và  xử  lý  bằng  phần 
mềm thống kê SPSS 16.0 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu 
Mẫu  nghiên  cứu  có  136  bệnh  nhân,  Tuổi 
trung bình 67,74 ± 11,86. Nam giới chiếm 58,1%, 
bệnh nhân  nhỏ  nhất  là  32  tuổi,  lớn  nhất  là  91 
tuổi. Nhón tuổi <65 chiếm tỷ lệ cao nhất (39,7%). 
Bệnh nhân có trình độ học vấn thấp từ cấp I trở 
xuống  chiếm  71,3%,  tiền  căn  tăng  huyết  áp 
60,3%, tiền căn nhồi máu não hay TIA 27,2%, và 
tiền căn đái  tháo đường 15,4%. Thời gian chụp 
CT Scan trung bình là 37 ± 5,9 giờ, điểm NIHSS 
trung bình là 8,41 ± 4,02, đa số có điểm NIHSS từ 
7  –  15  chiếm  53,7%,  điểm Essen  trung  bình  là 
2,48 ± 1,25. Điểm Essen thấp nhất là 0, cao nhất 
là 5, trong đó bệnh nhân có điểm Essen ≥3 chiếm 
47,05%.  Bệnh  nhân  tăng  huyết  áp  70,6%,  Đái 
tháo đường 26,5%, có hình ảnh tổn thương trên 
CT Scan sọ chụp lần đầu chiếm tỷ lệ 62,5%. Theo 
TOAST Nhóm nhồi máu não lỗ khuyết chiếm tỷ 
lệ cao nhất (42,6%), Theo Bamford nhồi máu não 
lỗ khuyết chiếm tỷ lệ cao nhất (59,6%), kế đến là 
nhồi  máu  não  tuần  hoàn  trước  một  phần 
(25,0%). 
Bảng 1: Tỷ lệ nhồi máu não tái phát, tử vong, có biến 
cố tim mạch 
 Sau 1 tháng Sau 3 tháng 
NMN tái phát, n (%) 4 (2,9) 18 (13,2) 
Tử vong, n (%) 0 (00,0) 1 (0,7) 
Biến cố TM, n (%) 0 (00,0) 4 (2,9) 
Bảng 2: Liên quan giữa một số yếu tố nguy cơ với 
nhồi máu não tái phát 
NMN tái phát 
Giá trị p
Có Không 
Tuổi >75 6 (17,1) 29 (82,9) 0,266 
Giới nữ 8 (14,0) 49 (86,0) 0,815 
Hút thuốc lá 1 (2,4) 40 (97,6) 0,015 
Nghiện rượu 3 (18,8) 13 (81,2) 0,488 
Tiền căn THA 13 (15,9) 69 (84,1) 0,267 
Tiền căn ĐTĐ 5 (23,8) 16 (76,2) 0,121 
Tiền căn NMCT 0 (0,00) 5 (100,0) 0,374 
Tiền căn bệnh TM 1 (16,7) 5 (83,3) 0,802 
TC NMN hay TIA 11(29,7) 26 (70,3) 0,001 
Đái tháo đường 9 (25,0) 27 (75,0) 0,015 
THA 13 (13,5) 83 (86,5) 0,871 
Tổn thương CT Scan 15 (17,6) 70 (82,4) 0,049 
Essen ≥3 14 (21,9) 50 (78,1) 0,005 
Bảng 3: Kết quả phân tích hồi quy đa biến 
Biến 
Hệ số 
tương 
quan 
Mức ý 
nghĩa 
Tỉ số 
chênh 
OR 
Khoảng tin 
cậy 95% 
Đái tháo đường 0,84 0,163 2,32 0,71 – 7,55
Hút thuốc lá -1,63 0,133 0,19 0,02 – 1,64
Tiền căn NMN 
hay TIA 1,49 0,011 4,46 1,42 – 14,01
Tổn thương trên 
CT Scan lần đầu 1,25 0,042 4,61 1,18 – 12,11
Điểm Essen 1,39 0,022 4,01 1,22 – 13,19
Qua phân tích hồi qui đa biến, chúng tôi xác 
định được 3 biến có  liên quan độc  lập với nhồi 
máu não tái phát là: Tiền căn nhồi máu não hay 
TIA,  tổn  thương  trên  CT  Scan  sọ  lần  đầu  và 
thang điểm Essen. 
