Mở đầu: Probiotic đã được sử dụng trong nhiều lĩnh vực y khoa, bao gồm cả việc điều trị các bệnh nhiễm
khuẩn. Chúng được cho là có khả năng làm giảm một số nguy cơ gây ra bệnh răng miệng. Một số loài vi khuẩn
trong miệng có khả năng sinh ra các hợp chất sulfur bay hơi trong quá trình chuyển hóa, là nguyên nhân gây ra
mùi khó chịu ở miệng
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá khả năng làm thay đổi số lượng vi khuẩn sinh hợp
chất sulfur bay hơi trên bề mặt lưng lưỡi sau khi ăn sữa chua chứa probiotic trong 2 tuần, so sánh với sữa chua
không có bổ sung probiotic.
5 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 493 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đánh giá khả năng làm thay đổi số lượng vi khuẩn sinh hợp chất sulfur bay hơi trên bề mặt lưng lưỡi của sữa chua chứa probiotic, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 347
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG LÀM THAY ĐỔI SỐ LƯỢNG VI KHUẨN
SINH HỢP CHẤT SULFUR BAY HƠI TRÊN BỀ MẶT LƯNG LƯỠI
CỦA SỮA CHUA CHỨA PROBIOTIC
Võ Mạnh Hùng*, Đặng Vũ Ngọc Mai*, Huỳnh Công Nhật Nam*
TÓM TẮT
Mở đầu: Probiotic đã được sử dụng trong nhiều lĩnh vực y khoa, bao gồm cả việc điều trị các bệnh nhiễm
khuẩn. Chúng được cho là có khả năng làm giảm một số nguy cơ gây ra bệnh răng miệng. Một số loài vi khuẩn
trong miệng có khả năng sinh ra các hợp chất sulfur bay hơi trong quá trình chuyển hóa, là nguyên nhân gây ra
mùi khó chịu ở miệng
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá khả năng làm thay đổi số lượng vi khuẩn sinh hợp
chất sulfur bay hơi trên bề mặt lưng lưỡi sau khi ăn sữa chua chứa probiotic trong 2 tuần, so sánh với sữa chua
không có bổ sung probiotic.
Đối tượng ‐ Phương pháp: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, ngẫu nhiên, mù đôi, bắt chéo. 15 đối tượng
nghiên cứu được chia ngẫu nhiên làm 2 nhóm: nhóm I và nhóm II; và trải qua một quy trình nghiên cứu gồm 4
giai đoạn. Giai đoạn 1 và 3, hai nhóm trải qua thời kỳ rửa trong vòng 1 tuần. Ở giai đoạn 2, nhóm I ăn sữa chua
thường (không chứa probiotic), nhóm II ăn sữa chua chứa probiotic trong 2 tuần. Đến giai đoạn 4, hai nhóm đổi
loại sữa chua. Trước và sau giai đoạn 2 và 4, lấy mẫu mảng bám trên bề mặt lưng lưỡi các đối tượng nghiên
cứu, sau đó pha loãng, nuôi cấy trong môi trường thạch chọn lọc. Số lượng vi khuẩn sinh hợp chất sulfur bay hơi
trên bề mặt lưng lưỡi được đếm qua số lượng khúm vi khuẩn màu nâu hoặc đen trên bề mặt thạch.
Kết quả: Số lượng vi khuẩn sinh hợp chất sulfur bay hơi trên bề mặt lưng lưỡi giảm có ý nghĩa thống kê ở
nhóm ăn sữa chua chứa probiotic trong 2 tuần (p = 0,003). Trong khi đó, ở nhóm ăn sữa chua thường, số lượng
vi khuẩn sinh hợp chất sulfur bay hơi tăng không có ý nghĩa thống kê (p = 0,776).
Kết luận: Số lượng vi khuẩn sinh hợp chất sulfur bay hơi trên bề mặt lưng lưỡi giảm có ý nghĩa sau khi ăn
sữa chua chứa probiotic trong 2 tuần.
Từ khóa: probiotic, VSCs, sữa chua.