Giá  trị  của  thang  điểm  Essen  trong  tiên 
lượng nhồi máu não tái phát 
1.00.80.60.40.20.0
1 - Specificity
1.0
0.8
0.6
0.4
0.2
0.0
Se
ns
itiv
ity
Hình 1: Đường cong ROC tiên lượng nhồi máu não 
tái phát sau 1 tháng; AUC=0,79 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 486
1.00.80.60.40.20.0
1 - Specificity
1.0
0.8
0.6
0.4
0.2
0.0
Se
ns
itiv
ity
Hình 2: Đường cong ROC tiên lượng nhồi máu não 
tái phát sau 3 tháng; AUC=0,67 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ nhồi máu 
não tái phát tích lũy sau 1 tháng và 3 tháng lần 
lượt là 4 BN (2,9%) và 14 BN (13,2%). Tỷ lệ nhồi 
máu  não  tái  phát  sau  1  tháng  của  chúng  tôi 
tương dương với các nghiên cứu khác  trên  thế 
giới, nhưng sau 3 tháng thì tỷ lệ tái phát cao hơn 
nhiều. Goldstein LB cho thấy tỷ lệ NMN tái phát 
sau  1  tháng  là  1,8%  và  sau  3  tháng  là  4,4%(6), 
nghiên cứu của Moroney JT cho kết quả là 4,4% 
sau 1 tháng và 7,4 % sau 3 tháng(10), của Sacco RL 
là 3,3 ± 0,4% sau 1 tháng(11); Lovett JK phân tích 
gộp từ 4 nghiên cứu cho thấy tỷ lệ NMN tái phát 
sau 1 tháng và 3 tháng lần lượt là 4,2% và 6,6%(7); 
Mohan KM tổng hợp và phân tích 13 nghiên cứu 
với 9115 bệnh nhân cho thấy tỷ lệ NMN tái phát 
sau 1  tháng  là 3,1%  (95%CI: 1,7 – 4,4)(9). So với 
nghiên cứu  tại Việt Nam của Bùi Châu Tuệ  thì 
khá tương đồng với tỷ lệ tái phát của NMN sau 
1  tháng, 3  tháng  lần  lượt  là 3,13% và 12,06%(2). 
Sự  khác  biệt  này  do  tỷ  lệ  BN  không  điều  trị 
phòng ngừa cao, ngoài ra có những BN theo dõi 
điều  trị  trong  thời gian ngắn nhận  thấy không 
hồi  phục  chức  năng  nên  chuyển  qua  điều  trị 
theo  phương  pháp  y  học  cổ  truyền  hoặc  có 
thuyên giảm thì ngưng điều trị, từ đó làm cho tỷ 
lệ NMN  tái phát sau 3  tháng  trong nghiên cứu 
của  chúng  tôi  nhìn  chung  còn  cao. Một  lý  do 
đáng lưu ý nữa đó là sự khác nhau về chủng tộc, 
người Châu Á  (trong đó có Việt Nam) có  tỷ  lệ 
đột  quỵ  cao  hơn  người Châu Âu,  vì  vậy  góp 
phần làm cho tỷ lệ tái phát cao hơn. 
Trong  nghiên  cứu  này  chúng  tôi  cũng  ghi 
nhận 4 BN (2,9%) có biến cố tim mạch và 1 BN 
(0,7%)  tử  vong  sau  3  tháng  theo  dõi.  Tỷ  lệ  tử 
vong  sau  đột quỵ nói  chung khá  cao,  thay  đổi 
tùy theo từng thời điểm và giữa các nghiên cứu 
trên các dân số khác nhau, từ 4,2% theo nghiên 
cứu  của  Weimar(15),  7,1%  trong  nghiên  cứu 
SCALA(13),  đến  14,8%  theo  Fitzek(5).  Nguyên 
nhân của sự khác nhau này chưa được giải thích 
rõ,  người  ta  đưa  ra  giả  thuyết  là  do  thiết  kế 
nghiên  cứu khác nhau, hiệu quả  của việc phát 
hiện,  điều  trị, chăm  sóc  đột quỵ, cũng như vai 
trò của việc kiểm soát và phòng ngừa các yếu tố 
nguy cơ khác nhau ở từng khu vực. 