ABSTRACT
THE EFFECT OF PROBIOTIC‐CONTAINING YOGURT ON THE NUMBER OF VOLATILE SULFUR
COMPOUNDS‐PRODUCING BACTERIA ON THE DORSAL SURFACE OF TONGUE
Vo Manh Hung, Dang Vu Ngoc Mai, Huynh Cong Nhat Nam
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 347 ‐ 351
Background: The probiotic bacteria are used in many medical indications, including the treatment of disease
caused by bacteria. They are thought to reduce the risk of some oral diseases. Some bacteria produce volatile sulfur
compounds during their metabolism, which cause oral malodor.
Objectives: The aim of the study was to assess the effect of probiotic‐containing yogurt on the number of
volatile sulfur compounds‐producing bacteria on the dorsal surface of tongue after 2 weeks of daily eating.
Method: A double‐blind, randomized, cross‐over study was performed. 15 healthy subjects were randomized
into two groups: I and II. They followed over four periods. Periods 1 and 3 were 1‐week wash‐out periods. During
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP HCM
Tác giả liên lạc: BS. Võ Mạnh Hùng ĐT: 0986969471 Email: vomanhhung.rhm@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 348
period 2, the subjects in group I were given normal yogurt (non‐probiotic) and the subjects in group II were
given probiotic‐containing probiotic for 2 weeks (200g daily). Being cross‐over study, the yogurts were
interchanged in the two group in period 4. At the beginning and the ending of the periods 2 and 4, the plaque
sample on the dorsal surface of tongue was taken, diluted and cultured on selective bacteria growth media. The
number of volatile sulfur compounds‐producing bacteria on the dorsal surface of tongue were counted by the
number of black or brown colonies on the media.
Results: A statistically significant decrease (p = 0.003) of the number of volatile sulfur compounds‐
producing bacteria on the dorsal surface of tongue was recorded in the group using probiotic‐containing yogurt.
While in the group using normal yogurt, a statistically non‐significant increase (p = 0.776) of the number of
volatile sulfur compounds‐producing bacteria was recorded.
Conclusion: The number of volatile sulfur compounds‐producing bacteria on the dorsal surface of tongue
decreased statistically after 2 weeks of daily eating probiotic‐containing yogurt.
Keywords: probiotic, VSCs, yogurt.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Một trong những vấn đề răng miệng được
quan tâm hiện nay chính là hôi miệng. Nguyên
nhân chính gây hôi miệng là do vi khuẩn có khả
năng sinh ra các hợp chất sulfur bay hơi có mùi
trong miệng, chủ yếu là những vi khuẩn trên bề
mặt lưng lưỡi.
Ngày nay, probiotic cũng như liệu pháp
probiotic được các nhà khoa học nhắc tới như
một cách thức mới góp phần kiểm soát một số
bệnh răng miệng. Probiotic, hay còn gọi là lợi
khuẩn, được định nghĩa là những tổ chức vi sinh
vật sống, có khả năng đem lại lợi ích cho sức
khỏe con người khi được cung cấp một lượng
nhất định(3).
Một trong những sản phẩm chứa probiotic
thông dụng chính là sữa chua. Sữa chua đã được
chứng minh có ảnh hưởng tốt đến sức khỏe con
người thông qua cơ chế giữ hệ vi sinh vật cân
bằng trong ruột hay cơ chế cạnh tranh giữa các
vi khuẩn trong sữa chua với các vi khuẩn có
hại(2). Sữa chua chứa lợi khuẩn cũng có hiệu quả
nhất định lên hệ vi khuẩn trong miệng, giúp cải
thiện tình trạng bệnh lý vùng miệng như nha
chu, sâu răng, hôi miệng... Caglar (2005) đã thực
hiện một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, bắt
chéo trên 26 đối tượng, sử dụng sữa chua chứa
Bifidobacterium animalis trong 2 tuần, cho thấy
sữa chua có khả năng làm giảm số lượng
Streptococcus mutans và lactobacilli trong nước
bọt(1).
Đến nay, chưa có một nghiên cứu về khả
năng của sữa chua chứa probiotic sản xuất tại
Việt Nam làm thay đổi các chỉ số liên quan đến
tình trạng hôi miệng. Nghiên cứu được thực
hiện nhằm đánh giá khả năng làm thay đổi số
lượng vi khuẩn sinh hợp chất sulfur bay hơi trên
bề mặt lưng lưỡi sau khi ăn sữa chua chứa
probiotic trong 2 tuần, so sánh với sữa chua
không có bổ sung probiotic với 2 mục tiêu cụ thể
sau:
‐ So sánh số lượng vi khuẩn sinh hợp chất
sulfur bay hơi trên bề mặt lưng lưỡi trước và sau
khi ăn sữa chua chứa và không chứa probiotic
trong 2 tuần.
‐ So sánh sự thay đổi số lượng vi khuẩn sinh
hợp chất sulfur bay hơi trên bề mặt lưng lưỡi
giữa hai nhóm ăn hai loại sữa chua.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn mẫu: Khỏe mạnh, không có
bệnh toàn thân; không có bệnh vùng miệng (sâu
răng, viêm nướu từ trung bình đến nặng, viêm
nha chu, các bệnh viêm nhiễm vùng miệng, khô
miệng...); không sử dụng kháng sinh trong vòng
1 tháng trước khi tham gia nghiên cứu; không
mang phục hình, khí cụ chỉnh hình; không hút
thuốc; không dị ứng với sữa và các sản phẩm từ
sữa.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 349
Trong suốt thời gian thực hiện nghiên cứu,
loại trừ các đối tượng sử dụng kháng sinh, đồ
uống có cồn; có điều trị các bệnh toàn thân hay
bệnh răng miệng.
Mẫu nghiên cứu cuối cùng gồm 15 sinh viên
khoa Răng Hàm Mặt, độ tuổi từ 18‐24.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng,
ngẫu nhiên, mù đôi, bắt chéo.
Quy trình nghiên cứu:
Nghiên cứu gồm 2 lần thử nghiệm với 1 thời
kỳ rửa trước lần thử nghiệm đầu tiên và 1 thời
kỳ rửa xen kẽ . 15 đối tượng được chia ngẫu
nhiên làm 2 nhóm: nhóm I gồm 8 người, nhóm
II gồm 7 người.
Giai đoạn 1: là thời kỳ rửa trước lần thử nghiệm đầu
tiên
7 ngày trước khi lấy mẫu lần 1, các đối tượng
được cung cấp một tờ cẩm nang hướng dẫn, bàn
chải không có mặt chải lưỡi và kem đánh răng
không có chất kháng khuẩn, không sử dụng
thêm các biện pháp vệ sinh răng miệng khác
như nước súc miệng, chải lưỡi.
Lần lấy mẫu 1: Kể từ lần chải răng cuối cùng
tối hôm trước đến buổi sáng lấy mẫu, các đối
tượng không vệ sinh răng miệng, không ăn,
không uống bất kì loại nước nào trừ nước lọc.
Các đối tượng được lấy mẫu mảng bám trên bề
mặt lưng lưỡi. Dùng bàn chải răng vô khuẩn đặt
trên lưng lưỡi, sao cho đầu bàn chải ở đỉnh V
lưỡi, ấn bàn chải nhưng không kéo bàn chải di
chuyển. Hòa lượng mảng bám dính trên bàn
chải vào 20ml dung dịch nước cất vô trùng đựng
trong ống nghiệm. Chuyển các mẫu vào phòng
xét nghiệm vi sinh.
Giai đoạn 2: là lần thử nghiệm đầu tiên
Các đối tượng được nhận sữa chua và ăn mỗi ngày 2
lần, mỗi lần 1 hộp, khối lượng 100g, sau bữa trưa và
bữa tối trong 14 ngày tiếp theo. Các hộp sữa chua
được che nhãn hiệu bằng decal để đối tượng nghiên
cứu không biết đang ăn loại sữa chua nào. Nhóm I ăn
sữa chua thông thường, nhóm II ăn sữa chua chứa
probiotic.
Lần lấy mẫu 2: thực hiện vào buổi sáng sau
khi kết thúc 14 ngày ăn sữa chua. Cách thực hiện
tương tự lần lấy mẫu 1.
Giai đoạn 3: là thời kỳ rửa xen kẽ
Tất cả các đối tượng nghiên cứu lặp lại quá
trình rửa tương tự giai đoạn 1.
Lần lấy mẫu 3: thực hiện vào buổi sáng sau
khi kết thúc 7 ngày của giai đoạn 3.
Giai đoạn 4: là lần thử nghiệm lần thứ 2
Thực hiện tương tự giai đoạn 2, trong đó 2
nhóm nghiên cứu đổi loại sữa chua đã ăn trong
giai đoạn 2.