Thang điểm Essen xuất phát  từ nghiên cứu 
so sánh hiệu quả của Aspirin và Clopidogrel ở 
bệnh  nhân  NMN.  Từ  khi  thành  lập  đến  nay 
thang  điểm  Essen  được  các  tác  giả  ứng  dụng 
trong nhiều nghiên cứu trên nhiều dân số và cỡ 
mẫu  khác  nhau  trong  tiên  lượng  NMN  tái 
phát.Điểm  Essen  trung  bình  trong  nghiên  cứu 
của chúng tôi là 2,48. Bệnh nhân có điểm Essen 
≥3 có nguy cơ nhồi máu não tái phát gấp 4,76 lần 
so với bệnh nhân có điểm Essen <3, với p=0,005. 
Khi đưa vào phân tích hồi quy đa biến thì điểm 
Essen vẫn còn ý nghĩa  thống kê với p=0,022 và 
tỷ số chênh sau khi hiệu chỉnh  là OR = 4,0. Giá 
trị tiên lượng tái phát NMN sau 1 tháng, 3 tháng 
của  thang  điểm Essen  chỉ  ở mức  trung bình  – 
khá, với diện  tích dưới  đường cong  (AUC)  lần 
lượt là 0,79 và 0,67. 
Nghiên  cứu  của  chúng  tôi khẳng  định khả 
năng tiên đoán nguy cơ NMN tái phát của thang 
điểm Essen giống như những nghiên cứu trước 
đã  thực  hiện.  Trong  nghiên  cứu  SCALA, 
Weimar C và cộng sự(13) cho rằng bệnh nhân có 
điểm Essen ≥3 có nguy cơ nhồi máu não tái phát 
gấp 1,96 lần so với bệnh nhân có điểm Essen <3 
(95% CI:  0,95‐  3,94),  với  diện  tích  dưới  đường 
cong  (AUC)  là  0,61  (p=0,006); Theo dõi  1  năm 
những bệnh nhân NMN bằng thang điểm Essen 
trong nghiên  cứu REACH, Weimar(14)  cũng ghi 
nhận nguy cơ nhồi máu não tái phát từ 1,82 lần 
ở  bệnh  nhân  0  điểm  tăng  lên  3,92  lần  ở  bệnh 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Thần Kinh  487
nhân 3 điểm và 6,84  lần ở bệnh nhân >6 điểm. 
Giá trị tiên lượng của thang điểm Essen cũng ở 
mức trung bình (AUC=0,6). 
Trong một nghiên cứu nhằm so sánh giá trị 
thật  sự của  thang  điểm Essen  trong  tiên  lượng 
NMN  tái  phát,  Weimar  C  và  cộng  sự(15)  tiến 
hành nghiên cứu đa  trung  tâm ở Đức cho  thấy 
thang điểm Essen có giá  trị hữu  ích phân  tầng 
nguy cơ NMN tái phát tương đương thang điểm 
SPI‐II,  Hankey,  LiLAC,  trong  đó  thang  điểm 
Essen đơn giản và dễ sử dụng trong thực hành 
lâm sàng hằng ngày; Meng X và cộng sự(8) ứng 
dụng thang điểm Essen để nghiên cứu NMN tái 
phát ở bệnh nhân Trung Quốc cũng kết luận cả 
hai thang điểm Essen và SPI – II có giá trị tương 
đương nhau trong phân tầng nguy cơ NMN tái 
phát (AUC = 0,6). 
Fitzek(5) ứng dụng thang điển Essen để theo 
dõi NMN  tái phát  sau  1  năm  ở BN Nhật Bản 
cũng  khẳng  định nguy  cơ NMN  tái phát  tăng 
cao rõ rệt ở bệnh nhân có điểm Essen >2 (p=0,01) 
và  khi  phân  tầng  nguy  cơ  thì  có  10,3%  bệnh 
nhân có điểm Essen ≤2 bị nhồi máu não tái phát, 
trong khi có đến 18% bệnh nhân có điểm Essen 
>2 bị nhồi máu não  tái phát, với  tỷ số chênh  là 
OR = 1.92 (p<0,02; 95% CI: 1,1 – 3,35). 
Như vậy, kết quả đã có và hiện tại cho thấy 
giá  trị  tiên  lượng  của  thang  điểm  Essen  chỉ  ở 
mức trung bình khá, nhưng  là công cụ hữu  ích 
để  phân  tầng  nguy  cơ NMN  tái  phát,  với  xu 
hướng bệnh nhân có điểm Essen ≥3 có nguy cơ 
tái phát cao hơn bệnh nhân có điểm Essen <3. 