Lần lấy mẫu 4: thực hiện vào buổi sáng sau
khi kết thúc 14 ngày của giai đoạn 4.
Qui trình trong phòng xét nghiệm vi sinh
Pha loãng mẫu với tỉ lệ 1/5. Lấy 50μl dung
dịch đã pha loãng cấy dàn trải lên đĩa thạch
chứa môi trường nuôi cấy chọn lọc vi khuẩn
sinh hợp chất sulfur bay hơi. Ủ trong môi trường
yếm khí ở 370C trong 7 ngày. Sau thời gian ủ,
đếm số khúm vi khuẩn có màu nâu hoặc đen
mọc trên mặt đĩa thạch. Tính ra số đơn vị tạo
khúm trên mỗi đơn vị thể tích.
KẾT QUẢ
Số lượng vi khuẩn sinh hợp chất sulfur
bay hơi trước và sau khi ăn mỗi loại sữa
chua
Bảng 1: Số đơn vị tạo khúm (x105 CFU/ml) trung bình của hai nhóm trước và sau khi ăn hai loại sữa chua.
Loại sữa chua n Trước (x 105 CFU/ml) Sau (x 105 CFU/ml) p
Sữa chua thường 15 52,73 ± 41,46 64,20 ± 111,92 00,776*
Sữa chua probiotic 15 64,07 ± 40,07 19,07 ± 12,65 0,003*
(*) Test Wilcoxon.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 350
Đối với nhóm ăn sữa chua thường, số lượng
vi khuẩn sinh hợp chất sulfur bay hơi tăng, sự
thay đổi này không có ý nghĩa thống kê. Đối với
sữa chua probiotic, số lượng vi khuẩn sinh hợp
chất sulfur bay hơi giảm, sự thay đổi này rất có ý
nghĩa thống kê (p < 0,01).
Sự thay đổi số lượng vi khuẩn sinh hợp chất sulfur bay hơi sau khi ăn 2 loại sữa chua
Bảng 2: Số đơn vị tạo khúm (x105 CFU/ml) thay đổi trung bình của hai nhóm sau khi ăn hai loại sữa chua.
n Trước (x 105 CFU/ml) Sau (x 105 CFU/ml) Thay đổi (x 105 CFU/ml)
Sữa chua thường 15 52,73 ± 41,46 64,20 ± 111,92 tăng 11,47 ± 109,07
Sữa chua probiotic 15 64,07 ± 40,07 19,07 ± 12,65 giảm 45,00 ± 47,46
p = 0,033**
(**) Phép kiểm định phi tham số Mann ‐ Whitney U.
Nhóm ăn sữa chua thường tăng trung bình
11,47 x 105 (CFU/ml), trong khi nhóm sữa chua
probiotic làm giảm trung bình 45 x 105 (CFU/ml)
trong 2 tuần. So sánh số đơn vị tạo khúm thay
đổi trung bình của hai nhóm, nhận thấy sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Bảng 3: Tỉ lệ (%) thay đổi số lượng vi khuẩn sinh
hợp chất sulfur bay hơi trung bình của hai nhóm sau
khi ăn hai loại sữa chua.
Loại sữa chua n Tỉ lệ thay đổi (%)
Sữa chua thường 15 tăng 51,82 ± 181,05 (%)
Sữa chua probiotic 15 giảm 42,11 ± 83,73 (%)
Chọn một vài khúm vi khuẩn đặc trưng có
màu nâu hoặc đen, đứng riêng lẻ trên bề mặt
thạch, thực hiện phép nhuộm gram.Quan sát
dưới kính hiển vi thấy hầu hết là trực khuẩn,
phẩy khuẩn... gram âm.
BÀN LUẬN
Phương pháp thiêt kế bắt chéo cùng với các
thời kỳ rửa trong nghiên cứu này giúp kiểm soát
được những yếu tố gây nhiễu từ chính các đối
tượng nghiên cứu ảnh hưởng lên kết quả. Số
lượng vi khuẩn sinh hợp chất sulfur bay hơi
trước khi ăn mỗi loại sữa chua không có sự khác
biệt giữa 2 nhóm (bảng 4).
Bảng 4: Số đơn vị tạo khúm vi khuẩn (CFU/ml) sinh
VSCs trung bình của hai nhóm trước khi ăn hai loại
sữa chua
Loại sữa chua n Trước x105 (CFU/ml)
Sữa chua thường 15 46,80 ± 37,47
Sữa chua probiotic 15 62,05 ± 35,63
p = 0,325***
(***) phép kiểm định phi tham số Mann ‐ Whitney U.
Môi trường thạch nuôi cấy sử dụng trong
nghiên cứu là thạch Columbia base bổ sung
glutathione và chì acetate. Glutathione được vi
khuẩn sử dụng trong quá trình chuyển hóa và
tạo ra hydro sulfide. Chì acetate phản ứng với
hydro sulfide tạo nên kết tủa chì sulfide màu
đen. Vì vậy các vi khuẩn sinh hợp chất sulfur
bay hơi mọc thành khúm màu nâu hoặc đen trên
môi trường nuôi cấy(5).
Hojo (2005) đã thực hiện nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng trên 24 đối tượng bằng cách
cho ăn 180g sữa chua mỗi ngày và nhận thấy
sau 6 tuần chỉ số hydro sulfide giảm(4). Nghiên
cứu của chúng tôi khảo sát trên vi khuẩn là
nguồn sinh hợp chất bay hơi này và cũng cho
thấy số lượng vi khuẩn giảm.
Nghiên cứu này vẫn còn điểm hạn chế vì
thực hiện với cỡ mẫu nhỏ, đối tượng chọn lựa
không phải là những người có hôi miệng thật
sự. Các kết quả có được mới chỉ là bước đầu
trong nghiên cứu về tác dụng của probiotic lên
các chỉ số liên quan tình trạng hôi miệng. Cần có
những nghiên cứu với cỡ mẫu lơn hơn, với đối
tượng có tình trạng hôi miệng thật sự và khảo
sát trên nhiều chỉ số khác nhau.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 351
KẾT LUẬN
So sánh số lượng vi khuẩn sinh VSCs trên
bề mặt lưng lưỡi trước và sau khi ăn sữa
chua chứa probiotic, sữa chua không chứa
probiotic trong 2 tuần
Đối với sữa chua thông thường: số lượng
vi khuẩn VSCs trên bề mặt lưng lưỡi trước khi
ăn là 52,73 ± 41,46 x 105 (CFU/ml), sau khi ăn là
64,20 ± 111,92 x 105 (CFU/ml). Số lượng vi
khuẩn tăng 51,82% nhưng không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05).
Đối với sữa chua probiotic: lượng vi khuẩn
sinh VSCs trên bề mặt lưng lưỡi trước khi ăn là
64,07 ± 40,07 x 105 (CFU/ml), sau khi ăn là 19,07 ±
12,65 x 105 (CFU/ml). Số lượng vi khuẩn giảm
42,11% và có ý nghĩa thống kê (p < 0,01).
So sánh sự thay đổi số lượng vi khuẩn
sinh VSCs trên bề mặt lưng lưỡi giữa hai
nhóm sau khi ăn 2 loại sữa chua trong 2
tuần
Nhóm ăn sữa chua chứa probiotic sau 2
tuần có số lượng vi khuẩn sinh VSCs trên bề
mặt lưng lưỡi giảm rõ rệt so với nhóm ăn sữa
chua thường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Caglar E, Sandalli N, Twetman S, Kavaloglu S, Ergeneli S,
Selvi S (2005). Effect of yogurt with Bifidobacterium DN‐173
010 on salivary mutans streptococci and lactobacilli in young
adults. Acta Odontol Scand; 63: 317‐320.
2. Elli M, Callegari ML, Ferrari S (2006). Survival of yogurt
bacteria in the human gut. Appl Environ Microbiol; 72: 5113‐
5117
3. FAO (2001) Health and nutritional properties of probiotics in
food including powder milk with live lactic acid bacteria.
Food and Agriculture Organization of the United Nations.
4. Hojo K, Yashima A, Gomi K, Maeda N (2005). Effects of
Yoghurt on the Human Oral Microbiota and Halitosis. The
83rd General Session, International Association for Dental
Research, Baltimore, MD.
5. Turng BF, Minah GE, Falker WA (1997). Development of an
agar medium for detection of oral H2S producing organisms. J
Dent Res 1997; 76:226 (IADR Abstracts).
Ngày nhận bài báo: 22/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo:15/12/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 347_105.pdf