KẾT LUẬN 
Tiền  căn NMN  hay  TIA,  có  hình  ảnh  tổn 
thương trên CT Scan sọ lần đầu là hai yếu tố có 
liên  quan  độc  lập  với  nhồi máu  não  tái  phát. 
Thang điểm nguy cơ đột quỵ Essen  là công cụ 
hữu ích để phân tầng những bệnh nhân có nguy 
cơ cao nhồi máu não tái phát; mặc dù giá trị tiên 
lượng chỉ ở mức  trung bình khá, nhưng Thang 
điểm Essen có ưu diểm là đơn giản, dễ sử dụng 
trong thực hành lâm sàng hằng ngày. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ay H, Gungor L, et al (2010). “A score to predict early risk of 
recurrence after ischemic stroke”. Neurology, 74, pp.128‐135. 
2. Bùi Châu Tuệ (2009). “Tiên lượng bệnh nhân đột quỵ tái phát 
bằng bảng điểm nguy cơ đột quỵ Essen”. Luận văn tốt nghiệp bác 
sĩ nội trú, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 
3. Chandratheva A, Geraghty OC, et al (2011). “Poor performance 
of  current  prognostic  scores  for  early  risk  of  recurrence  after 
minor stroke”. Stroke, 42, pp.632‐637. 
4. Dickerson LM, Carek PJ, et al  (2007). “Prevention of recurrent 
ischemic stroke”. Am Fam Physician, 76, pp.382‐388. 
5. Fitzek S, Leistritz L, et al (2011). “The ESSEN stroke risk score in 
one‐year follow‐up acute ischemic stroke patients”. Cerebrovasc 
Dis, 31(4), pp.400‐407. 
6. Goldstein LB, Perry A (1992). “Early recurrent ischemic stroke. 
A case‐ control study”. Stroke, 23, pp.1010‐ 1013. 
7. Lovett  JK, Coull AJ,  et  al(2004).  “Early  risk  of  recurrence  by 
subtype  of  ischemic  stroke  in  population‐based  incidence 
studies”. Neurology, 62, pp.569‐573. 
8. Meng X, Wang Y, et al  (2011). “Validation of  the Essen stroke 
risk  score  and  the  Stroke Prognosis  Instrument  II  in Chenese 
Patients”. Stroke, 42, pp.3619‐3620. 
9. Mohan KM, Wolfe CA, et al (2011). “Risk and cumulative risk of 
stroke  recurrence:  A  systematic  review  and  meta‐analysis”. 
Stroke, 42, pp.1489‐1494. 
10. Moroney  JT,  Bagiella  E,  et  al  (1998).  “Risk  Factors  for  Early 
Recurrence After Ischemic Stroke: The Role of Stroke syndrome 
and Subtype”. Stroke, 29, pp.2118‐ 2124. 
11. Sacco  RL,  Foulkes MA,  et  al  (1989).  “Determinants  of  early 
recurrence of cerebral infarction. The Stroke Data Bank”. Stroke, 
20, pp.983‐989. 
12. Vũ Anh Nhị (2009). “Tai biến mạch máu não”. Trong: Sổ tay lâm 
sàng thần kinh sau đại học, Bộ môn thần kinh, Trường Đại học Y 
Dược TP Hồ Chí Minh. Tr.73‐ 102. 
13. Weimar, Goertler M, et al (2008). “Predictive value of the Essen 
stroke  risk  score  and Ankle Brachial  Index  in  acute  ischemic 
stroke patients from 85 German stroke units”. J Neurol Neursurg 
Psychiatry, 79, pp.1339‐1343. 
14. Weimar C, Diener HC, et al (2009). “The Essen stroke risk score 
predicts  recurrent  cardiovascular  events: A  validation within 
the  REduction  of  Atherothrombosis  for  Continued  Health 
(REACH) registry”. Stroke, 40, pp.350‐ 354. 
15. Weimar C, Benemann J, Michalski D, et al (2010). “Prediction of 
recurrent  stroke and vascular death  in patients with  transient 
ischemic  attack  or  nondisabling  stroke:  A  prospective 
comparison of validated prognosis  scores”. Stroke, 41, pp.487‐
493. 
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013 
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014